Một hôm, Lý Văn Tú cưỡi con ngựa trắng, từ nơi sư phụ quay về nhà. Đi được nửa đường, bỗng thấy ráng đỏ nổi đầy trời, khí hậu sa mạc thay đổi thất thường, gió bấc mỗi lúc một mạnh, xem ra một cơn bão tuyết đang kéo đến. Nàng giục ngựa phóng nhanh, thấy những người chăn cừu đang lùa gia súc về chuồng, trên trời chim chóc không còn thấy con nào nữa. Nàng vừa về đến nơi, bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, một người cưỡi ngựa chạy tới. Lý Văn Tú hơi kinh ngạc: “Hiện nay bão tuyết đến nơi, sao lại còn ai ra khỏi nhà đây?”. Tiếng vó ngựa đến gần, thấy trên lưng là một người khoác một tấm áo khoác bằng len đỏ, chính là một người đàn bà Cáp Tát Khắc.
Nhãn lực Lý Văn Tú bây giờ khác hai năm trước xa, từ xa đã nhìn rõ người đàn bà đó thân hình mảnh dẻ, mặt mũi xinh xắn, chính là A Mạn. Lý Văn Tú không muốn hai người gặp nhau, xoay đầu ngựa, chạy đến phía nam một ngọn đồi nhỏ, náu mình sau tàn cây. Nàng thấy con ngựa của A Mạn cũng chạy về hướng ngọn đồi, vừa đến bên chân núi bỗng huýt một tiếng còi, trên đám cây trên đồi cũng có tiếng đáp lại. A Mạn nhảy xuống ngựa, một người đàn ông chạy đến bên nàng, hai người ôm chặt lấy nhau, vọng ra tiếng cười ròn rã. Người thanh niên kia nói:
– Sắp có bão tuyết đến nơi rồi, sao em còn ra đây?
Chính là tiếng của Tô Phổ. A Mạn cười đáp:
– Anh ngốc này, sao anh biết sắp có bão tuyết, vậy mà vẫn còn liều mình đứng đây đợi em?
Tô Phổ cười đáp:
– Hai đứa mình ngày nào cũng gặp nhau nơi đây, so với ăn cơm còn quan trọng hơn. Dù phải xông vào đao kiếm, anh cũng vẫn đến đây chờ em.
Hai người sánh vai ngồi trên ngọn đồi nói chuyện yêu thương, Lý Văn Tú chỉ cách mấy gốc cây, nghe mà ngơ ngẩn. Tiếng hai người có lúc rất lớn, nghe thật rõ ràng, có lúc lại chỉ rì rầm, không nghe thấy gì cả. Cũng có khi hai người không biết nói chuyện gì vui mà cùng cười rộ cả lên.
Thế nhưng dù hai người có nói lớn, Lý Văn Tú cũng chỉ vào tai này, ra tai kia, nàng chẳng muốn nghe lén hai người nói chuyện tình. Trước mắt nàng chỉ thấy hai đứa trẻ, một nam một nữ ngồi nói chuyện trên triền cỏ. Đứa trẻ con trai là Tô Phổ, còn đứa bé gái chính là nàng, hai người đang kể chuyện xưa, những chuyện gì thì nàng cũng quên rồi, nhưng hình ảnh mười năm trước, vẫn rõ ràng hiện ra trước mắt…
Tuyết từng mảng như lông ngỗng rơi xuống, phủ lên trên mình ba con ngựa, trên ba người. Tô Phổ và A Mạn nói chuyện đang vui, chẳng để ý đến, còn Lý Văn Tú cũng không cảm thấy gì. Bông tuyết bắt đầu tụ lại trên đầu ba người, cả ba đầu tóc trắng xóa.
Mấy chục năm sau, tóc cả ba người cũng đều sẽ bạc, thế nhưng Tô Phổ và A Mạn vẫn còn cười nói vui vầy, còn Lý Văn Tú hẳn vẫn cô đơn tịch mịch? Nàng vẫn còn nhớ đến người xưa, liệu người xưa có còn chút nào hình bóng của nàng không?
Đột nhiên trên cành có những tiếng kêu lộp bộp, A Mạn và Tô Phổ hai người cùng nhỏm dậy, kêu lên:
– Mưa đá, mau về thôi.
Hai người liền nhảy lên ngựa. Lý Văn Tú nghe hai người kêu lên cũng giật mình tỉnh mộng, những mảnh băng bằng ngón tay đã rơi trên đầu, trên mặt, trên tay, thật là đau đớn, vội vàng cởi chiếc mũ lông trên yên đội lên đầu phi ngựa chạy về.
Khi nàng về đến nhà thấy trong ngõ buộc hai con ngựa, một con chính là ngựa A Mạn cỡi. Lý Văn Tú ngạc nhiên: “Hai người đến nhà ta làm gì thế này?”.
Khi đó mưa đá mỗi lúc một lớn, nàng liền dắt ngựa đi theo cửa sau mà vào, nghe tiếng oang oang của Tô Phổ:
– Lão bá bá, mưa đá lớn quá, chúng tôi chắc phải đợi thêm một lúc nữa.
Kế lão đáp:
– Bình thời mời các vị cũng không đến, để tôi xuống đun một ấm trà.
Từ khi bọn Tấn Uy tiêu cuộc đến thảo nguyên cướp bóc, người Cáp Tát Khắc cực kỳ thù hận người Hán, tuy Kế lão ở đây đã lâu, người Cáp Tát Khắc lại hiếu khách, không đến nỗi tống cổ ông ra khỏi khu vực của họ, nhưng tất cả đều rất ít lai vãng. Chỉ khi nào có chuyện đại hỉ, người ta mới đến mua rượu của ông, chỉ khi nào gia súc bị bệnh không cách nào trị được, người ta mới đến mời ông chữa giùm. Lều của A Mạn và Tô Phổ lúc ấy lại ở xa, nếu không phải vì trốn bão tuyết, thì có đến mười năm nữa chưa chắc họ đã đến nhà ông một lần.
Kế lão xuống bếp, thấy Lý Văn Tú mặt mày đỏ gay, đang ngơ ngẩn xuất thần, nói:
– A… ngươi về…
Lý Văn Tú vội vàng nhảy tới, giơ tay bịt miệng ông lại, ghé tai ông nói thầm:
– Đừng để họ biết cháu đang ở đây.
Kế lão thấy thật là lạ lùng nhưng cũng gật đầu. Một lúc sau, Kế lão đem rượu sữa dê, nhũ lạc, hồng trà ra để tiếp khách. Lý Văn Tú ngồi bên bếp lửa, văng vẳng nghe thấy tiếng cười nói của Tô Phổ và A Mạn từ nhà trên vọng xuống, khiến một ý nghĩ nàng không sao chế ngự nổi: “Ta muốn ra gặp chàng, nói với chàng vài câu”. Thế nhưng khi nghĩ đến những lời chửi rủa của cha Tô Phổ và cái roi của ông ta, tuy đã mười năm qua nhưng không lúc nào tiếng roi của Tô Lỗ Khắc không vang vang trong đầu nàng.
Kế lão quay lại bếp, đưa cho nàng một bát trà nóng trộn váng sữa đưa cho nàng, trong ánh mắt đầy vẻ từ ái. Hai người sống chung đã mười năm, thật chẳng khác nào ông nội với cháu gái, hai bên lo lắng cho nhau, người kia suy nghĩ gì trong lòng, người này cũng hiểu được. Tuy nhiên hai người vì không phải là ruột thịt nên không có được cái cảm ứng tương liên như tình ông cháu thực.
Lý Văn Tú đột nhiên hạ giọng nói:
– Cháu không thay quần áo, giả làm một thanh niên Cáp Tát Khắc đến nhà xin tránh bão tuyết, ông đừng để lộ ra nhé.
Không đợi Kế lão trả lời, lẻn qua cửa sau dắt con ngựa trắng, xông vào trong trận bão đang mịt mù trời đất, lặng lẽ đi thật xa. Nàng đi một mạch đến hơn một dặm, mới nhảy lên lưng ngựa chạy một vòng rồi tiến về phía cửa trước. Trong cơn bão, tưởng như mây đen trên trời như sắp ép xuống đầu. Nàng sống nơi Hồi Cương mười hai năm, chưa bao giờ thấy trời đất lại quái lạ đến thế, trong lòng không khỏi sợ hãi, vội giục ngựa chạy thẳng đến cửa nhà giơ tay gõ, nói tiếng Cáp Tát Khắc:
– Làm ơn cho vào! Làm ơn cho vào!
Kế lão mở cửa, cũng dùng tiếng Cáp Tát Khắc hỏi lại:
– Huynh đệ, cái gì thế?
Lý Văn Tú nói:
– Trận bão tuyết này không thể đi được, lão trượng, làm ơn cho tôi tránh gió tuyết ở tôn xứ một lát.
Kế lão đáp:
– Được chứ, được chứ! Có ai đi ra ngoài mà mang theo nhà mình được đâu. Đã có hai người bạn khác cũng đang tránh tuyết trong này rồi. Mời bạn vào đây.
Nói xong nhường cho Lý Văn Tú tiến vào, lại hỏi:
– Bạn đi đâu đây?
Lý Văn Tú nói:
– Tôi định đi lên vùng Hắc Thạch, không biết còn bao xa?
Trong bụng nghĩ thầm: “Kế gia gia đóng kịch giỏi lắm, không có chút sơ hở nào”. Kế lão giả vờ kinh ngạc nói:
– Ối chao, nếu muốn đi Hắc Thạch ư? Thời tiết xấu thế này, hôm nay không thể nào đến được đâu, chi bằng nghỉ lại đây một đêm, sáng mai hãy đi. Chứ không nếu lạc đường thì thật khổ.
Lý Văn Tú đáp:
– Thế cũng được.
Nàng đi vào trong nhà, phủi sạch tuyết bám trên người. Tô Phổ và A Mạn hai người ngồi sánh vai bên một lò sưởi. Tô Phổ cười nói:
– Huynh đệ, chúng tôi cũng đang tránh tuyết đây, mời lại sưởi chút cho ấm.
Lý Văn Tú đáp:
– Vâng, cám ơn bạn.
Nàng đi đến ngồi xuống bên cạnh y. A Mạn mỉm cười chào khách. Tô Phổ không gặp Lý Văn Tú bảy tám năm nay, nàng từ một cô gái nhỏ đã thành một thiếu nữ, lại mặc giả trai, làm sao y còn nhận ra được? Kế lão đem đồ ăn thức uống lên, Lý Văn Tú vừa ăn vừa hỏi tên tuổi ba người, nói mình tên là A Tư Thác, là một mục nhân ở một bộ lạc Cáp Tát Khắc cách đây hai trăm dặm.
Tô Phổ không ngừng đến bên cửa sổ nhìn ra xem xét bầu trời, thực ra, chỉ cần nghe tiếng gió thổi vào tường, chẳng phải nhìn mây cũng biết được rằng chưa thể lên đường được. A Mạn lo lắng nói:
– Anh nghĩ gió có thổi bay cái nhà này đi được không?
Tô Phổ nói:
– Ta lo là lo tuyết rơi xuống quá nhiều, nóc nhà chịu không nổi. Để ta leo lên mái nhà xúc bớt tuyết đi.
A Mạn nói:
– Đừng để gió thổi anh bay xuống đấy nhé.
Tô Phổ cười đáp:
– Dưới đất tuyết đóng dày thế này, dẫu có bị ngã xuống cũng không chết đâu.
Lý Văn Tú tay run run cầm bát trà, trong đầu bao nhiêu tạp niệm, không biết thế nào cho phải. Người bạn hồi thơ ấu nay ngồi ngay bên cạnh mình, y có thực là không nhận ra mình không? Hay là biết đó mà giả vờ như không biết? Y đã hoàn toàn quên hẳn mình, hay trong lòng vẫn còn nhớ nhung, nhưng không muốn cho A Mạn biết đấy thôi?
Trời tối dần, Lý Văn Tú ngồi xa một bên. Tô Phổ và A Mạn tay cầm tay, nho nhỏ truyện trò những câu người ngoài thấy hoàn toàn không ý nghĩa, nhưng đối với một cặp tình nhân thì là những lời dịu dàng ngọt ngào biết bao nhiêu. Ánh lửa bập bùng chiếu lên mặt hai người khi sáng khi tối.
Đột nhiên, Lý Văn Tú nghe thấy tiếng ngựa đạp trên tuyết, một người đang cưỡi ngựa chạy về hướng căn nhà. Thảo nguyên tuyết đóng đã nhiều, mỗi bước chân ngựa mất rất nhiều hơi sức nên chạy không thể nào nhanh được. Tiếng chân ngựa càng lúc càng gần, Kế lão cũng đã nghe thấy, lẩm bẩm nói:
– Lại có một người đến tránh bão nữa đây.
Tô Phổ và A Mạn hoặc chưa nghe thấy, hoặc nghe thấy mà không để ý, hai người vẫn nắm tay nhau, nói chuyện rù rì. Một lúc sau, người cưỡi ngựa đã đến trước cửa, tiếp đến là tiếng đập cửa bình bình bình. Tiếng đập thật là thô bạo, không lễ độ như kẻ đến xin trú ẩn. Kế lão nhíu mày, đi ra mở cửa. Chỉ thấy một gã cao to mặc áo da cừu, mặt đầy râu ria, bên hông đeo một thanh trường kiếm, lớn tiếng nói:
– Bên ngoài gió tuyết lớn quá, ngựa chạy không nổi.
Giọng nói tiếng Cáp Tát Khắc chưa sõi, mắt gườm gườm, nhìn những người trong nhà như dò xét. Kế lão đáp:
– Mời vào trong uống một chén rượu.
Nói xong bưng một chén rượu đưa cho y. Người kia uống một hơi cạn sạch, ngồi xuống bên cạnh đống lửa, cởi áo ngoài ra, thấy hai bên hông đeo hai thanh đoản kiếm sáng lấp loáng. Một thanh kiếm cán màu vàng, một thanh kiếm cán màu bạc.
Lý Văn Tú vừa nhìn thấy hai thanh tiểu kiếm trong lòng chấn động, cổ họng dường như có vật gì chặn lại, mắt hoa lên, nghĩ thầm: “Đây là song kiếm của mẹ ta”. Khi Kim Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử chết đi, Lý Văn Tú tuy còn nhỏ, nhưng đôi kiếm này nhận biết ngay, không thể nào lầm được. Nàng đưa mắt liếc nhìn gã kia, nhận ra ngay, gã chính là một trong ba người thủ lãnh năm xưa chỉ huy cả bọn đuổi theo truy sát cha mẹ nàng. Tuy đã mười hai năm qua, tướng mạo nàng đã hoàn toàn đổi hẳn nhưng một gã hơn ba mươi tuổi có thêm mười hai năm cũng chẳng thay đổi bao nhiêu. Nàng sợ y nhận ra mình, không dám nhìn y lâu, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì cơn bão tuyết này thì ta đâu có gặp lại Tô Phổ, cũng đâu có gặp lại gã ác tặc này”.
Kế lão nói:
– Khách nhân từ đâu đến đây? Có đi đến nơi nào xa không?
Gã kia ậm ừ, tự mình rót uống một chén rượu nữa. Khi đó bên đống lửa ngồi năm người, Tô Phổ không còn có thể nói chuyện riêng với A Mạn được, y nhìn Kế lão chăm chăm rồi nói:
– Lão bá bá, tôi muốn hỏi thăm một người.
Kế lão hỏi lại:
– Ai thế?
Tô Phổ đáp:
– Là người hồi bé hay cùng tôi chơi đùa, là một cô bé người Hán…
Y nói đến đây, tim Lý Văn Tú bỗng thót lên, vội quay đầu nhìn sang chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào y. Tô Phổ nói tiếp:
– Cô ta tên là A Tú, về sau qua bảy tám năm, không còn gặp cô ta nữa. Cô ta ở chung với một ông già người Hán, chắc là ông phải không?
Kế lão tằng hắng vài cái, nhìn mặt Lý Văn Tú để hỏi xem ý thế nào. Nhưng Lý Văn Tú quay đầu sang chỗ khác, ông ta không biết phải trả lời sao cho phải, chỉ ậm ừ.
Tô Phổ lại nói:
– Cô ta hát thật là hay, người ta bảo rằng cô ta hát còn hay hơn tiếng chim thiên linh hót nữa. Thế nhưng mấy năm qua, tôi không còn được nghe nàng hát nữa. Cô ta có còn ở đây nữa không?
Kế lão ngập ngừng, ấp úng nói:
– Không, không, cô ta không… không có ở đây…
Lý Văn Tú xen vào:
– Ngươi hỏi cô gái người Hán, ta biết rồi. Cô ta chết đã mấy năm nay.
Tô Phổ giật mình kinh hãi hỏi:
– A, cô ta chết rồi ư, sao mà chết thế?
Kế lão nhìn Lý Văn Tú, nói:
– Bị bệnh… bệnh…
Tô Phổ mắt hơi hoen lệ, nói:
– Tôi khi còn bé thường hay cùng cô ta đi chăn cừu, cô ta hát cho tôi nghe nhiều bài lắm, cũng kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ. Mấy năm không gặp, nào ngờ cô ta… cô ta đã chết rồi.
Kế lão thở dài:
– Ôi, thật tội nghiệp cho con bé.
Tô Phổ nhìn ngọn lửa, lặng thinh xuất thần, nói tiếp:
– Nàng nói cha mẹ đều bị bọn ăn cướp giết chết, lênh đênh cô khổ lạc loài đến đây…
A Mạn hỏi:
– Thế cô đó có xinh đẹp không?
Tô Phổ đáp:
– Khi đó ta còn nhỏ, không nhớ nữa. Chỉ còn nhớ cô ta hát thật hay mà kể chuyện cũng thật hay…
Gã đàn ông lưng đeo hai thanh tiểu kiếm đột nhiên nói:
– Ngươi nói là một cô gái người Hán? Cha mẹ cô ta bị hại, chỉ có một mình đến đây?
Tô Phổ đáp:
– Đúng đó, ông có biết cô ta không?
Gã kia không đáp, lại hỏi tiếp:
– Có phải cô ta cưỡi một con ngựa trắng, đúng không?
Tô Phổ đáp:
– Đúng rồi, ông có gặp cô ta rồi sao?
Gã đàn ông đột nhiên đứng dậy, hầm hầm nhìn Kế lão gằn giọng hỏi:
– Nàng ta chết nơi đâu?
Kế lão nói ấm ớ mấy câu, gã kia liền hỏi:
– Cô ta có để lại cái gì không? Mọi thứ ngươi giữ hết phải không?
Kế lão liếc y một cái, lạ lùng hỏi:
– Cái đó có can hệ gì đến ngươi đâu?
Gã kia đáp:
– Ta có một vật rất quan trọng bị con bé đó ăn cắp mất. Ta đi kiếm mãi mà không ra, đâu có ngờ nó đã chết rồi…
Tô Phổ đứng vùng dậy, lớn tiếng nói:
– Ngươi đừng có nói năng láo lếu, A Tú đời nào đi ăn cắp đồ gì của ngươi?
Gã kia đáp:
– Ngươi biết gì mà nói?
Tô Phổ đáp:
– A Tú từ bé chơi với ta, nàng là một cô gái rất lương thiện, quyết không bao giờ lấy của ai cái gì.
Gã kia bĩu môi lộ vẻ khinh miệt, nói:
– Vậy mà nó ăn cắp đồ của ta đó.
Tô Phổ đưa tay cầm cán đao đang đeo nơi hông, quát lớn:
– Ngươi tên là gì? Ta xem ngươi không phải người Cáp Tát Khắc, không chừng là bọn cướp người Hán.
Gã kia đi đến bên cửa, mở rộng cửa nhìn ra ngoài. Cửa vừa mở ra, một trận gió thổi ùa vào cuốn theo bao nhiêu bông tuyết. Chỉ thấy một đồng tuyết trắng xóa, bão thổi ào ào, người ngựa không cách gì đi được. Gã kia nghĩ thầm: “Bên ngoài không có ai, trong nhà chỉ có một đứa con gái, một ông già, một thanh niên ốm o gầy guộc, chỉ giơ tay là đánh ngã. Chỉ có thanh niên to khỏe này, cho y vài cú đấm cú đá là xong”.
Nghĩ thế nên y không coi vào đâu, nói:
– Là người Hán thì đã sao? Ta họ Trần, tên Đạt Hải[6] trên giang hồ có ngoại hiệu là Thanh Mãng Kiếm, ngươi có nghe đến bao giờ chưa?
Tô Phổ đâu có biết qui củ giang hồ của người Hán ra sao, lắc đầu nói:
– Ta chẳng nghe tới. Ngươi có phải cường đạo người Hán chăng?
Trần Đạt Hải nói:
– Ta là tiêu sư, chuyên đánh ăn cướp để mưu sinh, sao lại là cường đạo được?
Tô Phổ nghe thấy không phải là ăn cướp, nét mặt liền dịu hẳn xuống, nói:
– Không phải ăn cướp người Hán thì không sao. Ta đã nói trong số người Hán cũng có người tốt, nhưng cha ta nhất định không tin. Từ rày ngươi không được nói A Tú lấy đồ của ngươi nữa.
Trần Đạt Hải cười nhạt:
– Cô gái đó chết rồi, sao ngươi còn nhớ đến là sao?
Tô Phổ đáp:
– Khi cô ta còn sống là bạn của ta, chết đi rồi cũng vẫn là bạn. Ta không để cho ai nói xấu cô ta cả.
Trần Đạt Hải không lòng dạ nào tranh biện với y, quay sang hỏi Kế lão:
– Những gì của cô đó để lại nay ở đâu?
Lý Văn Tú nghe thấy Tô Phổ biện hộ cho mình, trong lòng cực kỳ khích động: “Y không hề quên ta, không hề quên ta! Y đối với ta thật có lòng”.
Thế nhưng nghe Trần Đạt Hải tra vấn những đồ đạc của mình để lại, không khỏi kỳ quái: “Ta làm gì có lấy của y cái gì đâu, y tìm là tìm cái gì đây?”. Chỉ nghe Kế lão hỏi lại:
– Khách quan thất lạc cái gì thế? Tiểu cô nương đó rất là thành thật, lão hán tin chắc là nó nhất quyết không lấy cái gì của ai đâu.
Trần Đạt Hải hơi trầm ngâm, nói:
– Đó là một bức vẽ. Đối với thường nhân thật vô dụng, nhưng vì đó là… đó là của tiên phụ chính tay vẽ, ta vẫn thường đi tìm bức họa đó. Nếu tiểu cô nương đó có ở nơi đây, không biết ngươi đã từng nhìn thấy bức tranh đó chưa?
Kế lão đáp:
– Bức vẽ đó vẽ cái gì, vẽ sơn thủy hay vẽ người?
Trần Đạt Hải ngập ngừng:
– Vẽ… vẽ sơn thủy.
Tô Phổ cười khẩy nói:
– Tranh vẽ cái gì cũng không biết, vậy mà dám vu cho người ta ăn cắp của mình.
Trần Đạt Hải giận quá, soẹt một tiếng rút ngay trường kiếm đeo ở lưng ra, quát lên:
– Tiểu tặc, bộ ngươi không muốn sống hay sao? Lão gia giết người như cơm bữa, chẳng coi ra gì đâu nhé.
Tô Phổ cũng rút ngay đoản đao đeo ở lưng ra, lạnh lùng nói:
– Muốn giết một người Cáp Tát Khắc, e rằng không dễ dàng đâu.
A Mạn nói:
– Tô Phổ, đừng chấp y làm gì.
Tô Phổ nghe thấy A Mạn nói thế, từ từ đút thanh đao trở vào vỏ. Trần Đạt Hải chỉ một lòng muốn lấy bức địa đồ Cao Xương mê cung, bọn chúng lang thang nơi sa mạc mười năm, đi khắp sa mạc thảo nguyên, cũng chỉ để đi tìm Lý Văn Tú, bây giờ nghe được chút manh mối, tuy y tính tình hung ác, nhưng cũng biết việc nhỏ không nhịn ắt hư chuyện lớn, nên hầm hầm trừng mắt nhìn Tô Phổ, quay sang hỏi Kế lão:
– Bức họa đó, có thể nói là một bức địa đồ, vẽ sông núi địa hình trong sa mạc.
Kế lão toàn thân hơi run rẩy, nói:
– Sao ngươi… sao ngươi biết bức địa đồ ở trong tay cô gái đó?
Trần Đạt Hải nói:
– Chuyện đó chắc chắn không sai vào đâu được. Nếu ngươi đem bức địa đồ đó giao lại cho ta, thể nào ta cũng hậu tạ.
Nói xong lấy từ trong bọc ra hai đĩnh bạc vứt lên bàn, dưới ánh lửa lấp loáng, sáng lóe lên. Kế lão trầm ngâm giây lát, chầm chậm lắc đầu nói:
– Ta chưa từng thấy bao giờ.
Trần Đạt Hải nói:
– Ta muốn xem di vật của tiểu cô nương đó.
Kế lão nói:
– Cái đó… cái đó…
Trần Đạt Hải giơ tay trái lên, rút phắt chiếc tiểu kiếm cán bạc, phập một tiếng đâm ngay xuống bàn, nói:
– Không có lôi thôi gì hết. Để ta tự mình đi kiếm.
Nói xong cầm ngay một cây nến bằng mỡ cừu, đẩy cửa đi vào phòng. Phòng y vào chính là phòng ngủ của Kế lão, thoạt nhìn là biết ngay, tiện tay lục tung mấy cái rương, rồi đi qua phòng của Lý Văn Tú.
Y thấy những quần áo Lý Văn Tú thay đổi ra, nói:
– Chà, nó lớn rồi mới chết nhỉ?
Lần này y lục soát thật là kỹ lưỡng, ngay cả quần áo khi còn bé của Lý Văn Tú y cũng lật ra coi. Quần áo khi còn nhỏ của Lý Văn Tú đều là do mẫu thân may cho, khi lớn lên mặc không còn vừa nhưng nàng vẫn cất giữ kỹ lưỡng. Trần Đạt Hải vừa nhìn thấy những áo quần trẻ con thêu thùa sặc sỡ, nhớ lại tình cảnh mười năm xưa đuổi theo vợ chồng Lý Tam trên sa mạc, vui vẻ kêu lên:
– Đúng rồi, đúng rồi, đúng nó rồi.
Y lục tung hết tất cả đồ đạc trong căn phòng, bao nhiêu quần áo đều xé rách ra để xem xét nhưng nào có thấy bức địa đồ ở đâu? Tô Phổ thấy y ngang ngược phá hoại di vật của Lý Văn Tú, mấy lầm nắm đao toan đứng lên, nhưng lần nào cũng bị A Mạn ngăn lại. Kế lão thỉnh thoảng lại liếc Lý Văn Tú, thấy nàng vẫn chăm chăm nhìn ngọn lửa, đối với hành vi hung bạo của Trần Đạt Hải làm như nhìn mà không thấy. Kế lão trong lòng băn khoăn: “Trước lưỡi dao của gã bạo khách này, không biết cô ta tính sao?”.
Lý Văn Tú xem thần tình Tô Phổ, trong lòng vừa thật mênh mang, lại vừa êm ái: “Y vẫn còn nhớ đến ta, chỉ vì muốn bảo hộ di vật của ta, đã toan rút dao thí mạng với người khác”. Thế nhưng trong lòng nàng cũng lạ lùng: “Gã ác tặc này nói ta ăn cắp địa đồ của y, không biết là bức địa đồ nào?’. Khi mẹ nàng sắp chết có nhét một bức địa đồ vào áo nàng, lúc đó nguy cơ khẩn bách nên không kịp nói rõ cho nàng nghe, đến khi mẹ con chia tay không còn có dịp nào nhìn thấy nhau nữa. Bọn ăn cướp Tấn Uy tiêu cuộc mười năm qua đi mòn gót chân khắp các vùng nam bắc Thiên Sơn để tìm tung tích nàng, chính Lý Văn Tú nào có hay biết gì đâu?
Trần Đạt Hải tìm kiếm hồi lâu, không thấy manh mối gì, trong lòng cực kỳ thất vọng, đột nhiên gay gắt hỏi:
– Thế con bé đó chôn ở đâu?
Kế lão ngơ ngẩn nói:
– Chôn ở xa lắm, xa lắm.
Trần Đạt Hải lấy từ trên tường xuống một chiếc mai, nói:
– Ngươi dẫn ta đi.
Tô Phổ đứng lên, quát lớn:
– Ngươi đến đó làm gì?
Trần Đạt Hải nói:
– Ngươi hỏi làm gì? Ta muốn đến đào mả nó lên xem, không chừng bức địa đồ đó chôn theo nó ở trong mộ.
Tô Phổ giơ đao chắn ngang cửa, quát:
– Ta không để cho ngươi động đến phần mộ của cô ta.
Trần Đạt Hải giơ cái xẻng lên, làm như muốn đánh xuống, quát lớn:
– Tránh ra.
Tô Phổ nghiêng qua bên trái, đao trong tay đã đâm tới. Trần Đạt Hải vứt chiếc xẻng, rút trường kiếm nơi hông ra, nghe keng một tiếng, đao kiếm đã chạm nhau, hai người đều nhảy lùi về sau một bước, rồi lại xông lên đấu tiếp.
Cái sảnh đường của căn nhà vốn không lớn gì, khi hai bên múa may, Kế lão và A Mạn đều nép vào một bên, đứng sát bên tường, chỉ một mình Lý Văn Tú đứng ngay trước cửa sổ. A Mạn xông tới rút thanh tiểu kiếm Trần Đạt Hải cắm trên bàn ra, toan vào giúp Tô Phổ một tay, nhưng hai người đang đấu thật gay, nàng không cách gì xen vào được.
Tô Phổ bây giờ đã được phụ thân Tô Lỗ Khắc truyền hết tài nghệ, đao pháp biến huyễn, chiêu số cực kỳ tàn độc, lúc đầu Trần Đạt Hải có hơi núng thế, trong bụng không khỏi lạ lùng: “Không ngờ thằng nhãi Cáp Tát Khắc này, võ công không kém gì hảo thủ Trung Nguyên”. Ngay lúc đó, đằng sau hơi có tiếng gió, một thanh tiểu kiếm ném tới, chính là A Mạn bất ngờ đánh lén. Trần Đạt Hải vội vàng tránh qua bên phải, nghe soẹt một tiếng, cánh tay trái đã bị đao của Tô Phổ rạch một đường. Y giận quá, vụt vụt vụt đâm luôn ba kiếm, sử dụng tuyệt kỹ thành danh là Thanh Mãng kiếm pháp. Tô Phổ chỉ thấy trước mắt mũi kiếm lấp loáng chẳng khác nào mãng xà phun nọc, không biết kiếm của y đâm về hướng nào. Y chưa kịp đỡ thì trường kiếm của kẻ địch đã đâm tới mặt, vội vàng nghiêng đầu né tránh, bên cổ đã bị trúng kiếm, máu chảy dầm dề. Trần Đạt Hải thắng thế đâu có nhường ai, một kiếm nữa lại đâm ngay vào cổ tay Tô Phổ, nghe choang một tiếng, đoản đao đã rơi xuống đất.
Đường kiếm thứ ba tung ra, Tô Phổ không cách gì đề ngự thế ắt chết tươi ngay, Lý Văn Tú vội tiến lên một bước, định chờ khi y đâm ra sẽ thi triển Đại Cầm Nã Thủ chộp lấy tay y, đã thấy A Mạn nhảy tới, chặn ngay trước mặt Tô Phổ, kêu lên:
– Không được giết y.
Trần Đạt Hải thấy A Mạn mặt đẹp như hoa, nhưng khuôn mặt đầy hốt hoảng, trong lòng nghĩ lại không đâm kiếm đó ra, mũi kiếm để ngay vào ngực nàng, cười nói:
– Ngươi quan tâm cho y đến thế, tên nhãi này là tình lang của ngươi phải không?
A Mạn đỏ mặt gật đầu. Trần Đạt Hải nói:
– Được, ngươi muốn ta tha mạng cho y cũng được, ngày mai khi gió ngớt rồi, ngươi phải đi theo ta.
Tô Phổ giận quá, rống lên một tiếng, từ phía sau A Mạn xông ra. Trần Đạt Hải vung thanh trường kiếm xéo qua, lại để ngay yết hầu y, chân trái đá quét ngang đùi, Tô Phổ lại ngã ngay xuống đất, thanh kiếm vẫn bám theo cổ họng. Lý Văn Tú đứng một bên, theo dõi sát Trần Đạt Hải, nếu như y có ý hại Tô Phổ, nàng sẽ ra tay giải cứu ngay. Với tài nghệ nàng bây giờ, đối phó với hạng người như gã quả thật có thừa.
Thế nhưng A Mạn nào hay đại viện ở ngay bên cạnh, trong cơn gấp rút, vội nói:
– Ngươi chớ đâm, ta bằng lòng đó.
Trần Đạt Hải mừng lắm nhưng mũi kiếm không nhích ra, nói:
– Ngươi bằng lòng sáng mai đi theo ta, đừng có trở mặt nhé.
A Mạn nghiến răng nói:
– Ta không trở mặt đâu, ngươi bỏ kiếm ra đi.
Trần Đạt Hải cười ha hả, nói:
– Nếu ngươi trở mặt cũng không chạy được đâu.
Y cho kiếm vào vỏ, rồi nhặt đoản đao của Tô Phổ lên cầm lăm lăm trong tay. Đến lúc này trong nhà chỉ còn mình y là có binh khí, nên không còn sợ ai phản kháng. Y nhìn ra cửa sổ, nói:
– Trời này chắc đi ra ngoài không được, chỉ còn nước chờ cho trời tạnh hãy ra đào mộ.
A Mạn đỡ Tô Phổ ngồi tại một bên, thấy cổ y máu vẫn chảy ròng ròng, trong lòng bối rối, toan xé áo mình cho y buộc vết thương. Tô Phổ lấy trong túi ra một cái khăn tay lớn, nói:
– Dùng cái khăn này buộc được rồi.
A Mạn cầm lấy chiếc khăn, buộc vết thương lại cho y, nghĩ đến mình rồi đây rơi vào tay tên cường đạo này, không biết có cơ hội thoát thân không, tủi thân nước mắt rơi lã chã. Tô Phổ hạ giọng chửi:
– Đồ ăn cướp chó má, đồ khốn nạn.
Lúc này y đã có chủ định, nếu như tên cướp nhất định bắt A Mạn đem đi, dù biết phải chết y cũng nhất định ra tay. Sau trận đánh vừa rồi, năm người ngồi quanh bếp lửa, ai nấy đều cực kỳ căng thẳng. Trần Đạt Hải một tay cầm đao, một tay cầm bát rượu, thỉnh thoảng lại nhìn A Mạn, rồi nhìn Tô Phổ. Bên ngoài gió bấc vẫn vù vù, cuốn theo từng mảng tuyết, đập lên tường, lên mái nhà. Chẳng ai nói một câu.
Lý Văn Tú trong lòng nghĩ thầm: “Cứ để cho tên ác tặc này phách lối một phen, không cần giết y vội”. Đột nhiên trong bếp một thanh củi sáng bừng lên, nghe tách một cái, ngọn lửa bùng lên soi sáng rõ mặt mọi người. Lý Văn Tú thấy chiếc khăn Tô Phổ quấn trên cổ, trong lòng chấn động, chăm chăm nhìn. Kế lão thấy ánh mắt nàng có điều khác lạ, cũng nhìn theo, hỏi:
– Tô Phổ, chiếc khăn đó ở đâu mà ngươi có được đó?
Tô Phổ ngây người, tay vỗ lên cổ nói:
– Ông hỏi cái khăn này ư? Đó là người đã chết A Tú cho tôi đó. Hồi còn nhỏ chúng tôi đi chăn cừu, bị một con sói lớn xông tới cắn tôi chúng tôi, tôi giết chết con sói đó nhưng cũng bị nó cắn phải. A Tú dùng chiếc khăn này buộc vết thương…
Lý Văn Tú nghe những lời đó, nàng thấy mọi vật đều mờ đi, thì ra mắt đã nhòa lệ. Kế lão vào trong phòng lấy ra một vuông vải trắng, đưa cho Tô Phổ nói:
– Ngươi dùng miếng vải này buộc vết thương, cởi cái khăn đó xuống cho ta xem nào.
Tô Phổ hỏi lại:
– Sao thế?
Trong khi Kế lão nói, Trần Đạt Hải cũng chăm chăm nhìn vào chiếc khăn nơi cổ Tô Phổ, bỗng nhiên cầm đao đứng lên, quát lớn:
– Bảo ngươi cởi cái khăn đó đưa đây.
Tô Phổ trừng trừng nhìn y. A Mạn sợ Trần Đạt Hải làm dữ, cởi cái khăn cho Tô Phổ, đưa cho Kế lão rồi lấy miếng vải trắng buộc lại vết thương. Kế lão cầm chiếc khăn vấy máu trải lên bàn, khêu ngọn đèn cao lên rồi xem xét kỹ. Trần Đạt Hải cũng săm soi một hồi, đột nhiên vui mừng kêu lên:
– Đúng rồi, đúng rồi, đây chính là địa đồ Cao Xương mê cung.
Y giơ tay chụp lấy chiếc khăn, cười ha hả, sướng không để đâu cho hết. Kế lão tay phải nhúc nhích dường như muốn đoạt lại chiếc khăn nhưng sau cố nhịn. Ngay lúc đó, bỗng từ xa có tiếng người kêu:
– Tô Phổ, Tô Phổ…
Lại có một người khác kêu lớn:
– A Mạn, A Mạn ơi…
Tô Phổ và A Mạn cùng nhảy nhổm lên, cùng kêu:
– Cha mình đang đi kiếm.
Tô Phổ chạy ra cửa, đang định mở bỗng thấy sau gáy lạnh toát, một thanh trường kiếm đã dí vào cổ. Trần Đạt Hải lạnh lùng nói:
– Ta bảo ngồi xuống, không được động đậy.
Tô Phổ không cách nào khác hơn đành phải ngồi xuống.
Một lúc sau, tiếng bước chân của hai người đã ngay ngoài ngõ. Có tiếng Tô Lỗ Khắc nói:
– Có phải đây là nhà tên giặc người Hán đó không? Ta không vào đâu.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Không vào ư? Thế đi đâu tránh bão tuyết bây giờ? Hai tai ta lạnh muốn rớt ra rồi.
Tô Lỗ Khắc tay cầm một bầu rượu, trên đường đi uống liên tục cho khỏi lạnh, lúc này cũng đã ngà ngà say, lè nhè nói:
– Dù có lạnh đến rơi cả đầu ta cũng không thèm vào nhà của người Hán đâu.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Ngươi không vào, ở ngoài bão tuyết chết cóng cho mà xem, ta cứ vào.
Tô Lỗ Khắc nói:
– Con ta và con ngươi đều kiếm không ra, sao lại đi vào nhà tên Hán tặc để tránh tuyết là sao? Ngươi… ngươi chẳng có anh hùng khí khái chút nào.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Trên đường chẳng thấy hai đứa đâu, chắc là chúng nó vào đây tránh tuyết rồi, đừng lo. Đừng để cho hai đứa nhỏ tìm không thấy, mà hai đứa già lại chết lạnh.
Tô Phổ thấy Trần Đạt Hải đứng nép mình sau cánh cửa tay hờm sẵn kiếm, đợi ai vào là y đâm ngay, tình thế cực kỳ nguy cấp, kêu lên:
– Đừng có vào.
Trần Đạt Hải trừng mắt quát lên:
– Ngươi còn mở miệng là ta giết ngươi liền.
Tô Phổ thấy cha ở vào cảnh nguy hiểm, gượng đứng lên cầm chiếc ghế xông thẳng vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải nghiêng qua tránh được, đâm ra trúng ngay đùi Tô Phổ. Tô Phổ kêu lên một tiếng, ngã lăn ra. Y cực kỳ nhanh nhẹn, sợ địch nhân chém thêm một kiếm nữa, liền lăn một vòng ra xa mấy thước.
Trần Đạt Hải không đuổi theo, chỉ giơ kiếm đứng sau cửa, nghĩ bụng thằng nhỏ Cáp Tát Khắc này mình sẽ tính sau, cho nó sống thêm vài khắc cũng không sao, người ở ngoài vào cần phải giết trước.
Chỉ nghe bên ngoài Tô Lỗ Khắc vẫn tiếp tục nói líu cả lưỡi:
– Ngươi mà vào nhà tên người Hán chết tiệt ấy là ta đánh ngươi đó.
Nói xong đấm ngay một quyền trúng ngay ngực Xa Nhĩ Khố. Nếu phải lúc bình thường, Xa Nhĩ Khố thấy y sau túy lúy, dẫu có bị một đấm cũng chẳng thèm chấp, nhưng lúc này hơi rượu cũng đang bốc lên, liền thò chân khoèo một cái. Tô Lỗ Khắc vốn đã đứng không vững, lại bị y móc chân liền ngã ngửa ra ngay, nhưng cũng thuận thế ôm ngay chân đối phương. Thế là hai người ôm nhau vật lộn trong bãi tuyết.
Tô Lỗ Khắc bốc một nắm tuyết, nhét vào mồm Xa Nhĩ Khố, Xa Nhĩ Khố liền giơ tay quờ lung tung khiến Tô Lỗ Khắc bật cười ha hả. Xa Nhĩ Khố nhổ được nắm tuyết ra rồi, bình một tiếng, đấm ngay vào mũi Tô Lỗ Khắc, lập tức máu chảy ròng ròng. Tô Lỗ Khắc không thấy đau, mà vẫn cười như nắc nẻ, hai tay nắm chặt tóc Xa Nhĩ Khố không buông. Cả hai đều là dũng sĩ Cáp Tát Khắc cả nghìn dặm chung quanh ai cũng biết tiếng, lúc này say rượu vật nhau chẳng khác gì hai đứa trẻ đang đùa nghịch.
Tô Phổ và A Mạn trong lòng cực kỳ gấp gáp, chỉ mong Tô Lỗ Khắc thắng, để ngăn được Xa Nhĩ Khố tiến vào. Chỉ thấy bên ngoài bình bành bất tuyệt, tôi đánh anh một quyền, anh trả lại một đấm, vừa chửi rủa, vừa cười cợt, ai cũng lè nhè. Ngay lúc đó, một tiếng ầm thật lớn, cửa mở tung ra, gió lạnh lẫn tuyết ở ngoài ùa vào, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố hai người ôm nhau cũng lăn theo. Cửa ập vào ép luôn Trần Đạt Hải sau cánh cửa, khiến y không sao chém xuống được. Thế nhưng Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố vẫn không buông nhau ra.
Xa Nhĩ Khố nói:
– Ngươi chẳng vào là gì đây?
Tô Lỗ Khắc giận lắm, hai tay nắm chặt lấy cổ y, quát lớn:
– Ra mau, ra mau.
Hai người vẫn vật nhau dưới đất, một người kéo người kia ra, một người giữ người kia lại không cho cử động. Bỗng nhiên Tô Lỗ Khắc cất tiếng ồm ồm hát:
– Ngươi đánh không lại ta, ta là Cáp Tát Khắc dũng sĩ số một, Tô Phổ là số hai, mai này Tô Phổ sinh con thì là thứ ba… còn ngươi Xa Nhĩ Khố là hàng thứ năm…
Trần Đạt Hải thấy hai gã say sưa, nghĩ thầm không có gì đáng sợ. Lúc đó gió nổi càng mạnh, khiến lửa trong bếp bay tung tóe, Trần Đạt Hải vội dùng sức đóng cửa lại. Tô Phổ và A Mạn thấy cha mình đang lăn vào đống lửa, vội vàng chạy tới đỡ dậy, cùng kêu lên:
– Cha ơi, cha ơi!
Thế nhưng hai người thân thể nặng nề, đỡ đâu có nổi. Tô Phổ kêu lên:
– Cha ơi, cha ơi! Tên cường đạo người Hán đây này.
Tô Lỗ Khắc tuy đang say mèm, nhưng mười năm qua lúc nào cũng canh cánh trong lòng mối thù với bọn cướp người Hán, vừa nghe tới “Hán nhân cường đạo”, liền tỉnh ngay mấy phần, vùng dậy kêu lên:
– Bọn cướp người Hán ở đâu?
Tô Phổ chỉ ngay vào Trần Đạt Hải. Tô Lỗ Khắc liền thò tay vào lưng rút đao, nhưng khi y và Xa Nhĩ Khố hai người vật lộn, con dao đã rơi ở bên ngoài tuyết rồi, chỉ thấy trống không kêu lên:
– Đao đâu, đao đâu! Ta phải giết nó.
Trần Đạt Hải giơ thanh kiếm ra, để ngay vào cổ họng y, quát lên:
– Quì xuống.
Tô Lỗ Khắc giận quá, vùng dậy, nhưng đang say rượu không có chút lực khí nào, chưa đến được chỗ địch nhân thì mình đã té nhào. Trần Đạt Hải cười khẩy, vung kiếm chém xuống, đầu vai Tô Lỗ Khắc máu phun ra ngay. Tô Lỗ Khắc kêu lên thảm thiết, muốn vùng lên thí mạng, nhưng hai đùi mềm nhũn, không sao đứng lên được.
Xa Nhĩ Khố rống lên một tiếng, tung mình nhào vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải lại vung kiếm đâm ra, trúng ngay đùi y, Xa Nhĩ Khố cũng ngã lăn ra. Kế lão quay lại nhìn Lý Văn Tú, thấy nàng thần sắc trấn tĩnh, không có vẻ gì sợ hãi.
Trần Đạt Hải cười nhạt:
– Mấy con chó Cáp Tát Khắc kia, hôm nay ông làm thịt từng đứa một.
A Mạn vội xông lên chắn trước mặt cha, run run nói:
– Ta bằng lòng đi theo ngươi, ngươi đừng giết họ.
Xa Nhĩ Khố giận dữ nói:
– Không được, không được đi theo thằng giặc cướp chó má ấy, để nó giết ta đi còn hơn.
Trần Đạt Hải lấy trên tường xuống một chiếc thòng lọng buộc dê, quàng vào cổ A Mạn, cười đểu giả:
– Tốt lắm, ngươi là tù binh của ta, là nô lệ của ta. Ngươi mau mau thề đi, từ nay không bao giờ phản bội ta thì ta sẽ tha cho hai con chó Cáp Tát Khắc kia.
A Mạn nước mắt ròng ròng, nghĩ thầm nếu mình không bằng lòng, cha mình và Tô Lỗ Khắc sẽ bị y giết cả, đánh phải cất tiếng thề:
– Có Chúa Allah ở trên trời, từ nay về sau, tôi là nô lệ của chủ nhân tôi, phải nghe lời sai bảo vĩnh viễn không dám đào tẩu, không dám vi phạm mệnh lệnh của y. Nếu không chết đi sẽ đọa vào hỏa ngục, đời đời kiếp kiếp không được siêu sinh.
Trần Đạt Hải cực kỳ đắc ý cười ha hả, hôm nay đã được bức địa đồ Cao Xương mê cung lại còn thêm một thiếu nữ thật xinh đẹp, thật sướng còn hơn lên tiên. Y ở Hồi Cương đã lâu, biết rằng người Cáp Tát Khắc sùng tín đạo Hồi, nếu đã nhân danh Chúa Allah mà thề, cả đời sẽ không dám vi phạm, bèn kéo cái dây nói:
– Lại đây, lại ngồi dưới chân của chủ nhân coi.
A Mạn trong lòng hết sức đau đớn nhưng đành đi lại ngồi dưới đất. Trần Đạt Hải giơ tay vuốt tóc nàng, A Mạn nhịn không nổi khóc òa lên. Tô Phổ đứng bên không còn nhịn nổi, tung mình nhảy tới, xông vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải giơ kiếm ra, chỉ ngay vào ngực y. Tô Phổ chỉ cần tiến lên nửa bước thì ngực y sẽ bị đâm trúng ngay. A Mạn kêu lên:
– Tô Phổ, lùi lại đi.
Hai mắt Tô Phổ như muốn nảy lửa, nghiến răng bậm môi, đứng qua một bên, một lát sau đành từ từ lugi lại, ngồi bệt xuống. Trần Đạt Hải lại rót một bát rượu, uống một ngụm, lấy chiếc khăn tay ra, để lên đầu gối xem kỹ. Kế lão bỗng nói:
– Làm sao ngươi biết đây là địa đồ Cao Xương mê cung?
Ông ta nói bằng tiếng Hán. Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Đằng nào thì tất cả chúng bay cũng không ai sống qua ngày hôm nay, có nói cho nghe cũng chẳng hề gì”. Y đi tìm mười hai năm qua, nay tâm nguyện hoàn thành, trong lòng vui sướng, không nói thì không hả dạ, dù cho Kế lão không hỏi, y cũng tự mình kể ra. Y cầm chiếc khăn lên, nói:
– Bọn ta đã biết chắc chắn không sai vào đâu, vợ chồng Lý Tam lấy được bức địa đồ Cao Xương mê cung. Hai người đó chết rồi khám trong người không thấy, ắt phải là trong tay đứa con gái họ. Tấm khăn tay này vốn của con bé họ Lý, trên lại có thêu sông núi đường đi, thì nhất định không thể nào nhầm được.
Y chỉ cái khăn tay nói tiếp:
– Ngươi xem đây, cái khăn này làm bằng tơ, còn sông núi sa mạc đồ hình, lại bằng len thêu vào giữa. Tơ màu vàng, len cũng màu vàng, bình thời nhìn không thấy, nhưng khi thấm máu rồi, len hút máu nhiều hơn tơ thành mới phân ra rõ rệt.
Lý Văn Tú chăm chú nhìn tấm khăn tay, quả nhiên y nói đúng, thấm máu rồi hiện rõ đồ hình, còn chỗ nào không thấm máu thì vẫn nguyên màu vàng. Năm xưa khi Tô Phổ bị chó sói cắn, máu chảy không nhiều, chiếc khăn chỉ hiện một bên góc, hôm nay bị thương vì kiếm, đồ hình hiện ra đến hơn một nửa. Bấy giờ nàng mới hiểu rằng chiếc khăn này có ẩn tàng một đại bí mật. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố bị thương không lấy gì làm nặng, hai người cùng nghĩ: “Đợi ta tỉnh rượu rồi, sẽ giết tên cường đạo người Hán này”. Xa Nhĩ Khố nói:
– Ông già ơi, cho tôi uống chút nước.
Kế lão nói:
– Được.
Ông đứng lên đi lấy nước. Trần Đạt Hải sẵng giọng quát:
– Tất cả ngồi yên, không ai được động đậy.
Kế lão hừ một tiếng, lại ngồi xuống.
Trần Đạt Hải trong bụng tính toán: “Nếu bấy nhiêu người hợp lực đối phó với ta, cùng xông lên một lượt e rằng nguy mất. Nhân lúc hai tên chó chết Cáp Tát Khắc chưa tỉnh rượu, giết chúng trước là kế vạn toàn”. Y chầm chậm đi đến trước mặt Tô Lỗ Khắc, đột nhiên rút phắt trường kiếm, vung lên chém ngay xuống đầu y. Y rút kiếm chém thật là đột ngột, hành động lại nhanh như chớp, Tô Lỗ Khắc không cách nào tránh được. Tô Phổ kêu lên một tiếng, toan xông lên cứu cha, nhưng còn làm sao cho kịp?
Kiếm của Trần Đạt Hải vừa xuống đỉnh đầu Tô Lỗ Khắc bỗng nghe một tiếng vù, một vật ném ngay vào mặt, thế đi thật nhanh, y hoảng hốt không còn lo giết người mà nhảy vội sang một bên. Nghe choang một tiếng, vật đó đụng thẳng vào tường vỡ tan, thì ra là một cái chén uống trà. Y định thần, nhìn rõ ra kẻ ném chiếc chén chính là Lý Văn Tú.
Trần Đạt Hải giận lắm, thấy gã thanh niên Cáp Tát Khắc này gầy gò ốm yếu, dáng như con gái nên không để ý, nào ngờ đâu lại dám vuốt râu hùm, nên vung kiếm lên chỉ vào y chửi:
– Con chó con Cáp Tát Khắc kia, ngươi không muốn sống hả?
Lý Văn Tú từ từ cởi chiếc áo khoác Cáp Tát Khắc ra, để lộ áo chẽn kiểu người Hán, dùng tiếng Cáp Tát Khắc nói:
– Ta không phải là người Cáp Tát Khắc, ta là người Hán.
Tay nàng chỉ vào Tô Lỗ Khắc nói:
– Vị Cáp Tát Khắc bá bá này, coi tất cả người Hán ai cũng là cường đạo xấu xa. Ta muốn cho ông ta biết, người Hán chúng ta không phải ai cũng đi ăn cướp, mà cũng có người tốt.
Nhát kiếm của Trần Đạt Hải ai ai cũng thấy rõ, nếu như không có Lý Văn Tú ném chiếc chén ra cứu, Tô Lỗ Khắc ắt đã chết rồi, nên khi nghe nàng nói thế, Tô Phổ liền nói:
– Đa tạ ngươi cứu cha ta.
Thế nhưng Tô Lỗ Khắc vẫn hết sức ương ngạnh, kêu lớn:
– Ngươi là người Hán, ta không cần ngươi cứu, cứ để tên cướp kia giết ta đi là hơn.
Trần Đạt Hải tiến lên một bước, hỏi Lý Văn Tú:
– Ngươi là ai? Ngươi là người Hán, đến đây làm gì?
Lý Văn Tú cười khẩy nói:
– Ngươi không nhận ra ta nhưng ta lại nhận ra ngươi. Ăn cướp bộ lạc Cáp Tát Khắc, giết không ít người Cáp Tát Khắc, chính là bọn cường đạo người Hán chúng mày.
Nói đến đây giọng nàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì bọn ăn cướp chúng mày làm bao nhiêu trò bỉ ổi, Tô Lỗ Khắc đã không hận người Hán chúng ta đến thế”. Trần Đạt Hải lớn tiếng nói:
– Là ông đấy thì mày làm gì nào?
Lý Văn Tú chỉ vào A Mạn nói:
– Nàng ta là nô lệ của ngươi, ta muốn đoạt lại, làm nô lệ cho ta.
Câu đó nói ra, thật quả ngoài dự liệu của mọi người. Trần Đạt Hải ngạc nhiên, cười ha hả nói:
– Giỏi, ngươi có tài thì cứ ra mà lấy lại.
Y vung trường kiếm lên, mũi kiềm rung động nghe u u. Lý Văn Tú quay sang nói với A Mạn:
– Ngươi nhân danh Chúa Allah, lập lời thề, bằng lòng làm nô lệ cho y. Nếu như y đánh không lại ta, ngươi bị ta đoạt lại, ngươi cũng sẽ là nô lệ cho ta, có phải không?
Người Cáp Tát Khắc đánh nhau với bộ tộc khác, kẻ bị bắt trở thành nô lệ, trong kinh Koran của Hồi giáo đã nói rõ ràng. Thân phận kẻ nô lệ không khác gì con vật, toàn do quyền chủ nhân, kể cả mua bán. Nếu như chủ nhân bị người ta chế phục, tất cả gia sản, súc vật, nô lệ cũng đều về tay chủ mới. A Mạn nghe nói thế, nghĩ thầm: “Ta đã thành nô lệ rồi, phải theo tên cường đạo này để y dày vò, chi bằng theo ngươi làm chủ cũng còn hơn”. Nghĩ thế nàng liền gật đầu:
– Đúng vậy.
Lại ngập ngừng nói tiếp:
– Ngươi đánh không lại y đâu, tên giặc cướp này võ công ghê gớm lắm.
Lý Văn Tú nói:
– Cái đó ngươi khỏi lo, ta đánh không lại thì để cho y giết chết.
Nàng vỗ hai tay một cái, nói với Trần Đạt Hải:
– Tiến lên đi.
Trần Đạt Hải lạ lùng hỏi:
– Ngươi tay không đấu với ta ư?
Lý Văn Tú nói:
– Giết những tên cường đạo như ngươi, cần gì phải dùng đến binh khí?
Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Ở đây ai ai đều là địch, dây dưa thêm chút nào, nguy hiểm thêm dường ấy, ngươi phách lối như thế thì càng tốt”. Y quát lên:
– Coi kiếm đây.
Y vung kiếm lên, sử chiêu Độc Xà Xuất Động, đâm luôn vào ngực Lý Văn Tú, thế mạnh lại nhanh. Kế lão kêu lên:
– Mau lui ra.
Ông ta chắc Lý Văn Tú không thể nào chống nổi, đâu ngờ nàng chỉ lắc một cái nhẹ nhàng tránh qua một bên, lướt đến bên Trần Đạt Hải, cúi chỏ trái thúc ngược về sau, đánh vào ngang hông y. Trần Đạt Hải kêu lên:
– Giỏi lắm.
Trường kiếm của y cuộn về, chém vào tay nàng. Lý Văn Tú phóng chân phải ra, đá luôn vào cổ tay y, chiêu Diệp Để Phi Yến đó là một tuyệt kỹ của Hoa Huy, Lý Văn Tú luyện mất bảy tám ngày mới thuần thục, nhẹ nhàng khéo léo thật là đắc ý. Trần Đạt Hải vội rụt tay về nhưng không còn kịp nữa, cổ tay nhói một cái đã bị đá trúng, nhưng cước lực đối phương không mạnh lắm nên kiếm của Trần Đạt Hải không bị tuột tay. Y kinh hãi gầm lên, nhảy lùi về sau một bước, còn Kế lão cũng “Ồ” một tiếng, cực kỳ ngạc nhiên.
Trần Đạt Hải xoa xoa tay, lại vung kiếm xông lên cùng Lý Văn Tú đấu tiếp. Lúc này y không còn dám coi thường chàng thanh niên gầy gò kia nữa, thấy y ra chiêu nào chiêu nấy đều vững vàng, công phu thực không phải dở, Trần Đạt Hải liền giở Thanh Mãng kiếm pháp ra, cực kỳ tàn độc, cốt sao giết được đối phương càng sớm càng tốt. Lý Văn Tú được Hoa Huy truyền thụ, thân pháp linh mẫn, chiêu thức tinh kỳ, chỉ hiềm chưa từng cùng người khác đấu bao giờ, không có chút kinh nghiệm đối địch nào, lúc đầu chỉ nhở lòng cừu hận muốn giết tên ác tặc báo thù cho cha mẹ. Đấu được một hồi, nàng bắt đầu nhìn thấy đường đi nước bước của đối thủ, trong lòng dần dần trấn tĩnh lại.
Căn lều của Kế lão vốn dĩ đã nhỏ, trong sảnh lại gầy một đống lửa lớn, Trần Lý hai người bên bếp hồng nhảy qua nhảy lại, kiếm quyền thế nào cũng chỉ cách người một hai tấc, tưởng như Trần Đạt Hải sắp sửa giết được Lý Văn Tú đến nơi. Thế nhưng chiêu nào nàng cũng có thể trả đòn, hoặc tránh né chiết giải được cả. Bọn Tô Lỗ Khắc xem mà há hốc mồm, còn Kế lão thì càng coi càng sợ hãi, thân thể không ngừng run rẩy.
Hai người càng đấu càng hăng, Trần Đạt Hải sử dụng chiêu Linh Xà Thổ Tín mũi kiếm đâm vào yết hầu Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hụp xuống, lòn dưới kiếm tiến tới, tay trái gạt tay phải của địch, đẩy thanh kiếm hướng ra ngoài, hai tay liền chụp hai thanh kim ngân tiểu kiếm nơi hông Trần Đạt Hải, một kéo một đẩy, nghe bụp một tiếng cùng đâm luôn vào xương vai địch thủ. Trần Đạt Hải “A” lên một tiếng thảm khốc, trường kiếm tuột khỏi tay, loạng choạng lùi về phía sau, đến lúc lưng đụng vào tường đứng thở hổn hển. Hai thanh tiểu kiếm cắm vào hai vai lút đến tận cán, mũi kiếm thấu qua bên lưng, gân cốt đã đứt hết, hai tay không còn chút lực khí nào, làm sao còn lấy tay nọ rút kiếm vai kia cho nổi?
Chỉ nghe mọi người trong nhà đều lớn tiếng hò reo, la lớn:
– Đánh gục được tên cướp rồi, đánh gục được tên cướp rồi.
Đến ngay cả Tô Lỗ Khắc cũng cao giọng la lối. Tô Phổ và A Mạn ôm nhau ở một nơi, sướng không để đâu cho hết. Chỉ có Kế lão không ngừng run rẩy, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách.
Lý Văn Tú biết ông ta vì quan tâm đến mình nên sợ hãi, bước tới cầm bàn tay to lớn thô kệch của ông già, ghé tai nói nhỏ vào tai:
– Kế gia gia, đừng sợ nữa, tên giặc cướp đánh không lại cháu đâu.
Bàn tay ông lạnh ngắt, càng run rẩy hơn trước. Lý Văn Tú quay đầu lại, thấy Tô Phổ đang ôm chặt A Mạn, đang vui sướng vì thắng lợi lòng bỗng chùng hẳn xuống, thấy chính mình cũng run run, bàn tay Kế lão không còn lạnh nữa, thì ra chính tay nàng cũng đã lạnh rồi. Nàng bỏ tay Kế lão ra, đi đến cầm sợi dây vẫn buộc nơi cổ A Mạn, lạnh lùng nói:
– Ngươi là nữ nô lệ của ta, bây giờ đi theo ta.
Tô Phổ và A Mạn hai người lòng cùng lạnh ngắt, bốn cánh tay đang ôm nhau lập tức lỏng ra. Họ biết đây là qui củ đời này truyền đời khác của người Cáp Tát Khắc, không còn cách nào vi phạm mệnh lệnh. Cả hai mặt đều trở nên tái nhợt. Lý Văn Tú thở dài một tiếng, cởi sợi dây nơi cổ A Mạn ra nói:
– Tô Phổ thương yêu ngươi, ta… ta không muốn gã phải đau lòng. Ngươi nay thuộc về Tô Phổ.
Nói xong đẩy A Mạn một cái, cho nàng ngã vào lòng Tô Phổ. Tô Phổ và A Mạn không tin ở tai mình vừa nghe, cùng hỏi lại:
– Có thực không?
Lý Văn Tú cười gượng nói:
– Dĩ nhiên là thật rồi.
Tô Phổ và A Mạn mỗi người cầm một bên tay Lý Văn Tú, lắc lắc liên tiếp nói:
– Cám ơn ngươi, cám ơn ngươi.
Hai người mừng rỡ không để ý đến cánh tay họ có thêm mấy giọt lệ từ mắt Lý Văn Tú rơi xuống. Tô Lỗ Khắc cố gắng đứng lên, bàn tay to lớn vỗ mạnh lên vai Lý Văn Tú, nói:
– Trong số người Hán, quả nhiên cũng có người tốt. Có lẽ… có lẽ chỉ có một mình ngươi thôi.
Xa Nhĩ Khố kêu lên:
– Lấy rượu ra, lấy rượu ra. Ta mời tất cả cùng uống, mời người Cáp Tát Khắc tốt uống rượu mà cũng mời cả người Hán tốt uống rượu, ăn mừng bắt được tên giặc cướp, ủa, tên cường đạo đâu rồi?
Mọi người cùng quay lại, không biết Trần Đạt Hải đã đi đâu mất. Thì ra mọi người đang để ý đến Lý Văn Tú và A Mạn, để cho tên cướp lẻn theo cửa sau chạy mất. Tô Lỗ Khắc giận lắm, kêu lên:
– Cả bọn mau đuổi theo.
Y vừa mở cửa ra, một trận gió ùa vào, chân y bủn rủn, thân hình lảo đảo nằm gục ngay xuống. Gió lạnh lại thêm có tuyết, thật là ác liệt, ai nấy đều cảm thấy mình chịu không nổi. A Mạn nói:
– Trong cơn gió bão này, y cũng chẳng chạy được xa đâu, có cố gắng rồi cũng chết trong gió lạnh. Đợi đến sáng gió bớt rồi, mình đi kiếm xác y trên bãi tuyết cũng không sao.
Tô Phổ gật đầu, đóng cửa lại. Tô Lỗ Khắc trừng mắt nhìn Lý Văn Tú, một hồi sau mới hỏi:
– Này ông bạn, ngươi là người Cáp Tát Khắc, phải không?
Lý Văn Tú lắc đầu:
– Không, tôi là người Hán.
Tô Lỗ Khắc nói:
– Không thể được. Ngươi là người Hán, sao lại đánh tên cướp đó cứu người Cáp Tát Khắc là sao?
Lý Văn Tú nói:
– Người Hán cũng có người xấu, người tốt. Tôi… tôi không phải là người xấu.
Tô Lỗ Khắc lẩm bẩm:
– Người Hán cũng có người tốt sao?
Y chầm chậm lắc đầu. Thế nhưng tính mệnh của y, tính mệnh con y, rõ ràng do thanh niên người Hán này cứu, không tin sao được?
Y bình sinh thù hận người Hán, nhưng đến lúc này niềm tin của y đã lung lay rồi. Y giận mình, tại sao buổi chiều lại uống rượu say, không được đấu với tên giậc cướp người Hán một trận, lại để cho người Hán cứu mạng mình? Cả đời y chuyện gì đến lúc nguy nan thì đều không đâu vào đâu, xui xẻo tận mạng. Thế nhưng hôm nay khi tên cướp vung kiếm chém xuống đầu, may mà được thanh niên này cứu, chẳnglẽ cũng xem đó là chuyện xui xẻo ư?