Bích Huyết kiếm

Hồi 11: Khẳng khái chung thù địch - Gian nan lập nghĩa quân

trước
tiếp

Viên Thừa Chí nhảy lên đỉnh chồng rương, vận Hỗn Nguyên Công thả nhẹ từng chiếc rương xuống. Ông câm đứng dưới chụp lấy, xếp lên xe lớn. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Họ tổn thương nhiều người như thế, chỉ sờ được ngoài rương mấy cái, không hiểu có lời hay lỗ vốn? Chuyện này phải nhờ đại sư ca của huynh dùng Thiết Toán Bàn tính toán lại.”

Nghe thấy xa xa tiếng còi hiệu vang lên liên tục, tiếng người ồn ào, tiếng ngựa hí om sòm, quả nhiên đại đội nhân mã đang kéo đến đây. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Phen này mình định lôi kéo hai nhóm anh hào Sơn Đông, Hà Bắc, nhưng xem ra không thành công”. Chàng bảo: “Chúng ta đi thôi.”

Mọi người tập trung lừa ngựa và bọn phu xe lại, rất may là không tổn thất gì. Đang định khởi hành thì thấy mấy trăm quan binh chia thành hai đội xung phong đến trước. Tên bả tổng cầm trường đao quát hỏi: “Làm gì ở đây?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Bọn tại hạ là bá tính đi đường.”

Bả tổng hỏi: “Sao ở đây lại có vết máu cùng binh khí gãy?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đó là bọn cường đạo chặn đường cướp bóc. May mà các vị quan binh đến đây, nên chúng hoảng sợ bỏ chạy.”

Mấy toán lính xông lên trước, truy kích quần đạo đang chạy trốn. Bả tổng liếc nhìn mấy chiếc rương lớn đặt trên xe, lạnh lùng hỏi: “Trong đó có gì vậy?”

Hồng Thắng Hải nói: “Chỉ là hành lý của bọn tại hạ thôi.”

Bả tổng bảo: “Mở ra xem thử.”

Hồng Thắng Hải đáp: “Toàn là quần áo tùy thân, không có gì đặc biệt đâu.”

Bả tổng quát luôn: “Ta bảo mở thì cứ mở, lải nhải gì nhiều thế?”

Thanh Thanh tức giận lên tiếng: “Không phải đồ phi pháp, cần gì phải xem?”

Tên bả tổng bắt đầu thóa mạ: “Thằng lỏi lộn giống này láo thật!” Hắn trở ngược trường đao, dùng cán đao gõ lên đầu Thanh Thanh. Nàng vội né mình tránh khỏi.

Bả tổng thấy mười chiếc rương sắt rất chắc chắn, đoán là bên trong chứa đồ quý. Mới nhìn là hắn đã khởi lòng tham, bây giờ nhân cơ hội bèn la lên: “Thằng lỏi này cả gan kháng lệnh! Anh em, sung công hết tang vật cho ta.”

Bọn quan binh này cướp đoạt tài vật bá tính đã quen, không cần phải nói nhiều. Mới nghe hai chữ “sung công”, đã có mười mấy tên ùa tới, cứ ba bốn tên khiêng một cái rương sắt xuống xe.

Tên bả tổng kia nổi lòng ác độc, sợ khổ chủ tố cáo lên thượng cấp, bèn quát lớn: “Bọn này đều là thổ phỉ, cả gan kháng cự quan binh, giết hết không cần luận tội!” Hắn lập tức vung đao chém tới.

Viên Thừa Chí nổi giận nghĩ thầm: “Nếu bọn ta không biết võ nghệ, há chẳng phải bị các ngươi sát nhân diệt khẩu? Loại chó này không biết đã hại chết bao nhiêu lương dân rồi.” Đợi thanh trường đao chém tới, chàng nghiêng người tránh né rồi xoay tay vỗ vào lưng hắn. Tên này làm sao chịu nổi, lập tức té nhào xuống ngựa mất mạng.

Bọn quan binh kinh hãi kêu la: “Cường đạo cản đường cướp tào vật! Cướp tào vật rồi!”

Những tên đi đầu bị ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải xông tới tấn công nên chạy tản ra tránh né, đại đội nhân mã phía sau cũng theo đó mà lộn xộn. Viên Thừa Chí nhặt thanh đại đao của bả tổng, múa lên cản hậu. Ba người kia dẫn đoàn xe đi trước, lùi vào trong rừng.

Nghe đầy những tiếng vũ khí chạm nhau loảng choảng, rõ ràng trong rừng quan binh đang đánh nhau với quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang. Tuy quần đạo và bang chúng hiểu võ nghệ, nhưng không cản nổi quan binh người đông thế mạnh, chẳng bao lâu bắt đầu thất thế phải lùi. Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đều bị thương rất nặng, không ai chỉ huy, quần hào lúc này như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy đánh, bị quan binh bao vây từng nhóm nhỏ mà tấn công. Tiếng kêu gào thê thảm ở đây vừa tắt nghẹn, ở chỗ khác lại nổi lên.

Tập hợp xong đoàn xe vào một gốc cây ở bìa rừng, Thanh Thanh hỏi: “Bây giờ phải làm sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Giúp đỡ cường đạo, giết bọn quan binh. Thanh đệ ở đây canh giữ.”

Thanh Thanh gật đầu đồng ý, cùng ông câm và Hồng Thắng Hải chia ra trông chừng đoàn xe. Tên quan binh nào xông vào là bị giết ngay, nên nhất thời bọn chúng chưa dám ép tới gần.

Viên Thừa Chí tung người lên cây, quan sát tình thế. Chàng thấy A Cửu và mấy đầu mục của Thanh Trúc Bang đang bị mấy chục quan binh vây chặt, tình thế ở đó là nguy hiểm nhất. Viên Thừa Chí lập tức tung người nhảy xuống, chạy thẳng tới trước, cánh tay trái vừa đưa ra đã hất văng hai ngọn thiết thương đang đâm tới A Cửu. Chàng hô lớn: “Lùi về ngọn đồi phía tây!”

Lại có một tên võ quan vung đao chém A Cửu. Viên Thừa Chí phóng cước đá cương đao bay đi mất, đánh thêm một quyền vào trước ngực. Tên võ quan lập tức hộc máu ra, té ngửa xuống đất. A Cửu thổi sáo tre ra lệnh, bang chúng Thanh Trúc Bang lập tức lùi về phía tây, dần dần tụ lại được với nhau.

Viên Thừa Chí chạy qua chạy lại, bảo quần đạo Sơn Đông cũng lùi về phía tây. Hễ thấy nhóm cường đạo nào bị quan binh bao vây không thoát thân được, chàng lập tức xông vào giải cứu. Khi tập họp được thành một nhóm đông, tình thế tức thì khác hẳn. Viên Thừa Chí dẫn họ vừa đánh vừa lùi, lên ngọn đồi đó phòng thủ.

Chàng lại lựa trong bang chúng và quần đạo ra mấy chục người võ công cao nhất, dẫn họ xung phong xuống, dẫn nốt đoàn xe và ba người Thanh Thanh lên đỉnh đồi. Bọn quan binh đứng dưới la hét ỏm tỏi, bao vây rất chặt.

Viên Thừa Chí hạ lệnh cho quần hào dùng ám khí để phòng thủ ngọn đồi. Quần hào rõ ràng sắp thua trận, tính mạng khó toàn, bây giờ được hướng dẫn tạm thời thoát khỏi nguy hiểm, nên rất tôn trọng hiệu lệnh của Viên Thừa Chí. Hơn hai trăm quan binh xông lên đồi liền bị một trận mưa ám khí hất xuống, bỏ lại mấy chục cái xác.

Quan binh vừa rồi thừa thắng mới dám xung phong, bây giờ gặp trở ngại bắt đầu sợ chết, không có tên nào liều mạng tấn công lên núi nữa. Chúng chỉ reo hò lớn tiếng cho trưởng quan nghe thấy mà thôi. Những tiếng hô “Xung phong! Giết!” vang động cả trời, nhưng người thì chẳng thấy ai. Rất lâu vẫn không có tên lính nào chạy đến gần.

Viên Thừa Chí sắp xếp kế hoạch phòng thủ, bảo bốn người là Đàm nhị trại chủ, Chử Hồng Liễu, Hồng Thắng Hải và A Cửu mỗi người dẫn một đội canh giữ một hướng. Những người còn lại ngồi tại chỗ băng bó vết thương, nghỉ ngơi điều tức.

Viên Thừa Chí dùng phép thôi cung quá huyệt xoa bóp cho Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng một hồi, hai người ngủ thiếp đi trên đỉnh đồi. Quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang thấy thủ lĩnh mình vô sự, càng kính phục Viên Thừa Chí hơn.

Viên Thừa Chí hỏi mấy trại chủ về địa hình nơi đó, rồi nhảy lên nóc xe đứng xem xét tình hình đám quan binh. Thấy phía sau đội quan binh này có những chiếc xe rất nặng, chàng liền nhảy xuống hỏi Thanh Thanh: “Lúc nãy chúng kêu la tào vật gì vậy?”

Chử Hồng Liễu đang được Hoài Âm Song Kiệt nắn bóp hai chân, nghe Viên Thừa Chí hỏi đến chuyện này bèn đáp: “Nhất định bọn quan binh này đang áp tải tiền thuế đi Bắc Kinh. Chúng ta gặp chúng ở đây thật là may mắn.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vận chuyển tiền thuế, sao phải cần đại đội quan binh như thế?”

Chử Hồng Liễu đáp: “Bây giờ thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi dậy khắp nơi, chẳng nơi nào không có hào kiệt khai sơn lập trại. Triều đình chỉ biết thu vét lương thực cùng tiền thuế ở Giang Nam, vận chuyển về Bắc Kinh để phát quân lương. Sùng Trinh vừa phải đề phòng quân Mãn Châu ở Liêu Đông, vừa phải đối phó với Sấm Vương và các lộ anh hùng, số tiền thuế này là mạng của hắn. Nếu xảy ra sơ suất thì hắn không thể ngồi yên trên ngai vàng được nữa, dĩ nhiên phải phái rất nhiều nhân mã hộ tống. Lương thực cùng tiền thuế vốn vận chuyển bằng đường thủy, nhưng chắc hoàng đế cần tiền gấp quá, nên mới đi đường bộ cho nhanh.”

Viên Thừa Chí nói: “Bọn quan binh này đang gánh nặng như thế, còn dám đến đây làm khó dễ chúng ta.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Chúng cứ tưởng nhấc tay một cái là giết sạch chúng ta, chụp cho mấy cái mũ đại vương ma vương gì đó rồi trình tấu lên trên. Há chẳng lập công lớn hay sao?”

Y ngừng một chút, lại nói: “Bọn tại hạ vốn là cường đạo thổ phỉ, không đến nỗi oan uổng. Chỉ tiếc là liên lụy đến tướng công.”

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Quan ép dân phản, hôm nay chính mắt ta nhìn thấy.”

Hồi nhỏ chàng đã học Ưng Tùng được một chút binh pháp thô thiển, suy nghĩ chốc lát rồi nói: “Ở hướng Tây Bắc có một cửa thung lũng hẹp. Chúng ta theo đó mà chạy ra ngoài.”

Lúc này Chử Hồng Liễu đã phục chàng sát đất, bèn nói: “Xin Viên tướng công dặn dò, mọi người sẽ nghe theo hiệu lệnh.”

Viên Thừa Chí vẽ bản đồ dưới đất, trình bày kế hoạch phá vây, rồi chia công việc cho mọi người. Khi chàng phát lệnh, quần hào đồng thanh reo hò vang dội. Viên Thừa Chí cùng ông câm đi trước mở đường, dẫn mọi người xung phong xuống núi.

Bọn quan binh đã uể oải lắm rồi, chỉ có một số ít được lệnh canh giữ, phần lớn ngồi nằm la liệt để nghỉ ngơi. Đột nhiên thấy quần hào reo hò xung phong tới, khí thế hung hãn vô cùng, chúng chưa kịp chống đỡ đã bị quần hào phá vỡ một khoảng trống để thoát thân.

Quần hào chạy về phía cửa thung lũng, quan binh hò hét đuổi theo sau. Truy đuổi một hồi, mấy chục cường đạo và bang chúng chạy sau cùng đột nhiên quay lại chiến đấu, cản trở quan binh truy đuổi. Khi đại đội quan binh tấn công tới, nhóm cản hậu này cũng lùi hết vào trong thung lũng.

Hai bên con đường dẫn vào thung lũng này là những ngọn núi cao chót vót, địa thế vô cùng nguy hiểm. Khi quan binh đuổi vào thung lũng, tên tổng binh chỉ huy bèn hạ lệnh đuổi chậm lại, đề phòng mai phục.

Đột nhiên trên cỗ xe lớn phía trước có một chiếc rương sắt rơi xuống, nắp rương bật mở đổ ra. Một quãng đường vương vãi kim ngân châu báu, chiếu sáng lấp loáng, hấp dẫn vô cùng. Tổng binh cả mừng, hạ lệnh gấp rút đuổi theo. Đuổi được một lúc, chúng thấy quần hào quăng cả binh khí mà chạy loạn xạ; dưới đường rải rác rất nhiều tiền tài châu báu. Bọn quan binh lập tức tranh nhau mà lượm, rối loạn cả lên.

Quan tổng binh thấy quần hào tan rã, ngay cả binh khí cũng vứt đầy dưới đất, nên không đề phòng gì nữa. Hắn một lòng một dạ muốn đoạt lấy chiếc rương bảo bối, bèn hạ lệnh cho cả tiền quân, trung quân, hậu quân cùng đuổi gấp lên.

Lúc này Viên Thừa Chí đã trèo lên vách núi, bám cả tay chân vào những sợi dây mây trên cành cây vách đá, đi vòng lại phía sau bọn quan binh. Quả nhiên hậu đội là một đoàn xe dài dằng dặc, nhiều không sao đếm xuể. Quanh xe đều dùng vải vàng che chắn, trên xe có cắm cờ hiệu ghi chữ đỏ: “Đại Minh Giang Nam tào vật”. Càng nhìn ra xa, đoàn xe càng giống một con rồng vàng rất dài.

Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Thế triều đình còn mạnh, không dễ dàng đối địch, nếu cướp được số tiền thuế này thì chính là một nhát búa bổ vào đầu kẻ đại thù Sùng Trinh hoàng đế, nghĩa binh của Sấm Vương sẽ dễ thành công hơn. Chàng thấy dưới đồi cây cối um tùm, bèn chui ra khỏi rừng để quan sát. Chỉ chốc lát chàng đã tới sát đội ngũ quan binh, nhờ cây cối che chắn mà nghe rõ cả tiếng trò chuyện của chúng.

Những cỗ xe ồn ào lăn bánh qua mặt chàng, mãi không dứt. Lát sau tiếng bánh xe lách cách có vẻ nhẹ nhàng hơn, hình như hàng chở trong xe không phải tiền bạc hay lương thực nữa. Chàng theo kẽ hở trong bụi rậm nhìn ra ngoài, thấy đó là hơn trăm chiếc xe chở tù. Mỗi người tù đều bị trói quặt hai tay, bỏ ngồi trong xe. Trên xe cắm cờ trắng ghi những chữ: “Hậu trảm cự khấu…”, nào là giang dương đại đạo, lưu khấu đầu mục, vân vân. Hiển nhiên đây đều là quân khởi nghĩa, hoặc là những kẻ cầm đầu sơn trại phản kháng triều đình.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Những người này đều nên cứu, nhưng mình ra tay cách nào đây?”

Đang suy nghĩ, đột nhiên chàng thấy một chiếc xe đi ngang qua viết chữ: “Hậu trảm phản nghịch Tôn Trọng Thọ”. Viên Thừa Chí kinh hãi, đuổi theo nhìn kỹ thì người ngồi trong xe đúng là Tôn Trọng Thọ. Tóc hai bên thái dương ông đã bạc, sắc mặt đầy vẻ phong sương, so với hồi chàng gặp trên đỉnh Thánh Phong thì già đi nhiều, nhưng dáng vẻ vẫn vô cùng khẳng khái. Tuy ngồi trong xe tù mà phong độ ông vẫn không kém năm xưa.

Viên Thừa Chí còn đang kinh hãi, lại thấy những chiếc xe tù phía sau đẩy tới đều nhốt thuộc hạ của cha mình, trước kia từng dạy dỗ nuôi dưỡng mình. Ba vị thúc thúc Nghê Hào, Chu An Quốc, La Đại Thiên cũng có trong đó, chỉ thiếu Ưng Tùng. Viên Thừa Chí chua xót trong lòng, sau đó thầm mừng rỡ: “Ông trời có mắt, hôm nay cho mình gặp các vị thúc thúc tại đây.”

Không bao lâu, những chiếc xe tù đã đi qua hết. Viên Thừa Chí phóng người chạy ngược ra sau. Bọn quan binh nhìn thấy chàng, lập tức nổi hiệu báo động, có tên kịp lấy cung ra bắn. Nhưng thân pháp Viên Thừa Chí cực nhanh, khi tên bắn tới người đã không thấy đâu nữa. Chàng chạy được mấy chục trượng thì hết đội ngũ quan binh. Đi cuối cùng là một tên võ quan cưỡi ngựa, cầm đại đao áp giải.

Viên Thừa Chí đang định ra tay thì đột nhiên thấy xa xa cát bụi bay mù, mấy con ngựa đang phi tới. Chàng nghĩ bụng: “Thì ra có quân tiếp ứng. Mình đợi họ tới đây, xem rõ ràng mới tính.”

Chỉ chớp mắt là năm con ngựa đã chạy tới nơi. Đi đầu là một nữ nhân, chính là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Bốn người phía sau là vợ chồng Quy Tân Thụ và Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh.

Viên Thừa Chí cả mừng kêu lớn: “Nhị sư ca!” Chàng lập tức phóng ra, đứng trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ. Quy nhị nương dừng ngựa, nhận ra chàng liền gật đầu một cái, hỏi: “Thì ra là ngươi. Có chuyện gì không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tiểu đệ đang có chuyện gấp, mong sư ca sư tẩu cùng các vị ra tay trợ giúp.”

Quy nhị nương nói: “Chúng ta cũng có việc quan trọng, không rảnh.” Mụ cùng Quy Tân Thụ lại giật dây cương, hai con ngựa chạy qua hai bên Viên Thừa Chí, tiếp tục phi về phía trước. Mai Kiếm Hòa chắp tay hô một tiếng: “Sư thúc!”, rồi chạy theo sư phụ, sư nương.

Lưu Bội Sinh nhảy xuống ngựa, lên tiếng: “Sư phụ sư nương đang có việc quan trọng. Đệ tử lo liệu xong sẽ lập tức tới đây, nghe lời sư thúc sai khiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì không cần nữa. Lưu huynh cho ta mượn ngựa một chút.”

Lưu Bội Sinh nói: “Sư thúc cứ dùng đi.” Y đưa dây cương cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nói: “Hai người chúng ta cưỡi chung con ngựa này, đuổi kịp bọn quan binh phía trước là được rồi.” Nói xong, chàng tung người lên ngựa. Lưu Bội Sinh cũng nhảy lên. Viên Thừa Chí kẹp hai chân lại, con ngựa lập tức cất vó phi nhanh tới trước.

Lưu Bội Sinh hỏi: “Sư thúc rượt theo bọn quan binh để làm gì?”

Viên Thừa Chí đáp: “Cứu người.”

Lưu Bội Sinh mừng rỡ nói: “Thế thì hay quá! Bọn đệ tử cũng đang đuổi theo bọn quan binh này để đánh cho một trận.”

Viên Thừa Chí nghe vậy mừng rỡ, thúc ngựa chạy càng gấp hơn. Cuối cùng chàng đã nhìn thấy sau lưng đội quan quân áp giải, nhưng không thấy vợ chồng Quy Tân Thụ, chắc đã vượt qua bọn chúng rồi. Chàng bèn giục ngựa tới gần

Tên chỉ huy quân áp giải nghe tiếng vó ngựa phía sau, vừa quay đầu lại đã thấy một người từ lưng ngựa nhảy tới. Hắn giật mình kinh hãi, vội vung đại đao chém lên trời. Tay phải Viên Thừa Chí đưa ra phía trước chụp lấy cán đao, người đã nhảy lên lưng ngựa của hắn, tay trái điểm trúng huyệt đạo sau lưng. Tên kia lập tức tê chồn, muốn phản kích nhưng không động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí quát bảo: “Mau hạ lệnh cho đoàn xe chở tù nhân dừng lại.”

Tên chỉ huy chưa kịp hạ lệnh, đã thấy vợ chồng Quy Tân Thụ bất ngờ từ trong rừng nhảy xổ ra. Bốn người cùng rút binh khí chém giết quan binh, đội ngũ lập tức lộn xộn.

Viên Thừa Chí bảo Lưu Bội Sinh tới giúp sư phụ, rồi giật lấy đại đao, chạy tới cỗ xe nhốt Tôn Trọng Thọ. Chàng chém vỡ chiếc xe, la lớn: “Tôn thúc thúc! Con là Viên Thừa Chí đây.” Tôn Trọng Thọ nghe mà như đang nằm mộng, ngơ ngác một hồi mới hiểu.

Viên Thừa Chí lại tới cứu Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên. Những người này đều là võ tướng đánh quen trăm trận, tuổi già mà phong thái anh hùng chưa mất, vừa được cứu đã giật lấy binh khí. Người thì chém giết quan binh loạn xạ, người thì phá vỡ xe tù cứu người khác ra. Những ai thoát hiểm đều lo phá xe cứu người, chỉ chốc lát bao nhiêu xe tù đều bị phá vỡ, hơn trăm hảo hán như cọp sổng chuồng. Trong đó có ba mươi mấy người là thuộc hạ cũ của Sơn Tông. Nghe nói người đến cứu là công tử của Viên đốc sư, ai cũng phấn chấn hẳn lên.

Đánh nhau loạn xạ một hồi, hậu đội của quan binh không còn đội ngũ gì nữa, tranh nhau chạy trốn về phía trước. Lúc này tiền đội của quan binh đã phát hiện phía trước có đá lớn cản đường, không thể đuổi tới được. Thế là cả đầu lẫn đuôi đều loạn xạ.

Viên Thừa Chí thấy bọn quan binh đang rối loạn, nhưng quân số rất đông, không dễ gì tiêu diệt được. Chàng vứt bỏ đại đao, nhảy lên nóc đội xe vận chuyển lương thực và tiền thuế đang xếp hàng dài. Chạy trên nóc xe khoảng một dặm, chàng mới thấy tên tổng binh của đội quân này, đầu đội nón sắt, tay múa trường đao chỉ huy tác chiến.

Viên Thừa Chí nhảy lên lưng ngựa tên tổng binh đó. Hắn xoay đao về định chém, Viên Thừa Chí vươn tay định chụp lấy. Nào ngờ hắn tung người nhảy xuống ngựa nhanh như chớp, nên chàng không túm được cổ tay hắn.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Không ngờ trong quan quân cũng có người võ công cao như thế.” Tay trái chàng vung lên, ba đồng tiền nhỏ bay ra. Đây chính là thủ pháp phát xạ quân cờ do Mộc Tang đạo nhân truyền dạy.

Tên tổng binh đó múa trường đao gạt được hết ba đồng tiền. Viên Thừa Chí cất tiếng khen: “Giỏi lắm! Bây giờ ngươi đỡ thử xem.” Chàng vẫy liền hai tay, ném ra ba lần chín là hai mươi bảy đồng tiền, chia làm ba đường thượng trung hạ, đánh vào người hắn. Dù là võ lâm cao thủ cũng khó đỡ chiêu này.

Tên tổng binh tuy võ nghệ cao cường, nhưng làm sao tránh được thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ? Loảng choảng một tiếng, trường đao tuột khỏi tay hắn rơi xuống đất. Sau đó đầu gối hắn gập lại, tay và lưng đều trúng kim tiền tiêu, khuỵu chân quỳ xuống trước mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không cần đa lễ.” Chàng đưa tay nắm cánh tay trái hắn đỡ dậy. Không ngờ hắn xuất một quyền đánh vào trước ngực chàng, thế quyền vừa nhanh vừa có lực. Viên Thừa Chí đứng yên, bảo: “Ta để ngươi đánh một quyền cho hả dạ.”

Rõ ràng thoi quyền này đánh trúng vào ngực chàng, nhưng lại giống như đánh trúng một khối bông gòn, hoàn toàn không phát ra tiếng động, cũng không có tác dụng gì cả. Viên Thừa Chí vận nội công, nhấc bổng tên tổng binh quăng lên. Thấy hắn bay lên trời như một con diều bị đứt dây, bọn quan quân đều kinh hãi la lên.

Tên tổng binh tưởng phen này chắc chết, nên nhắm nghiền mắt lại. Nào ngờ khi rơi xuống thì hắn được hai bàn tay đỡ lấy, mở mắt ra vẫn thấy thư sinh lúc nãy. Bây giờ hắn đã biết võ công người này cao hơn mình mấy chục lần, đã lọt vào tay thì không còn cách nào kháng cự, nên không nghĩ gì tới chuyện sống chết nữa. Mà nếu hắn muốn chống đỡ, cũng không biết phải chống đỡ từ đâu.

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi hãy hạ lệnh cho tất cả buông vũ khí, ta sẽ tha không giết các ngươi.”

Tên tổng binh nghĩ: “Số tào vật này quan trọng vô cùng, nếu để cướp đi thì chắc chắn mình bị xử tử.” Hắn bèn ngẩng cao đầu, dõng dạc nói: “Các ngươi muốn giết thì cứ giết, không cần phải nhiều lời.”

Viên Thừa Chí mỉm cười, lại vận kình ném hắn lên trời. Khi hắn rơi xuống, chàng chụp lấy rồi lại ném lên, cứ thế ba lần. Tên tổng binh hoa mắt chóng mặt, không biết mình đang ở đâu nữa.

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ngươi không hạ lệnh, thì ngươi chết ngay mà thuộc hạ của ngươi cũng không sống nổi. Đầu hàng là hay nhất.”

Tên tổng binh nghĩ: “Đúng là trước mắt chỉ còn một con đường sống!” Hắn bèn gật đầu.

Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi họ gì?”

Hắn đáp: “Tiểu tướng họ Thủy.”

Hắn định thần một chút, rồi hạ lệnh gọi bọn tham tướng, thủ bị, du kích, đô tư dưới tay mình đến. Bọn tùy tướng nghe hắn đầu hàng đạo tặc, đều hoảng sợ nhìn nhau. Một tên đô tư cất tiếng thóa mạ: “Ngươi ăn lộc vua mà bất trung bất…”

Chưa nói dứt câu, Viên Thừa Chí đã túm lấy hắn quật xuống đất, ngất xỉu lập tức. Hết thảy số võ quan còn lại đều run rẩy nói: “Thuộc hạ… xin phụng… phụng tướng lệnh của tổng binh.”

Thủy tổng binh quát lên: “Hạ lệnh ngừng chiến!”

Viên Thừa Chí truyền lệnh cho quần hào không chém giết nữa, lại bảo Thủy tổng binh hạ lệnh cho quan binh bỏ vũ khí xuống. Thủy tổng binh không làm gì được nữa, chỉ còn cách vâng lời. Thế là trận hỗn chiến chấm dứt.

Dưới ánh đuốc sáng trưng đột nhiên thấy năm người chạy tới, lục lọi lung tung trong đoàn xe, phá nắp rất nhiều rương hòm. Họ thấy toàn là tiền bạc và lương thực, hất ra một bên không lấy. Bọn quan binh thấy năm người này hung hãn, mình đang bại trận nên không dám cản trở.

Khi họ đến gần, thì ra là năm thầy trò Quy Tân Thụ. Viên Thừa Chí hô lớn: “Nhị sư ca! Sư ca tìm gì vậy? Để tiểu đệ bảo chúng lấy ra.”

Quy Tân Thụ thấy bọn võ quan lớn nhỏ đều tập trung ở cạnh Viên Thừa Chí, chỉ nhô lên hụp xuống ba cái đã đến chỗ Thủy tổng binh, đưa tay nắm lấy ngực hắn xách hổng lên. Lúc này Thủy tổng binh chưa hoàn hồn, lại đột nhiên gặp phải một đại cao thủ nữa, giãy giụa thế nào cũng là vô dụng.

Quy Tân Thụ quát hỏi: “Phục Linh Thủ Ô Hoàn của Mã Sĩ Anh tiến cống giấu ở chỗ nào?”

Thủy tổng binh đáp: “Mã tổng đốc chê đoàn xe này đi chậm, đã phái người khác đưa vào kinh rồi.”

Quy Tân Thụ hỏi: “Có thật không?”

Thủy tổng binh đáp: “Tính mạng tiểu tướng đang nằm trong tay các vị, đâu dám nói dối?”

Quy Tân Thụ vứt hắn xuống đất, thét lên: “Nếu ta điều tra được ngươi nói bừa bãi gạt người, sẽ trở về lấy cái mạng chó của ngươi.”

Y quay lại bảo Quy nhị nương: “Đuổi lên phía trước.”

Quy nhị nương vẫn bồng đứa bé, trong lòng lại càng lo lắng, xoay tay đánh vào một tên quan binh xớ rớ cản đường phía trước, khiến hắn té chết ngay tại chỗ. Vợ chồng họ Quy không đếm xỉa gì đến Viên Thừa Chí nữa, dẫn đồ đệ rời khỏi đó.

Viên Thừa Chí biết vợ chồng nhị sư ca không thân thiện với mình, nên cũng im lặng không nói gì. Đợi năm người rời khỏi đó, chàng mới hỏi Thủy tổng binh: “Họ tìm dược hoàn gì vậy?”

Thủy tổng binh bị bắt rồi đầu hàng, lúc này lòng dạ rối beng, hồn bất phụ thể. Hắn nghĩ đến hoàng đế sẽ hạ chỉ chém hết nhà mình, lại nghĩ đến công danh tiền đồ từ nay như nước trôi ra bể. Viên Thừa Chí hỏi mãi, hắn cứ ấm ớ trả lời không biết những gì. Mất nửa ngày Viên Thừa Chí mới hiểu được đại khái.

Thì ra gần đây, dưới vực sâu ở Hoành Sơn xa thẳm có người tìm được một miếng phục linh lớn, ước tính đã trên ngàn tuổi. Thật là xảo hợp, cũng lúc này ở Liêu Đông có người đào được một cây hà thủ ô đã thành hình người. Hai món này đều là báu vật ngàn năm khó gặp. Tổng đốc Phụng Dương là Mã Sĩ Anh nhận được tin tức, cùng bọn tham mưu dưới trướng tốn cả nửa năm, vừa dùng thủ đoạn cưỡng ép vừa trả giá cao để thu mua. Sau đó hắn tìm những dược sư cao thủ, sai chế luyện thành tám chục viên Phục Linh Thủ Ô Hoàn. Trong thuốc còn phối chế thêm nhân sâm lâu năm, ngũ sắc linh chi, xạ hương, ngưu hoàng, toàn là dược liệu quý cả. Chỉ riêng dược liệu đã tốn tới hai ba vạn lạng bạc rồi. Vụ này làm chấn động cả quan trường lẫn giới hành nghề y dược ở Giang Nam.

Theo cổ phương ghi lại, thì loại hoàn này thật sự có công hiệu cải tử hoàn sinh. Ai thể chất yếu kém, chỉ cần uống một hoàn là khỏe ra lập tức. Mã Sĩ Anh giữ lại bốn mươi viên chuẩn bị cho bốn mươi năm cuối đời mình, mỗi năm uống một viên. Còn bốn chục viên thì hắn tiến cống vào cung, ước mong Sùng Trinh làm hoàng đế thêm bốn chục năm nữa, mỗi năm thăng quan cho mình một cấp.

Khó khăn lắm Viên Thừa Chí mới hiểu được Thủy tổng binh kể những gì. Chàng nghĩ bụng: “Thế là đúng rồi. Con của nhị sư ca có bệnh, chữa trị lâu ngày không khỏi, nên ông ấy nóng lòng đoạt lấy số dược hoàn này.”

Thủy tổng binh lại nói: “Mã tổng đốc định sai tiểu tướng đem loại thuốc quý này vào Bắc Kinh. Nhưng về sau tổng đốc chê đoàn xe này quá đông, hành trình chậm chạp, lại áp tải bọn tử tội nên không cát lợi. Tổng đốc bèn sai tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục ở Kim Linh hộ tống, đưa vào kinh dâng lên hoàng thượng.”

Còn chuyện Mã tổng đốc giữ lại bốn chục viên thuốc cho mình là một chuyện cực kỳ bí mật, ngay cả thê thiếp sủng ái nhất của hắn cũng không được biết. Dĩ nhiên Thủy tổng binh lại càng không biết.

Viên Thừa Chí rất mong nhị sư ca đoạt được thuốc hoàn để cứu mạng con trai, bèn hỏi: “Bọn tiêu sư đó đi được mấy ngày rồi?”

Thủy tổng binh đáp: “Khởi hành cùng một ngày, nhưng tiêu cục chỉ có mười mấy người nên đi nhanh hơn nhiều. Chắc họ đã đi trước năm sáu ngày đường rồi.”

Lúc này Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên cùng mọi thuộc tướng của Viên Sùng Hoán đã kéo tới gặp Viên Thừa Chí. Mọi người thoát khỏi đại nạn, lại thấy Viên Thừa Chí đã lớn thành người, thân hàm tuyệt kỹ. Trận chiến hôm nay chỉ là thử sức, nhưng chàng đã hiển lộ được hùng phong ngày trước của phụ thân. Không ai là không kinh ngạc, mừng rỡ.

Viên Thừa Chí hỏi nguyên do bị bắt, Tôn Trọng Thọ kể lại đại khái. Năm xưa thuộc hạ Sơn Tông tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, quân Minh bất ngờ đột kích. May mà đa số đã rời khỏi đó, chỉ có Ưng Tùng bị hại, còn bọn Tôn Trọng Thọ đều thoát hiểm. Sau này lại tụ họp ở phía Nam tỉnh Sơn Đông, tập trung hào kiệt, chuẩn bị khởi sự. Không ngờ tiết lộ bí mật, tháng trước bị tổng đốc Mã Sĩ Anh phủ Phụng Dương đánh úp. Những nhân vật quan trọng đều bị bắt, áp giải lên kinh thành xử trảm. May mà thiên duyên xảo hợp, họ được Viên Thừa Chí cứu thoát.

Tôn Trọng Thọ nghe nói Viên Thừa Chí có liên lạc với Sấm Vương, bèn nói: “Công tử! Ở đây đã có quần đạo và bang chúng, lại thêm một số quan binh đông đúc mới đầu hàng. Họ đều rất thán phục công tử, đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp. Tại sao công tử không hoãn chuyện về kinh, chỉnh đốn nhóm người này một phen?”

Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Tôn thúc thúc nói rất đúng. Phải nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc và các vị cùng tham gia mưu đồ đại sự. Vùng này rất đông anh hùng hào kiệt, chúng ta phải cố gắng làm ra chuyện lớn. Trước mắt phải tìm một nơi tụ tập quần hùng.”

Tôn Trọng Thọ vỗ đùi, kêu lên: “Hay lắm! Sao chúng ta không đến Thái Sơn?”

Viên Thừa Chí nói: “Thái Sơn cách đây không xa lắm, không còn chỗ nào tốt hơn nữa.”

Mọi người lập tức thu nhặt số kim ngân châu báu đã quăng vãi khắp nơi, rồi lấy tiền thuế ra, chia cho bang chúng Thanh Trúc bang và quần đạo tỉnh Sơn Đông hai chục vạn lượng. Chử Hồng Liễu cũng được năm ngàn lượng. Sau đó họ lấy ra thêm năm chục vạn lượng, thưởng cho số quan binh đầu hàng. Trong thung lũng lúc này tiếng hoan hô vang dội như sấm động. Quan quân đầu hàng vốn đang ủ rũ, khi được chia tiền tinh thần phấn chấn hẳn lên.

*

*   *

Hai tên bang chúng Thanh Trúc Bang khiêng một cái cáng, đưa bang chủ Trình Thanh Trúc tới. Viên Thừa Chí thấy trên mặt lão đã có sắc máu, hoan hỉ nói: “Vết thương của bang chủ bình phục rất nhanh, đủ biết nội lực thâm hậu thế nào.”

Trình Thanh Trúc nói: “Đa tạ công tử! Tại hạ vừa được biết công tử là cốt nhục của Viên đốc sư, thật hết sức vui mừng.” Nói đến đây, thanh âm lão nghẹn hẳn đi.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Trình bang chủ có quen biết tiên phụ hay sao?”

Trình Thanh Trúc lắc đầu. Lão bảo bọn tùy tùng mở bọc lấy ra một phong thư lớn, đưa cho Viên Thừa Chí rồi nói: “Công tử xem cái này thì sẽ biết đầu đuôi.”

Viên Thừa Chí nhận lấy, thấy trên bì thư ghi ba chữ lớn: “Tuyền thanh ký”, dưới có mấy chữ: “Trình Bản Trực soạn”, trên góc phải viết một đôi câu đối: “Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si”. Chàng chưa hiểu, bèn hỏi: “Vị Trình Bản Trực tiên sinh này là thế nào với Trình bang chủ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đó là tiên huynh. Tại hạ tên là Trình Bản Cương.”

Viên Thừa Chí gật đầu, mở phong thư ra. Trong thư viết:

“Sùng Hoán mười năm là thần nhân bảo vệ biên cương, một mình dẫn quân giữ yên quan ải…”

Trong lòng chàng nhói lên một cái, lại hỏi: “Lá thư này nói về tiên phụ ư?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy. Lệnh tôn Đốc sư đại nhân là người mà tiên huynh thán phục nhất trên đời.”

Viên Thừa Chí cung kính nâng lá thư lên đọc tiếp:

“Sơn Hải Quan trong vòng một dặm, mỗi vọng gác đều do Sùng Hoán lập nên, mỗi viên gạch trên tường thành đều do Sùng Hoán xây dựng. Thử hỏi, từ khi xảy ra chiến trận ở đất Liêu, có ai bắt địch bỏ thành trì mà rút chạy trong vòng trăm dặm? Người giữ chắc biên cương, lại khiến địch kinh hoàng bỏ ý xâm lăng, ngoài Sùng Hoán ra còn ai khác nữa?”

Viên Thừa Chí đọc xong đoạn này, khóe mắt đã đẫm lệ. Chàng lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Thảo dân xin hỏi, từ khi địch bắt đầu xâm lấn, có trận nào địch không thắng, có thành nào địch không chiếm? Thưa rằng không có. Thảo dân xin hỏi, phải chăng từ trận phòng thủ Ninh Viễn năm Bính Dần, triều đình mới biết phải phòng thủ, từ trận tấn công Cẩm Châu năm Đinh Mão, triều đình mới biết phải tấn công? Thưa rằng đúng vậy.

Hôm nay thu hồi Lạc, Tôn là quân lính đất nào? Quân lính đất Liêu. Chiến mã đất nào? Chiến mã đất Liêu. Trước khi Sùng Hoán đặt chân tới đất Liêu này, vùng này có binh mã của thánh thượng không?”

Viên Thừa Chí lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Khắp thế gian đều là những người khôn khéo, chỉ có Viên công là một kẻ đại ngu si. Tiền bạc là thứ mà khắp thế gian không ai không thích, chỉ một mình Viên công không thích. Ai cũng thích được người đời yêu quý, chỉ một mình Viên công không tiếc mạng mà chịu nhận những lời trách móc. Những nỗi cực nhọc không ai dám nhận, Viên công nhận ngay chẳng tiếng nề hà. Những chuyện hiềm khích nghi ngờ không ai không tránh né, Viên công không ngần ngại rước lấy vào mình. Còn nữa, chuyện đói rét không ai chịu được, Viên công đứng ra chịu đói rét làm gương cho binh sĩ. Những điều lễ giáo ít ai dám phá, Viên công cũng giẫm đạp lên để phơi bày gan ruột cùng thuộc hạ dưới trướng mình.”

Viên Thừa Chí đọc đến chỗ này thì không gượng được nữa, nước mắt ào ra rơi lộp bộp lên trang giấy. Qua màn nước mắt mờ mờ, chàng cố đọc mấy dòng chữ cuối cùng:

“Vì thế, có đào xới hết mười hai tỉnh vùng Trực Lệ để tìm người gan dạ thẳng thắn, đảm đương trọng trách mà giữ mình trong sạch như Viên công, e rằng không thể có được. Vì thế, chỉ một mình Viên công là xứng đáng để Trình Bản Trực này chết thay.”

Viên Thừa Chí ôm lá thư vào sát ngực, vừa tuôn nước mắt vừa nói: “Lệnh huynh thật là tri kỷ của tiên phụ, xưng tụng tiên phụ như thế. Tại hạ cảm kích vô cùng.”

Trình Thanh Trúc thở dài nói: “Tiên huynh cùng lệnh tôn vốn không quen biết. Tiên huynh chỉ là bá tính bình thường, đã ba lần xin gặp nhưng lệnh tôn bận rộn nên chưa được tham kiến. Tiên huynh vẫn không nguôi lòng, liền xin vào làm thuộc hạ trong phủ Đốc sư, ra sức lo việc, cuối cùng cũng được Đốc sư coi trọng thu làm môn sinh. Lệnh tôn bị oan hạ ngục, lại bị độc hình lăng trì, tiên huynh bèn viết lá thư này gửi triều đình để minh oan cho lệnh tôn. Chỉ vì văn từ vô cùng thẳng thắn, nên hôn quân giận dữ mà xử tử tiên huynh.”

Viên Thừa Chí kêu lên một tiếng, nghiến răng nói: “Hôn quân đáng chết!”

Trình Thanh Trúc lại nói: “Tiên huynh có di ngôn để lại: chết vì Viên công thật không uổng phí. Chỉ mong được chôn cạnh mộ của Viên công, trên bia ghi cho câu đối: Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si. Được vậy thì tiên huynh yên lòng nhắm mắt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu việc này đã thực hiện được chưa?”

Trình Thanh Trúc thở ra một hơi rất dài, đáp: “Lệnh tôn bị một kỳ oan. Bọn gian thần và hôn quân đều nói Viên Đốc sư thông địch, cấu kết Mãn Thanh. Một đám dân chúng ngu dốt không phân biệt được đúng sai, tin vào chuyện này. Sau khi lệnh tôn bị bắt lên pháp trường, bọn ngu dân ào lên cắn nát thân thể Đốc sư, còn nói là phải uống sạch máu, ăn sạch thịt của gian tặc bán nước…”

Viên Thừa Chí nghe đến đây buông tiếng khóc ròng, quay lại hỏi Tôn Trọng Thọ: “Tôn thúc thúc! Tôn thúc thúc… Chuyện này có thật hay không?”

Tôn Trọng Thọ cúi đầu, rơi lệ đáp: “Đúng là như vậy. Năm xưa con còn nhỏ, chúng ta không nói để con đỡ đau lòng.”

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Bọn hôn quân gian thần làm chuyện bậy bạ, còn có thể hiểu được. Nhưng tại sao dân chúng trong thành Bắc Kinh lại ác độc như thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Bá tính không hiểu được chân tướng, tin rằng thánh chỉ của hoàng đế không thể sai được. Lúc đó quân Thanh vây thành Bắc Kinh, cướp bóc đốt nhà, giết hại cả ngàn cả vạn người, nên bá tính trong thành Bắc Kinh hận bọn Hán gian cấu kết với địch đến tận xương tủy.”

Trình Thanh Trúc nói: “Tại hạ phẫn nộ vì huynh trưởng, tìm mọi cách xâm nhập kinh thành làm một kẻ sai dịch đê tiện, tìm cơ hội hành thích hôn quân để trả thù cho tiên huynh và Viên Đốc sư. Tiếc là võ nghệ kém cỏi, hành thích không thành, bị bọn thị vệ bắt được. May mà có người cứu giúp nên thoát khỏi hoàng cung, rồi đi vào hắc đạo làm nghề buôn bán không cần vốn. Phen này có mắt không tròng, lại toan cướp bóc tài vật của công tử.”

Viên Thừa Chí nói: “Khi nói ra mới thấy nguồn gốc sâu xa. Không nhờ vậy thì tại hạ không được quen biết bang chủ.”

Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Ủa, tiểu cô nương đâu rồi? Cô ấy không sao chứ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đa tạ cô nương lo lắng. Tiểu đồ đã tự về trước rồi.”

Thanh Thanh hỏi: “Ta đang muốn nói chuyện với cô ấy, sao cô ấy lại rời khỏi đây rồi?”

Mọi người nghỉ ngơi một ngày. Viên Thừa Chí phái những người đắc lực của Thanh Trúc Bang và quần đạo Sơn Đông đưa thư đi khắp nơi, hẹn ngày hai mươi tháng bảy tập trung tại đỉnh Thái Sơn. Chàng lại mời Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc và những thuộc hạ cũ của Sơn Tông, cùng Thủy tổng binh dẫn bọn quan binh đầu hàng, dựng doanh trại ở một vùng đồi núi hiểm trở hoang vu. Mọi người đặt tên doanh trại này là Sơn Tông Doanh.

Trong trận này sáu ngàn quan binh của Mã Sĩ Anh đầu hàng hết, hai trăm mấy chục vạn lượng tiền thuế mất sạch. Từ kinh sư đến Sơn Đông, không nơi nào không chấn động. Khi Mã Sĩ Anh điều đại quân đến truy đuổi, thì đạo tặc và bang chúng hoàn toàn không còn dấu tích ở đó nữa, nên không sao tìm thấy.

*

*   *

Từ sau rằm tháng bảy, ngày hẹn sắp đến, hơn ngàn anh hùng hào kiệt các bang các phái lục tục kéo tới, chật cứng các chùa miếu, đạo quán trên núi Thái Sơn.

Sáng sớm hai mươi tháng bảy, quần hùng tụ tập ở Thạch Kinh Cốc. Nơi này có một mặt đá bằng phẳng, rộng tới vài mẫu, vừa sáng sủa vừa sạch sẽ. Tương truyền đây là nơi mà các vị cao tăng thời cổ đại đã giảng kinh. Trên vách núi có khắc mấy đoạn Kinh Kim Cang, chữ lớn bằng cái đấu, bút lực hùng hồn.

Những người đến dự hội ngày hôm đó, ngoài Viên Thừa Chí, ông câm, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải ra, còn những thuộc hạ dưới trướng Viên Sùng Hoán như Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên. Còn có Tiêu Công Lễ bang chủ Kim Long Bang ở Giang Tô, dẫn theo bọn Tiêu Uyển Nhi, Ngô Bình, La Lập Như. Còn có Thanh Trúc Bang ở Hà Bắc do Trình Thanh Trúc dẫn đầu, còn có quần đạo Sa Thiên Quảng, Chử Hồng Liễu, Đàm Vân Lý tỉnh Sơn Đông. Còn có Vinh Thái ở Du Long Bang tỉnh Chiết Giang. Có cả Thập Lực đại sư trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở Hà Nam, minh chủ Trình Khởi Vân của thất thập nhị đảo nơi hải ngoại. Có cả một số người vừa được cứu khỏi xe chở tử tù, như trại chủ Nhiếp Tiên Phong ở Phi Hổ Cốc tỉnh Hoài Nam, bang chủ Lương Ngân Long của Phàn Dương Bang ở phía bắc Giang Tây. Có cả những thuộc hạ của Thủy tổng binh Minh triều đã đầu hàng. Ngoài ra còn vô số hảo hán giang hồ, danh gia võ thuật đương thời.

Trên đỉnh Thái Sơn đủ mặt anh hùng, nhưng Viên Thừa Chí nhìn mãi không thấy cô A Cửu mỹ miều của Thanh Trúc Bang, hơi thất vọng. Chàng nghĩ ngợi một lúc, nhưng chẳng bao lâu đã quên đi.

Bình minh ngày hôm đó, mây trắng vần vụ đầy trong thung lũng, rồi dồn tụ lại, bốc thẳng lên trời. Hồi lâu, ở phía đông đang âm u bỗng xuất hiện một áng mây ngũ sắc lơ lửng trên trời. Màu sắc đám mây này thay đổi không dừng, lúc trắng lúc cam, dần dần đã có những tia hồng quang chiếu ra bốn phía. Ánh sáng như phun trào ra, rồi chớp mắt là vầng thái dương to như cái khay nhảy vọt lên bầu trời, chiếu vào áng mây ngũ sắc phía dưới. Cảnh tượng vừa đẹp đẽ vừa kỳ ảo, quần hùng reo hò tán thưởng.

Ngắm mặt trời mọc xong, quần hào ngồi ngay xuống đất. Âm dương phiến Sa Thiên Quảng là địa chủ ở đất Sơn Đông này, bây giờ vết thương đã khỏi, đứng dậy tuyên bố dõng dạc: “Đa tạ các vị tiền bối đại ca nể mặt mà đến nơi này. Tại hạ tiếp đãi không được chu đáo, xin quý vị thứ lỗi.”

Nói xong, y chắp tay vái chào bốn hướng. Quần hào đồng thanh khiêm tốn đa tạ. Sa Thiên Quảng lại nói: “Tại hạ là người thô lỗ, không hiểu đạo lý. Bây giờ xin mời Trình Thanh Trúc tiền bối nói chuyện với quý vị.”

Hai người này nhiều năm không chịu nhường nhịn lẫn nhau, nhưng hôm trước ác đấu một trận nhất sinh thập tử, cùng thán phục võ công đối phương nên đã kết thành bạn tốt.

Trình Thanh Trúc đứng dậy lên tiếng: “Bọn giang hồ chúng ta cũng từng tụ hội trên đỉnh Thái Sơn, nhưng nhân số lúc đó không nhiều như thế này. Nói ra chỉ sợ quý vị chê cười, trước đây chúng ta tụ hợp ở đây làm gì? Chẳng qua là phân vùng ảnh hưởng, chia tiền cướp được.”

Quần hào nghe vậy đều cười rộ. Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Lần này rất nhiều anh hùng bằng hữu đại giá quang lâm đến đây, chúng ta không thể cứ như trước đây nữa. Trước mắt thiên hạ đang loạn lạc, dân chúng khó mà sống nổi, hôn quân vô đạo, trong triều toàn bọn tham quan ô lại. Bên ngoài quan ải thì bọn Thát tử xâm phạm biên giới, cướp bóc giết người, coi sinh mạng bá tính không bằng sâu kiến. Phen này chúng ta phải thương nghị đàng hoàng, làm nên một phen sự nghiệp. Xin nói rõ, từ nay về sau chúng ta kết nghĩa tạo phản. Vị nào không muốn nhập bọn, ngay bây giờ có thể xuống núi.”

Mọi người nghe xong lời tuyên bố, phần lớn đều máu sôi hừng hực, cất tiếng reo hò. Chỉ có số ít không muốn tạo phản, liền cáo biệt ra đi.

Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Hôm nay những người tụ họp tại đây đều là hảo bằng hữu. Chúng ta lấy máu ăn thề, sau này hoạn nạn tương trợ lẫn nhau, cùng mưu đồ đại sự. Nếu có ai tham phú quý mà bán đứt bạn bè, hoặc là tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mọi người sẽ giết quách con mẹ nó!”

Mọi người lại ồn ào cười nói. Sa Thiên Quảng lên tiếng: “Đã tụ hợp thành minh hội, không thể không có minh chủ. Chúng ta phải đề cử một vị anh hùng đại ca mọi người đều thán phục, để sau này cùng nghe hiệu lệnh người đó. Bất kể ai làm minh chủ, tại hạ nhất định phò tá đến cùng, quyết không dị nghị.”

Thập Lực đại sư đứng dậy nói: “Quần long không thể vô thủ. Không có đầu, nhất định không hoàn thành đại sự. Chuyện đề cử minh chủ, lão nạp nhất trí tán thành. Vị minh chủ này phải trí dũng song toàn, có nhân có nghĩa, mới khiến mọi người khâm phục.”

Trình Khởi Vân nói: “Đó là cái chắc. Ta thấy đại sư rất phù hợp.”

Thập Lực đại sư mỉm cười nói: “Lão nạp già nua như ngọn đèn trước gió, làm sao đảm đương nổi nhiệm vụ trọng đại này? Trình đảo chủ đừng trêu chọc nữa.”

Mọi người xì xào bàn tán, đều cảm thấy nên đề cử minh chủ để hiệu lệnh được nhất quán. Quần hùng phân tán khắp nơi, không lệ thuộc nhau nhưng lại liên kết thành một khối. Lúc đó giữa các bang hội dĩ nhiên không đấu tranh tàn sát lẫn nhau, mà quan phủ cũng không dễ dàng bắt bớ. Chỉ có điều, quần hùng xưa nay mỗi người hùng cứ một phương, không ai chịu phục ai, nếu vì tranh đoạt ngôi minh chủ mà gây ra ác đấu thì không ai mong muốn.

Các lộ dân quân kết nghĩa tạo phản là chuyện rất bình thường. Mọi người đều biết, ở vùng Sơn Đông Thiểm Tây đã có Tam Thập Lục Doanh, Thất Thập Nhị Doanh, ở Hoành Dương thì có Thập Tam Gia. Chuyện kết nghĩa của họ đồn đãi khắp nơi, Lý Tự Thành cũng từng tham dự.

Trình Thanh Trúc đợi mọi người bàn luận một hồi, rồi lớn tiếng nói: “Nếu các vị không còn dị nghị gì nữa, bây giờ có thể bắt đầu đề cử.”

Giữa đám đông bỗng có một đại hán khôi vĩ đứng dậy. Y cao tới bảy thước, thanh âm vang dội như đại hồng chung, lớn tiếng tuyên bố: “Trong võ lâm, không ai là không kính nể, không thán phục Cái mạnh thường Mạnh lão gia. Tuy lão nhân gia hôm nay không có mặt, nhưng ngôi minh chủ đương nhiên phải là ông ấy. Tại hạ cho rằng không cần đề cử ai khác nữa.”

Y vừa nói xong, trong quần hùng lập tức có nhiều người lên tiếng reo hò đồng ý.

Viên Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải: “Cái Mạnh Thường là ai vậy?”

Hồng Thắng Hải kinh ngạc hỏi: “Tướng công không biết ông ấy hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Bằng hữu trên giang hồ, ta quen biết rất ít.”

Hồng Thắng Hải nói: “Đó là Mạnh Bá Phi lão gia, người ta quen gọi là Cái Mạnh Thường. Ông ấy hành hiệp trượng nghĩa, rất thích kết giao bằng hữu, nhân duyên trong võ lâm cực tốt. Ông ấy sáng chế ra Mạnh Gia Thần Quyền, Khoái Hợp Tam Thập Chưởng, biến ảo khó mà lường được. Đệ tử môn hạ của ông ấy nhiều không đếm xuể, có thể nói là đầy khắp thiên hạ. Những người học võ ở phương Bắc, nhắc đến Cái Mạnh Thường không ai không thán phục. Đại hán này là Đinh giáp thần Đinh Du, đại đệ tử của ông ấy.”

Viên Thừa Chí nói: “À! Thế thì đề cử Mạnh lão gia làm minh chủ là tuyệt diệu rồi.” Chàng nghĩ bụng: “Vị Mạnh lão gia này chắc chắn nhân duyên cực tốt, nhưng võ công chưa biết thế nào, không thì sư phụ đã kể cho mình nghe rồi. Nhưng làm minh chủ võ lâm thì nhân duyên quan trọng hơn cả võ công.”

Minh chủ thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân đứng dậy nói: “Oai danh của Mạnh lão gia vang dậy khắp thiên hạ, tại hạ tuy phiêu bạt nơi hải ngoại cũng nghe tiếng từ lâu. Đề cử ông ấy làm minh chủ, có thể nói là không còn ai tốt hơn được nữa. Nhưng tại hạ còn một chỗ lo lắng…”

Đinh Du sốt ruột giục: “Xin Trình đảo chủ nói tiếp.”

Trình Khởi Vân nói: “Mạnh lão gia đã nhiều năm an cư ở Bảo Định phủ, gia thế cực kỳ toàn mỹ. Chúng ta tụ họp ở đây, lại là chuyện khuất tất nơi rừng núi. Những việc giết quan tạo phản, không biết Mạnh lão gia có đồng ý hay không, có tự nguyện hướng dẫn chúng ta hay không. Nếu không, liên lụy đến ông ấy thì trong lòng mọi người chắc không yên được.”

Quần hùng đều cảm thấy câu này có lý. Mọi người lại im lặng hồi lâu.

Bang chủ Tiêu Công Lễ của Kim Long Bang đứng dậy lên tiếng: “Tại hạ xin đề cử một vị anh hùng khác, võ công cái thế, nhân nghĩa trùm đời. Tuy vị anh hùng này tuổi còn rất trẻ, đa số bằng hữu võ lâm chưa được biết, nhưng tại hạ dám nói một câu chém đinh chặt sắt: chỉ cần vị anh hùng này đứng ra hướng dẫn chúng ta, hành sự nhất định công bằng, danh tiếng nhất định lừng lẫy, quan phủ nhất định không dám coi thường.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trong lòng tại hạ cũng có một vị thiếu niên anh hùng, chắc không tệ hơn vị mà Tiêu bang chủ nói đến.”

Thanh âm Sa Thiên Quảng vốn đã bén nhọn, khi nói lớn càng chói tai hơn. Y tiếp: “Tuổi tác tại hạ không dám nói là lớn, nhưng đã sống vô tích sự hơn năm mươi năm rồi. Kiến thức tại hạ không dám nói là rộng, nhưng đã từng gặp vô số hào kiệt thành danh trong thiên hạ. Nhưng bắt tại hạ phải phục sát đất, trên thế gian chỉ có vị anh hùng mà tại hạ vừa nhắc đến thôi.”

Trình Thanh Trúc nghiêm trang nói: “Danh tiếng và tính cách Sa Thiên Quảng trại chủ, ta rất hiểu. Ông ấy đã tâm phục khẩu phục ai, nhất định không lầm. Thanh Trúc Bang chúng ta nhất định tán thành lời đề cử của Sa trại chủ.”

Tiêu Công Lễ đỏ mặt lên nói: “Thế thì ngôi minh chủ làm sao đề cử đây? Kim Long Bang chúng ta tuy vô dụng, nhưng nhân số quyết không ít hơn Thanh Trúc Bang.” Rõ ràng hai bên sắp tranh chấp đến nơi.

Thập Lực đại sư vội khuyên ngăn: “Tiêu bang chủ xin đừng vội. Bang chủ muốn đề cử vị anh hùng nào, lão nạp đã đoán chắc đến chín phần mười. Xin hỏi Sa trại chủ muốn đề cử vị anh hùng nào? Hai vị đều nói ra đi, để mọi huynh đệ có mặt ở đây công minh nhận xét. Không chừng cả hai vị đó đều không được mọi người tâm phục thì sao?”

Sa Thiên Quảng trỏ Viên Thừa Chí rồi đáp: “Người mà tại hạ nói đến, chính là vị Viên tướng công này. Các vị đừng thấy huynh ấy trẻ tuổi mà lầm, võ công và mưu trí huynh ấy cao hơn hẳn mọi người. Tại hạ xin nói rõ, gần đây tại hạ mới được quen biết Viên tướng công, chỉ vì thán phục anh hùng mà nhất quyết đề cử.”

Sa Thiên Quảng dứt lời, quần đạo tỉnh Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, thanh thế cực kỳ hùng hậu.

Viên Thừa Chí không ngờ y nhắc đến mình, vội vàng đứng dậy, xua hai tay loạn xạ mà nói: “Không được, không được!”

Tiêu Công Lễ chờ cho tiếng ồn ào dịu bớt, rồi ngẩng mặt trên trời cười ha hả. Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi: “Tiêu bang chủ! Xin thỉnh giáo, tại hạ đã làm gì đáng bị chê cười?”

Trình Thanh Trúc cũng giận dữ nói: “Tiêu bang chủ! Xưa nay tại hạ vẫn thán phục bang chủ, nhưng nếu bang chủ vô lễ với Sa trại chủ thì tại hạ không thể bỏ qua.”

Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ, mỉm cười nói: “Tại hạ đâu dám chê cười ai? Sa trại chủ, Trình bang chủ! Hai vị biết tại hạ muốn đề cử ai chưa?”

Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi lại: “Làm sao ta biết được?”

Tiêu Công Lễ nói: “Ngoài Viên tướng công ra, còn ai khác nữa?”

Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng lập tức chuyển giận thành vui, đều ngẩng mặt lên trời cười ha hả. Mọi người thấy ba người tranh chấp hồi lâu, thì ra cùng muốn giới thiệu một người, lập tức cả thung lũng vang dội tiếng cười.

Viên Thừa Chí rất lo lắng, vội nói: “Tại hạ nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn, hôm nay được tham dự vào đại hội Thái Sơn là vinh dự lắm rồi. Tại hạ chỉ mong đi theo các vị tiền bối để góp sức mọn, quyết không dám đảm đương đại nhiệm. Xin quý vị hãy đề cử một hiền tài khác.”

Tôn Trọng Thọ lên tiếng: “Viên công tử là con trai duy nhất của Viên đốc sư chúng ta. Đám cựu bằng hữu Sơn Tông này vì tị hiềm thân thích nên mới chưa lên tiếng đề cử Viên công tử làm minh chủ. Thật sự không còn ai thích hợp hơn nữa.”

Trình Khởi Vân ngạc nhiên hỏi: “Viên đốc sư nào thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chính là người từng chỉ huy lực lượng kháng Thanh ở Liêu Đông, vô cớ bị hôn quân hại chết, tôn danh là Viên Sùng Hoán đốc sư.”

Viên Sùng Hoán kháng địch có công với nước. Hồi đó chỉ có bá tính trong thành Bắc Kinh mới tưởng ông bán nước thông địch. Vì cường địch đang vây chặt tấn công thành Bắc Kinh, từ vua quan đến dân chúng đều hoang mang không biết làm gì, nên không xét rõ thị phi. Khi Viên Sùng Hoán bị sát hại thê thảm như thế, dân chúng các nơi khác biết chuyện đều cực kỳ phẫn hận.

Quần hùng vừa nghe được chuyện này, tiếng hoan hô lập tức nổi lên. Những người chưa có chủ ý đều nhất trí tán thành.

Viên Thừa Chí cương quyết chối từ nhưng không thể được. Hơn nữa, Thủy tổng binh vừa đầu hàng và những người như Nhiếp Tiên Phong, Lương Ngân Long vừa được chàng cứu khỏi xe tù cũng cật lực phụ họa. Thế là ngôi vị minh chủ đã định xong.

Bang chủ Vinh Thái của Du Long Bang vốn có xích mích với Viên Thừa Chí. Nhưng bây giờ y thấy mọi người đều đặt niềm tin vào chàng, Du Long Bang nhỏ xíu không sao cự lại số đông. Hơn nữa y nghĩ đến chuyện trên sông Cừu Giang chàng không làm khó dễ mình, còn ném cho một tấm ván để mình khỏi rơi xuống nước xấu hổ trước mặt bang chúng, coi như mình đã chịu ơn rồi. Bây giờ nhân tiện thêu hoa trên gấm mấy lời nói tốt, y bèn đứng dậy tuyên bố: “Viên tướng công võ công tinh thâm, rất nhiều bằng hữu có mặt ở đây đều biết. Tại hạ cũng từng thảm bại dưới tay huynh ấy.”

Mọi người chưa kịp ngơ ngác, Vinh Thái lại nói: “Nhưng huynh ấy rất biết giữ thể diện cho người khác, tại hạ tuy thua nhưng vẫn đem lòng cảm kích. Mọi người đề cử huynh ấy làm minh chủ, tại hạ đồng ý cả hai tay.”

Quần hào thấy người từng đối địch với chàng cũng nói như vậy, bèn hoan hô vang dội. Viên Thừa Chí nghe Thanh Thanh khẽ mắng: “Đồ nịnh bợ!”

Đinh giáp thần Đinh Du đi đến bên Viên Thừa Chí, ngắm nghía chàng từ trên xuống dưới. Thấy Viên Thừa Chí thân hình không cao lắm, mặt mũi đen đúa, diện mạo chẳng tuấn tú chút nào, tuổi lại còn nhỏ, trông rất dễ hù dọa, y không hiểu tại sao quần hùng lại đề cao chàng đến thế. Y thấy oai danh của chàng chỉ trong chốc lát đã hơn hẳn sư phụ mình, hết sức không phục, bèn nói: “Phải chúc mừng Viên tướng công rồi.”

Đồng thời y đưa tay ra nắm tay Viên Thừa Chí, tỏ vẻ thân mật. Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ không dám…”

Lời chưa nói dứt, tay chàng đột nhiên bị siết lại. Thì ra Đinh Du sử dụng tuyệt nghệ Bá Vương Cử Đỉnh của sư phụ đã truyền, toan dùng sức giật ngã Viên Thừa Chí, làm vị minh chủ này mất thể diện trước mặt đông người. Nếu y làm được, đúng là đắc tội với vô số anh hùng hảo hán, không chừng sẽ bị mọi người bằm vụn ra tại chỗ. Nhưng Đinh Du xưa nay tính tình lỗ mãng, hễ tức giận là làm, bất cần hậu quả.

Hắn âm thầm vận công, không phát ra tiếng, không đổi sắc mặt, dốc toàn lực kéo luôn ba lần, cơ bắp trên cánh tay nổi vồng từng múi. Nhưng Viên Thừa Chí đứng vững như một tảng đá núi, vẫn tiếp tục nói: “… đảm đương đại nhiệm. Lệnh sư Mạnh lão gia đức cao vọng trọng, dĩ nhiên thích hợp hơn tại hạ nhiều.”

Đinh Du càng ra sức kéo, đến khi cánh tay mình kêu lắc cắc, trật khớp đến nơi mới buông ra. Y thấy Viên Thừa Chí không lộ vẻ gì, bây giờ mới biết võ công của đối phương cao hơn mình không biết mấy lần. Nếu chàng thừa thế đánh trả, nhất định mình đã văng xuống thung lũng rồi, nhưng chàng đã cố ý che mắt mọi người để bảo vệ danh dự cho mình. Y vô cùng cảm kích, lớn tiếng hô: “Tuyệt diệu! Công tử là một vị minh chủ có một không hai.”

Nói xong, y quỳ xuống bái lạy. Viên Thừa Chí vội đáp lễ, trong lòng hoan hỉ. Chàng thấy đại hán này tuy lỗ mãng nhưng có chỗ khả ái.

Trình Thanh Trúc lên tiếng: “Chúng ta kết minh thì phải có minh quy. Bây giờ xin minh chủ tuyên bố, để mọi người cùng bàn bạc.”

Viên Thừa Chí còn muốn chối từ, nhưng Tôn Trọng Thọ đã nói vào tai chàng: “Công tử! Khiêm cung không được thì nên chấp nhận. Nếu không may ngôi minh chủ rơi vào tay kẻ gian, hậu họa sẽ không nhỏ. Công tử lãnh đạo quần hùng mưu đồ đại sự, mối huyết hải thâm thù của Đốc sư có thể được báo. Đốc sư suốt đời hành sự không hề lùi bước, không hề tránh né khó khăn.”

Viên Thừa Chí nghe ông dạy mình đại nghĩa, lại nhắc đến gương sáng của phụ thân, bất giác hào khí bừng bừng. Chàng lập tức chắp tay thi lễ tứ phía, dõng dạc nói: “Quý vị đã có hảo ý, tại hạ cung kính không bằng phụng mạng. Chỉ có điều tại hạ kiến thức nông cạn, rất mong các vị tiền bối thường xuyên chỉ dạy. Tại hạ quyết không dám cuồng vọng tự cao.”

Nghe Viên Thừa Chí chịu làm minh chủ, quần hùng trên đỉnh Thái Sơn lập tức hoan hô như sấm động. Tiếng hô trong thung lũng vọng đi vọng lại rất lâu không dứt, bốn phía đều rền vang tiếng vỗ tay và tiếng reo hò. Dường như cả ngàn ngọn đồi, vạn thung lũng chung quanh cũng đang hưởng ứng vậy.

Quần hùng lập tức thắp nến đốt nhang, cùng khấn vái thiên địa. Viên Thừa Chí bảo Tôn Trọng Thọ: “Nhờ Tôn thúc thúc thảo cho minh ước.”

Tôn Trọng Thọ không từ chối, vào miếu soạn thảo ngay. Ông biết quần hùng lấy tín nghĩa làm đầu, không đặt nặng văn chương, bèn viết mấy trăm chữ, lời giản dị nhưng ý thâm sâu.

Viên Thừa Chí tuyên đọc trước mọi người, rồi quần hùng trích máu tuyên thệ, thề không bội ước. Thế là cuộc đại hội Thái Sơn quy tụ võ lâm các tỉnh Nam Bắc đã thành công rực rỡ.

Viên Thừa Chí bước ra giang hồ mới chỉ vài tháng, dựa vào võ công thượng thừa, đối đãi chí thành, lại nhờ cơ duyên xảo hợp và oai danh của phụ thân, bây giờ đã trở thành đại thủ lĩnh của quần hào thổ mãng khắp bảy tỉnh.

*

*   *

Đêm hôm đó, quần hùng ngồi bệt dưới đất mà bày tiệc, đấu tửu say sưa. Tiếng huyên náo cười đùa không dứt, vang động cả một vùng thung lũng.

Đang vui vẻ, đột nhiên thấy một quả pháo lưu tinh bay vọt lên trời. Đây là tín hiệu cảnh giới bắn từ dưới núi. Quần hùng lập tức ngừng chén, không uống nữa. Viên Thừa Chí cùng mấy người Tôn Trọng Thọ nghĩ đến năm xưa tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, cũng bị quan binh đến đột kích. Chẳng lẽ quan phủ đã biết tiền thuế bị cướp, điều binh khiển tướng đến đây tấn công hay sao?

Không bao lâu, hai hán tử đang canh gác ở sườn núi chạy lên đỉnh núi bẩm báo với Viên Thừa Chí: “Khải bẩm minh chủ, dưới núi có tin cấp báo. Đại quân Mãn Châu đã tấn công hạ được Thanh Châu, đang trên đường tiến quân tới Thái An, cách đây chỉ mười mấy dặm. Xin minh chủ định đoạt.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Quân Mãn Châu tiến nhanh thế hay sao?” Chàng từng nghe quân Mãn Châu vượt qua quan ải, nhưng tưởng chúng chỉ quấy nhiễu ở Lan Châu, Cổn Châu, cướp bóc, tàn sát, đốt nhà. Không ngờ chúng đã công hãm tới Thanh Châu.

Tôn Trọng Thọ nói: “Tháng mười năm ngoái bọn lính Mãn Châu vượt qua quan ải, đánh vào Cổn Châu, cướp bóc tàn sát nhiều vùng trong tỉnh Sơn Đông. Nghe nói tướng chỉ huy là đại tướng quân A Ba Thái. Tên này là con thứ bảy của Nỗ Nhĩ Ha Xích, cũng là ca ca của Thát tử hoàng đế. Hắn rất giỏi dụng binh, đã từng cùng Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn đánh Sơn Đông, nên đối với địa thế tỉnh Sơn Đông rất quen thuộc.”

Viên Thừa Chí lại hỏi: “Đa Nhĩ Cổn đã từng đánh Sơn Đông ư?” Chàng lo nghiên cứu võ học, hiểu biết thế sự rất ít.

Tôn Trọng Thọ thở dài nói: “Đó là chuyện đã bốn năm rồi. Hồi đó minh chủ đang học võ nghệ trên núi Hoa Sơn nên mới không biết.”

Ông thấy quần hùng đang nhốn nháo hỏi nhau, nhân tâm xao động, bèn trèo lên một tảng đá lớn ở chỗ cao, lớn tiếng nói: “Huynh đệ dưới núi cấp báo là bọn lính Mãn Châu đã công phá Thanh Châu, đang tiến tới Thái An. Các vị cứ tiếp tục uống rượu, minh chủ sẽ có chủ trương sau.”

Trong quần hùng có người la lên: “Mọi người xung phong xuống núi, giết bọn Thát tử này một trận con mẹ nó.”

Lại có người la lên: “Bọn quân Thát tử này bức hiếp dân chúng quá đỗi rồi. Phen này phải liều mạng sống mái với chúng một phen.”

Quần hùng vô cùng phẫn khích, hò hét om sòm. Tôn Trọng Thọ quay lại chỗ Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Mọi người đều muốn đi đánh bọn quân Thát tử. Minh chủ thấy sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Phụ thân con suốt đời tận trung báo quốc, mục đích chính là giết bọn Thát tử. Bây giờ chúng đi ngang cửa chúng ta, lại gặp lúc nhiều huynh đệ tụ hội ở đây, chúng ta phải đánh cho một trận. Có điều con không hiểu cách hành quân đánh trận, phải nhờ Tôn thúc thúc ra hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ suy nghĩ một lúc, phái mười mấy người ra ngoài điều tra tình hình bọn lính Mãn Châu, rồi nói: “Từ khi Đốc sư Viên công bị hại, trong triều không còn ai quyết tâm chống cự, mà cũng không còn sức chống cự với bọn Mãn Thanh nữa. Tháng sáu năm Sùng Trinh thứ chín, Hoàng Thái Cực đã phái A Ba Thái tấn công vào trong trường thành, đánh sâu vào tận Hà Bắc. Tháng mười một, Cửu vương Đa Nhĩ Cổn lại thống lĩnh bọn A Ba Thái tấn công Hà Bắc, các trung thần Lô Tượng Thăng và Tôn Thượng Tông hy sinh vì nước. Năm đó Đa Nhĩ Cổn còn công phá Tế Nam, bắt đi bốn mươi mấy vạn bá tính dẫn về hướng Bắc. Lần này tên Thát tử A Ba Thái lại đến đây.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao bọn Thanh binh không tấn công vào Bắc Kinh, mà chỉ đánh các nơi Hà Bắc Sơn Đông?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Hoàng Thái Cực là một người rất giỏi dụng binh. Hắn phái binh đến Hà Bắc và Sơn Đông không để chiếm cứ đất đai, mà để cướp đoạt tài vật, phóng hỏa giết người, bắt bớ bá tính về làm nô lệ, cố ý phá hủy tinh lực Trung Quốc chúng ta, khiến triều đình Đại Minh kiệt quệ, cuối cùng chỉ đánh một trận là chiếm được Bắc Kinh. Năm xưa hắn từng đánh Bắc Kinh, thua dưới tay Viên Đốc sư một trận lớn, suýt nữa không còn đường về. Sau đó hắn co vòi, chưa dám tiến công kinh sư lần nào nữa.”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Sấm Vương và các lộ nghĩa quân tạo phản khắp nơi, há chẳng giúp sức rất nhiều cho bọn Thát tử hay sao?” Câu này chàng không tiện nói ra, nhưng trong lòng hết sức không yên.

Tôn Trọng Thọ lại nói: “Mấy năm nay quân Thát tử hết đánh Hà Bắc lại đánh Sơn Đông, thế mạnh như chẻ tre. Bọn lính nhà Minh chưa thắng nổi trận nào, quân Thát tử đương nhiên nhìn lính triều đình chỉ bằng nửa con mắt. Nhưng người xưa từng nói, kiêu binh tất bại. Chúng ta phải nhân cơ hội tốt này để giảm bớt uy phong của chúng, đánh một trận ra trò thử xem.”

Viên Thừa Chí cả mừng, lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Chúng ta chuẩn bị đi giết quân Thát tử. Đêm nay ngủ một giấc ngon lành, sáng sớm mai chúng ta xuống núi.”

Quần hùng lớn tiếng reo hò: “Giết quân Thát tử! Giết quân Thát tử!”

Viên Thừa Chí ít hiểu về thao lược, đêm đó phải nhờ Tôn Trọng Thọ bày kế. Sáng hôm sau chàng điều khiển quần hùng xuất phát, đại quân mai phục ở Cẩm Dương Quan. Khi thấy cờ vàng minh chủ dựng cao ở trung quân, đại quân sẽ xông ra chém giết. Chàng hạ lệnh Thủy tổng binh đem theo hai ngàn binh mã thuộc hạ chặn địch đánh trận đầu, nhưng sợ Thủy tổng binh sau khi xuống núi sẽ đổi ý, bèn phái thêm Tiêu Công Lễ dẫn thủ hạ Kim Long Bang theo giám thị.

Nhiệm vụ của Thủy tổng binh là chỉ được bại không được thắng, dụ quân Thanh lọt vào ổ mai phục. Cánh quân của Thủy tổng binh có áo giáp vũ khí rất đầy đủ, mặc toàn sắc phục triều đình, quả là không có chút sơ sót. Đánh thua chạy trốn lại là ngón nghề của lính triều đình, phen này họ có thể thi triển hết sở trường mà phục vụ cho minh hội.

Cẩm Dương Quan chỉ có một con đường mòn rất hẹp, hai bên là vách núi. Quần hùng nấp đến xế chiều thì nghe tiếng la ó vang dậy, một toán lính Minh tháo áo giáp, vứt binh khí, theo con đường mòn chạy tới. Thủy tổng binh cưỡi tuấn mã, nắm đại đao đích thân cản hậu. Không bao lâu đã thấy quân Thanh rượt đuổi.

Viên Thừa Chí nằm sau một tảng đá phía trái đỉnh đồi. Lần đầu tiên chàng nhìn thấy lính Mãn Châu, nghĩ đến phụ thân nhiều năm huyết chiến với bọn quân Thát tử này, không nén nổi máu sôi sùng sục. Chàng đưa thanh Kim Xà Kiếm lên nói: “Tôn thúc thúc! Chúng ta xung phong xuống đi.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Đợi một lát đã. Khi đại đội bọn quân Thát tử đến đây, chúng ta mới dựng cờ vàng lên. Khi đó huynh đệ mai phục xung quanh cùng lúc tấn công, bọn Mãn Thanh không sao chạy thoát được nữa.”

Nghe tiếng kèn hiệu nổi vang, một đám lớn kỵ binh Thanh xung phong tới nơi. Mấy chục tên lính Minh chạy không kịp, lập tức bị đao thương đâm chém, thi thể ngổn ngang dưới đất. Viên Thừa Chí trong lòng bất nhẫn, lại giục: “Mau mau xung phong xuống dưới mà tiếp ứng!”

Tôn Trọng Thọ bảo: “Phải đợi một lúc nữa.”

Thanh Thanh lo lắng nói: “Nếu không xuống ngay, đám quân này sẽ bị chúng giết sạch.”

Tôn Trọng Thọ cứ nói: “Phải đợi một lúc nữa.” Thanh Thanh sốt ruột, lo lắng giậm chân tại chỗ.

Đột nhiên trên đỉnh đồi bên phải có tiếng reo hò dữ dội, Sa Thiên Quảng đã dẫn quần đạo tám trại Sơn Đông từ trên đỉnh đồi xung phong xuống. Tôn Trọng Thọ la lên: “Úi chà, hỏng bét!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Đám kỵ binh này chỉ là tiên phong mà thôi. Phen này không bắt được nguyên soái của chúng rồi. Sao họ chưa thấy cờ hiệu đã tự tiện ra tay?”

Lúc này quần đạo Sơn Đông đã hùng hổ chém giết vào trận quân Thanh. Sau đó bang chúng Thanh Trúc Bang, Kim Long Bang đang mai phục khắp nơi đều vùng dậy. Thủy tổng binh cũng dẫn quân Minh quay lại đánh trả.

Tôn Trọng Thọ thở dài sườn sượt, buồn rầu nói: “Năm xưa Viên công điều binh, nếu đại tướng không nghe hiệu lệnh mà tự xông ra giết địch thế này, nhất định sẽ bị Viên công thỉnh Thượng phương bảo kiếm ra chặt đầu hết.”

Viên Thừa Chí áy náy, bèn nói: “Con không ngờ được chuyện này, nên chưa tuyên bố nghiêm ngặt là phải tôn trọng hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ an ủi chàng: “Đám anh hùng hảo hán chúng ta ở đây, ai cũng có võ công nhưng chỉ là quân ô hợp, không thể so với tinh binh mà Viên công huấn luyện ở Ninh Viễn năm xưa. Minh chủ không có cách nào quản thúc họ được đâu. Ôi! Cờ vàng chưa dựng lên, mọi người đã xung phong chém giết loạn cào cào. Như vậy đâu phải là dàn quân đánh trận, chỉ là loạn đả bừa bãi mà thôi.”

Tôn Trọng Thọ than thở mãi không dừng. Ông nghĩ đến năm xưa Viên Sùng Hoán lãnh binh tại Ninh Viễn, hiệu lệnh nghiêm ngặt, mười mấy vạn binh lính không ai là không nghiêm túc phụng mạng. Trong lúc ảo não, ông lại cảm thấy phần nào chua xót.

Thanh Thanh nói: “Chuyện đã thế rồi, có than thở cũng vô dụng. Thừa Chí đại ca, chúng ta ra tay đi!”

Viên Thừa Chí đã bứt rứt từ lâu, bèn hô lớn: “Được! Mọi người xung phong giết giặc!” Chàng cầm Kim Xà Kiếm xung phong xuống núi.

Tôn Trọng Thọ kinh hãi, gọi theo: “Minh chủ, minh chủ! Minh chủ là chủ soái, phải ngồi trấn giữ trung quân, không được đích thân nghênh địch.”

Gọi chưa dứt câu, Viên Thừa Chí đã thi triển khinh công chạy xa rồi. Chàng xung phong vào trong trận, Kim Xà Kiếm vừa vẫy ra đã chặt đứt hai cái thủ cấp lính Thanh. Tôn Trọng Thọ lại thở dài một tiếng, nước mắt chảy xuống như mưa, thầm nghĩ: “Ngay cả minh chủ cũng vậy, làm sao mà sánh được với Viên Đốc sư năm trước?”

Hơn ngàn quân Thanh bị kẹt giữa con đường núi, tuy dũng cảm cũng không lập được trận mà đón đỡ. Địch tới sát mình, cung tên không dùng được. Chúng bị quần hào bao vây tấn công từ bốn phương tám hướng, không đầy một giờ là chết sạch. Thống soái A Ba Thái của quân Thanh được tiền quân hồi báo là trúng mai phục ở Cẩm Dương Quan, lập tức dẫn quân lui về Thanh Châu.

Trận này không giết được A Ba Thái, nhưng đã diệt được hơn ngàn lính Thanh, thật là đại thắng mười mấy năm nay chưa có. Quần hùng ở Cẩm Dương Quan reo hò đến khản giọng, hoan hỉ đến phát cuồng. Viên Thừa Chí nhìn những vết máu trên Kim Xà Kiếm, nghĩ: “Thanh kiếm này hôm nay đã giết không ít quân Thát tử. Phải thế mới không uổng phí vết bích huyết trên thân nó.”

Đêm đó Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên ngồi đàm luận, cho rằng trận thắng hôm nay có thể an ủi vong linh Viên Đốc sư trên trời, đều không nén nổi nhiệt lệ tuôn tràn. Tôn Trọng Thọ vẫn ân hận không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thanh.

Viên Thừa Chí nói: “Tôn thúc thúc! Huynh đệ chúng ta đánh trận lớn chưa được đâu. Ngày mai con phải lên phía Bắc. Số quan binh nhà Minh và hết thảy huynh đệ ở đây, nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc, Nghê thúc thúc, La thúc thúc và các vị thao luyện đàng hoàng. Sau này gặp bọn Thát tử, quyết không xung phong giết giặc loạn xạ như ngày hôm nay nữa.” Tôn Trọng Thọ và mọi người đều vâng dạ.

Chu An Quốc, La Đại Thiên, Nghê Hào đã từng huyết chiến nhiều trận với quân Thanh ở Cẩm Châu và Ninh Viễn. Họ cùng thấy thuộc hạ không tuân hiệu lệnh, kỷ luật không nghiêm, chưa phải là một đội quân tinh nhuệ, trận thắng này thật là may mắn. Quân Thanh không chỉ tinh thông thuật cưỡi ngựa bắn tên, ngay cả bộ binh của chúng mỗi khi xung sát chỉ biết hướng về phía trước, dũng cảm can trường không gì sánh được. Quân triều đình nhà Minh chắc chắn không phải là địch thủ. Năm xưa Viên đốc sư thắng trận ở Ninh Viễn, hoàn toàn dựa vào thành trì vững chắc, sử dụng đại pháo. Nếu phải giao chiến ở nơi bình nguyên dã ngoại, quân Minh triều chắc chắn sẽ bại.

Trận chiến hôm nay, một là mai phục bất ngờ, giết bọn lính Thanh trong lúc vô ý; hai là chỉ cắt rời hơn ngàn quân tiên phong của bọn Thanh. Quần hào và quân Minh có số lượng gấp bội bao vây, về nhân số đã chiếm thượng phong, còn viện quân của bọn Thanh không tiến vào được. Hơn nữa, dưới tay Viên Thừa Chí có rất đông người võ nghệ cao cường, nên khi đối địch với quân Thanh không bị sút kém.

Chu An Quốc lắc đầu nói: “Tôn tiên sinh, Viên minh chủ! Không phải tại hạ muốn đề cao địch mà làm giảm oai phong mình. Trận chiến này, nếu một vạn quân địch đối phó với một vạn quân ta, thì quân ta chắc chắn sẽ bại. Nếu địch có hai vạn, ta cũng có hai vạn, quân ta càng thua đậm hơn. Ôi! Bọn Thát tử lợi hại đến thế, thật sự không dễ đánh.”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chu huynh, ta hiểu rồi. Huynh muốn nhắc nhở mọi người, trận này thắng do may mắn. Từ nay về sau mọi người phải nỗ lực gấp bội. Kiêu binh tất bại, ai binh mới thắng.”

Sau này mọi người cố rèn luyện cho quân lính võ nghệ, dạy họ biết coi trọng hiệu lệnh và kỷ luật, tuy không hơn được quân Thanh, nhưng không đến nỗi đánh đâu thua đó như quân Minh triều trước đây. Quân Thanh từ nhỏ đã quen nghề bắn tên cưỡi ngựa, luyện tập thế nào cũng không bằng chúng nổi.

*

*   *

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh sánh vai tản bộ, thấy quần hào chỗ này một nhóm, chỗ kia một nhóm đàm luận với nhau. Thần tình người nào cũng sôi nổi, đều nói về trận thắng lớn hôm nay. Viên Thừa Chí nói: “Hôm nay chúng ta mới đánh trận đầu, tiêu diệt bọn Thát tử Mãn Thanh. Sau này còn phải huyết chiến cả trăm trận nữa. Đúng là: Ngày ngày khẳng khái diệt thù; Tháng tháng gian nan bách chiến.”

Thanh Thanh khen ngợi: “Hai câu thơ của huynh hay thật.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Ta đâu biết làm thơ? Đây là di tác của gia gia.”

Thanh Thanh “Ủa” một tiếng.

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Ta làm gì cũng không bằng được gia gia. Gia gia biết làm thơ, lại biết dụng binh đánh trận. Ta hoàn toàn không hiểu.”

Thanh Thanh an ủi: “Võ công của huynh thì hơn hẳn lệnh tôn rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Gia gia của ta xuất thân tiến sĩ, chưa từng luyện võ. Nhưng võ công cao cường đến mấy cũng chỉ giải quyết được chút ít việc nhỏ, không thể lo được đại sự.”

Thanh Thanh cãi: “Chưa chắc đã thế. Võ công cao cường, đương nhiên phải có chỗ ích lợi.”

Viên Thừa Chí đột nhiên rút soạt Kim Xà Kiếm, vạch lên không trung hai nhát xé gió vù vù, lên tiếng: “Thanh đệ nói đúng! Ta phải đi hành thích Thát tử hoàng đế Hoàng Thái Cực, rồi lại hành thích Sùng Trinh hoàng đế để trả thù cho gia gia.”

Chàng bèn thương nghị với Tôn Trọng Thọ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thủy tổng binh; đem toàn bộ quần hào Sơn Đông Hà Bắc, hàng quân Minh, bằng hữu Sơn Tông và các lộ anh hào chia thành ba doanh; chọn ba người hiểu chuyện dàn quân đánh giặc là Chu An Quốc, Thủy Giám, La Đại Thiên chia nhau thống lĩnh. Tôn Trọng Thọ thì chỉ huy tổng quát.

Viên Thừa Chí cùng thủ lĩnh ba doanh thương nghị, mọi người đều nói: “Đã chém giết quân triều đình rồi, thì nên quy thuận Sấm Vương. Binh mã ba doanh chúng ta nên tới Tương Dương, Nam Dương, giúp tấn công quân Minh của đốc sư Tôn Truyền Định ở Thiểm Tây.”

Viên Thừa Chí nói: “Tuy triều đình vô đạo, nhưng đại cuộc trước mắt phải lấy chuyện kháng cự Mãn Thanh xâm lược là chính. Nếu chúng ta đánh đổ nhà Minh, quân Thanh tất sẽ thừa cơ đoạt lấy giang sơn của người Hán. Lúc đó chúng ta há chẳng trở thành thiên cổ tội nhân?”

Mọi người thương nghị một hồi, quyết định binh mã ba doanh này tạm thời đi về phía đông bắc tỉnh Sơn Đông, đóng trại ở Diêm Sơn, Lưu Sơn và Mã Cốc Sơn ở ranh giới Trực Lệ và Sơn Đông. May mà phen này đã cướp được rất nhiều lương tiền, có thể khai khẩn và mua sắm nhiều ruộng đất. Viên Thừa Chí để lại hai rương vàng thỏi, đủ cho sáu bảy ngàn nhân mã ăn uống mấy năm, không cần phải ra ngoài cướp bóc để buộc triều đình phái binh tiêu diệt.

Nếu quân Thanh nhập quan kéo đến Sơn Đông, thì nhân mã ba doanh này tiến lên phía Bắc mà kháng địch. Khi Viên Thừa Chí nhận được tin tức sẽ lập tức trở về, sánh vai quần hào tham chiến. Còn nếu Sấm quân bất lợi, thì nhân mã ba doanh này sẽ chi viện cứu trợ. Thế là tạm thời ẩn giấu một đội nhân mã hùng mạnh vì nước vì dân, đợi thời cơ mà hành sự.

Mọi người nghe kế hoạch này đều vỗ tay khen hay.

Sáng hôm sau Viên Thừa Chí cáo biệt Tôn Trọng Thọ và mọi người, cùng Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải áp tải mấy cái rương sắt đi tới phủ Thuận Thiên tại kinh sư. Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Thủy tổng binh thì thống lĩnh ba doanh, đợi đêm sẽ hành quân tới vùng Mã Cốc Sơn, ranh giới Sơn Đông và Trực Lệ mà đóng trại.

Trong trận chiến Cẩm Dương Quan, Thái An, Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Tiêu Công Lễ, Thủy Giám không những cướp được trăm vạn tiền lương của triều đình, lại diệt được một đội quân tinh nhuệ của tướng Thanh A Ba Thái, danh tiếng lập tức vang động cả một vùng Sơn Đông, Trực Lệ và Hà Bắc. Nhiều người hỏi thủ lĩnh là ai, quần hùng biết Viên Thừa Chí không thích nêu danh tính của mình nên chỉ đáp qua loa. Có người hỏi kỹ, bang chúng Kim Long Bang bèn nói vị anh hùng thủ lĩnh là truyền nhân của Kim Xà Lang Quân năm trước, bằng hữu của Sấm Vương.

Thuộc hạ của Sấm Vương lúc này có Hoành Thiên Vương, Tranh Thế Vương, Loạn Thế Vương, Cải Thế Vương, Tả Kim Vương, mỗi người thống lãnh một doanh nhân mã đối kháng với quân Minh trong khắp Trung Nguyên. Trên giang hồ bèn gọi lộ nhân mã của Viên Thừa Chí là Kim Xà Doanh, tương xứng với mười ba doanh khác dưới trướng Sấm Vương. Còn trong nội bộ thì gọi là Sơn Tông Doanh hay Sùng Tự Doanh, tỏ ý kế thừa đại chí của phụ thân.

Viên Thừa Chí nghĩ, phụ thân mình tận trung với Minh triều, lúc chịu kỳ oan tay đang nắm binh quyền mà hoàn toàn không có ý tạo phản. Ông thà bị hoàng đế giết oan, quyết không mang tội phản tặc hay soán nghịch. Vì thế chàng hạ lệnh cho mọi người đừng nhắc tới chuyện mình là con trai Viên Sùng Hoán, để phụ thân có linh thiêng đỡ phải áy náy. Hơn nữa, thời đó con nhà quan lại coi hai chữ “trung hiếu” còn nặng hơn trời. Tuy Viên Thừa Chí vì bá tính mà tạo phản, nhưng không dám công nhiên dựng cờ khởi nghĩa phản Minh.

Chàng vốn không thích xưng hiệu Kim Xà Vương, nhưng cái tên này có thể dùng để giấu giếm thân phận con trai Viên Sùng Hoán, nên cứ để bằng hữu giang hồ thuận miệng mà gọi như thế.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.