Bích Huyết kiếm

Hồi 13: Hẹn bạn ngày quy ẩn - Hủy pháo giúp Sấm quân

trước
tiếp

An đại nhân vừa cười đểu giả vừa nói: “Ta cực khổ mới tìm ra muội, sao lại nỡ tự thiêu? Bây giờ chúng ta đoàn tụ, nối lại mối tình xưa.”

Nói xong hắn phóng chân đá vào cánh cửa. Mới đá hai cái, chốt cửa đã gãy, cánh cửa kèn kẹt mở ra. Viên Thừa Chí nghe tiếng gió của đòn cước, biết võ công hắn không tệ.

Trong đêm tối bỗng có ánh đao lấp loáng. An đại nương đã múa đao chém vào An đại nhân. An đại nhân mỉm cười nói: “Hay lắm! Dám mưu sát trượng phu.”

Hắn sợ trong nhà còn có người khác nên chưa dám xông vào, cứ đứng ngoài cửa dùng tay không đấu với An đại nương. Viên Thừa Chí từ từ bò đến gần, giương to mắt mà xem hai người giao đấu.

Võ công An đại nhân khá cao. Chung quanh tối mịt, hắn chỉ cần nghe tiếng đao rít gió là tránh né được hết, vừa phản kích vừa không ngớt nói những câu bóng gió để chọc ghẹo. An đại nương tức giận, vừa đánh vừa mắng chửi liên hồi. Đấu được một lúc, An đại nhân bỗng sờ được vào người bà một cái.

An đại nương càng giận dữ hơn, vung đao chém bổ từ trên đầu xuống. An đại nhân đang muốn dụ bà xuất chiêu này, nghiêng người bước tới, nắm được cổ tay bà rồi dùng sức vặn ngược lại. Đơn đao của An đại nương rơi xuống đất. An đại nhân nắm cả hai bàn tay An đại nương, chân phải gác đè lên khuỷu chân bà. Thế là An đại nương không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nghe khẩu khí tên họ An này, chắc hắn không làm tổn thương bà ấy ngay đâu. Ta cứ thám thính một lúc nữa rồi sẽ ra tay cứu viện.”

Thừa lúc An đại nhân cười ha hả như điên dại và An đại nương quát tháo chửi mắng, Viên Thừa Chí nhón chân bước tới một góc cửa, lách vào trong, nép bên tường rồi thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường trèo lên xà ngang ẩn mình quan sát.

An đại nhân gọi lớn: “Hồ lão tam! Vào trong thắp đèn nhanh lên.”

Hồ lão tam đứng ngoài lấy mồi lửa ra, rút đao hộ thân, rồi lại cúi nhặt mấy viên đá ném vào trong nhà. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, hắn mới dám vào trong, tìm được ngọn nến đang đặt trên bàn rồi thắp sáng lên.

An đại nhân bế An đại nương vào trong nhà, đảo mắt liếc Hồ lão tam một cái. Tên này lấy trong người ra một sợi dây, trói chặt tay chân bà lại.

An đại nhân mỉm cười nói: “Muội nói quyết không gặp mặt ta nữa, thế là không giữ lời được rồi. Nhìn ta đây, xem tóc đã bạc thêm mấy sợi?” An đại nương nhắm mắt, không thèm trả lời.

Viên Thừa Chí nấp trên xà nhìn xuống, thấy rõ ràng mặt mũi An đại nhân. Tuy hắn đã sang tuổi trung niên, nhưng diện mạo còn coi được. Hồi trẻ nhất định đây là một thiếu niên tuấn tú, rất xứng đôi với An đại nương.

An đại nhân đưa tay sờ mặt An đại nương, cười nói: “Tuyệt diệu! Mười mấy năm không gặp, khuôn mặt trái xoan này vẫn mịn màng như xưa.” Hắn hất đầu bảo Hồ lão tam: “Ra ngoài đi!”

Hồ lão tam mỉm cười vâng dạ lui ra ngoài, tiện tay khép cửa lại. Hai người trong nhà đối diện nhau không nói lời nào. Hồi lâu, An đại nhân bỗng thở dài lên tiếng: “Tiểu Huệ đâu? Mấy năm nay, ngày nào ta cũng nhớ đến con.”

An đại nương vẫn mặc kệ. An đại nhân lại nói: “Hồi đó chúng ta là vợ chồng trẻ, tính khí cả hai đều nóng nảy nên nhất thời xích mích. Đã xa cách nhiều năm rồi, hòa thuận lại như trước là hơn.”

Hắn im lặng một lúc, lại nói: “Muội xem, mười mấy năm nay ta không cưới vợ khác, có lúc nào quên muội đâu? Chẳng lẽ muội không còn chút tình phu thê nào nữa?”

Lúc này An đại nương mới giận dữ lên tiếng: “Gia gia và ca ca của ta đã chết như thế nào, chẳng lẽ ngươi quên rồi?”

An đại nhân thở dài nói: “Nhạc phụ và huynh trưởng là do cẩm y vệ hại chết, điều đó không sai. Nhưng không thể vì thế mà vơ đũa cả nắm, cẩm y vệ có người xấu, cũng có người tốt. Ta ra sức vì hoàng thượng, cũng để làm rạng rỡ tổ tiên…”

Hắn nói chưa dứt câu, An đại nương đã nhổ phẹt nước bọt xuống đất.

Im lặng hồi lâu, An đại nhân bỗng đổi sang đề tài khác: “Ta rất nhớ Tiểu Huệ nên mới sai người đến đón con. Sao muội phải trốn chỗ này chỗ nọ, rốt cuộc vẫn không để ta và con gặp mặt nhau?”

An đại nương đáp: “Ta đã nói với nó, người cha tốt của con đã chết từ lâu rồi. Phụ thân con rất có bản lãnh, rất có chí khí, nhưng tiếc là tuổi thọ hơi ngắn.” Giọng bà đầy vẻ oán hận.

An đại nhân nói: “Tội gì bà phải lừa gạt con như thế? Mà sao lại trù ẻo ta?”

An đại nương nói: “Cha của nó trước đây đúng là người tốt, rất có chí khí. Nào ngờ…” Giọng bà bỗng nghẹn hẳn đi, rồi lại nói rất giận dữ: “Ngươi đã hại chết người chồng tốt của ta. Ta hận, chỉ muốn giết ngươi.”

An đại nhân la lên: “Ủa, lạ chưa? Ta chính là chồng của muội, sao lại nói là ta hại chết chồng của muội?”

An đại nương nói: “Chồng của ta vốn là một hảo nam tử. Không hiểu sao, đột nhiên hắn bị lợi lộc làm mờ mắt, không nghĩ gì đến vợ con nữa, một lòng một dạ muốn thăng quan phát tài. Người chồng tốt trước đây của ta đã chết rồi, từ đó về sau không thể nào gặp mặt nữa.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, trong lòng cũng xót xa theo.

An đại nương lại nói: “Chồng của ta là An Kiến Thanh, vốn là một giang hồ hảo hán, không phải bị tên cẩm y vệ ở Trường An là An đại nhân này hại chết hay sao? Chồng của ta có một vị ân sư là Sở Đại Đao lão quyền sư, cũng là gia gia của ta, đã bị An đại nhân hại chết. Cả phu nhân và con cái của lão quyền sư cũng táng mạng dưới tay An đại nhân…”

An Kiến Thanh giận dữ thét lên: “Không được nói nữa!”

An đại nương nghiến răng nói: “Tên lòng lang dạ sói kia, tự mình suy nghĩ lại đi!”

An Kiến Thanh nói: “Quan phủ gọi Sở Đại Đao đến hỏi chuyện, chắc gì đã làm khó dễ ông ấy? Ông ấy cần gì phải xách đao đến định giết ta? Vợ con của ông ấy tự tử mà chết, chuyện đó thì trách được ai?”

An đại nương nói: “Đúng vậy! Sở Đại Đao không trách được ai, phải tự trách mình mù mắt. Ai bảo ông ấy nhận một đồ đệ tốt như thế? Hắn đói rét sắp chết đến nơi, Sở Đại Đao dạy hắn võ công, nuôi hắn thành người…” Bà càng nói càng giận dữ hơn.

An đại nhân vỗ mạnh bàn một cái, nói: “Hôm nay vợ chồng chúng ta đoàn tụ nơi đây, tốt đẹp biết bao. Muội nhắc đến chuyện chết chóc xui xẻo đó làm chi?”

An đại nương la lên: “Ngươi muốn giết thì cứ giết, ta vẫn phải nhắc đến.”

Viên Thừa Chí nghe hai bên nói chuyện, suy nghĩ một chút liền hiểu rõ hết. Sở Đại Đao từng có công nuôi dưỡng An Kiến Thanh, dạy võ công, lại gả con gái là An đại nương cho hắn. Không ngờ An Kiến Thanh tham phú quý, vào làm cẩm y vệ trong hoàng cung. Cha mẹ, huynh trưởng của An đại nương đều bị cẩm y vệ hại chết. An đại nương phẫn hận không chịu được, bỏ chồng trốn đi. Trước đây Hồ lão tam đến bắt cóc Tiểu Huệ, An đại nương phải chuyển nhà khắp nơi, nguyên do cũng từ người chồng ác độc An Kiến Thanh đại nhân này.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Lúc người này hại chết cả nhà ân sư nhạc phụ, tình cảnh nhất định rất thảm khốc. Tên này giết đi cũng chưa hết tội, nhưng không biết An đại nương đối với hắn còn tình phu phụ hay không, bây giờ không nên vội vàng lỗ mãng.” Chàng muốn nghe nhiều hơn một chút, sau đó mới quyết định có nên ra tay trừ ác cứu người hay không, nào ngờ hai người đều im bặt.

Hồi lâu, dường như xa xa có tiếng vó ngựa vọng tới. An Kiến Thanh rút đao ra, khẽ nói: “Lát nữa có người đến đây, nếu muội lên tiếng thì ta không thể nào nghĩ tới tình phu phụ được nữa.”

An đại nương “hừ” một tiếng, giận dữ nói: “Ngươi lại muốn hại người rồi!”

An Kiến Thanh biết tính vợ, bèn dùng đao cắt một miếng vải nhét vào miệng bà. Lúc này tiếng vó ngựa đã đến gần. An Kiến Thanh đặt An đại nương lên giường, buông màn xuống, cầm đao nép vào sau cửa.

Viên Thừa Chí biết hắn muốn lén hạ độc thủ. Chàng không biết người đang tới là ai, nhưng nhiều phần là người thân của An đại nương, bèn dùng nước bọt thấm một ít bụi bám trên cây xà ngang, vo thành một viên đất nhỏ, nhắm vào ngọn lửa búng tới. Ngọn nến lập tức tắt ngóm, An Kiến Thanh lầm bầm thóa mạ.

Viên Thừa Chí thừa lúc hắn đi tìm mồi lửa, nhẹ nhàng tuột xuống đất, đi ra phía sau nhà. Thấy bên chái nhà có một tên cẩm y vệ cầm đao nằm rạp dưới đất, tập trung tinh thần quan sát động tĩnh trong nhà, chàng bèn đến sát bên hắn, khẽ nói: “Có người đến!”

Tên cẩm y vệ đó hạ giọng trả lời: “Ừ, nằm xuống đi!”

Viên Thừa Chí nhanh tay điểm vào huyệt đạo hắn, cởi áo ngoài của hắn khoác lên người mình. Sau đó chàng xé một miếng vải trên người hắn để bịt mặt, khoét hai cái lỗ để nhìn được ra ngoài. Chàng ôm lấy hắn, bò đến bên tường.

Trong đêm tối tiếng vó ngựa mỗi lúc càng nghe rõ, rồi năm con ngựa dừng ngay trước cửa. Người trên lưng ngựa nhảy xuống, khẽ vỗ tay ba cái. An Kiến Thanh trong nhà cũng vỗ tay ba tiếng trả lời, thắp nến lên rồi núp vào sau cửa. Nghe tiếng cửa mở, một người thò đầu vào trong.

An Kiến Thanh vung đao chém lẹ, một cái đầu người rơi xuống lăn long lóc, máu tươi phun tóe ra. Dưới ánh nến, An Kiến Thanh nhìn cái đầu một cái, bất giác kinh hãi. Thì ra hắn vừa chém chết một đồng bọn của mình. Hắn chưa kịp la lên, bên ngoài đã có một người bịt mặt vọt vào, đưa tay điểm huyệt An Kiến Thanh, lại xoay tay điểm bồi vào huyệt Đại Truy ở sau gáy hắn. Huyệt Đại Truy là nơi tụ hội hai mạch Tam Dương, Đốc Mạch trên người nên An Kiến Thanh không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí tiện tay đón lấy thanh đao trong tay hắn, nhẹ nhàng thả hắn xuống để đề phòng bọn gác ở ngoài nghe thấy. Chàng nhảy đến trước giường, dìu An đại nương lên, dùng đao cắt hết dây trói tay chân bà, khẽ nói: “An thẩm thẩm! Con đến cứu thẩm thẩm đây.”

An đại nương thấy chàng mặc sắc phục cẩm y vệ, mặt lại có khăn che kín, không khỏi lo lắng nghi ngờ. Bà vừa hỏi được một câu: “Tôn giá là ai” thì đã có năm người bước vào. Người vào đầu tiên chào hỏi An đại nương một tiếng, nhìn thấy tình hình trong nhà bỗng ngơ ngác đứng yên.

Bọn cẩm y vệ ở ngoài cửa thấy số người vào nhà đã khá đông, sợ một mình An Kiến Thanh không đối phó nổi. Hai tên liền xông vào trong, múa đao muốn chém. Viên Thừa Chí phóng chưởng ra cản trở, hai tên này gãy cổ chết ngay. Bọn địch bên ngoài liên tiếp chạy vào, Viên Thừa Chí vừa đánh vừa bắt từng tên một quẳng ra ngoài. Cũng có tên chưa kịp vào tới cửa đã bị đá ra. Chỉ chốc lát là mười hai cẩm y vệ và đám thị vệ trong hoàng cung đã bị Viên Thừa Chí đánh cho tối tăm mặt mũi, vắt giò lên cổ mà chạy.

Viên Thừa Chí xé hai miếng vải nhét vào tai An Kiến Thanh, lại cởi hai cái áo của bọn cẩm y vệ đã chết, bọc kín đầu hắn mấy lớp, để hắn không thể nghe được tiếng động bên ngoài, cũng không thể nhìn thấy chút xíu ánh sáng nào nữa. Sau đó chàng mới cởi khăn che mặt của mình, nhìn người đi đầu trong số năm người đến sau, mỉm cười nói: “Đại ca! Huynh khỏe chứ? Sấm Vương có khỏe không?”

Người kia ngẩn ra một chút rồi cười rộ lên ha hả, nắm lấy tay chàng lắc lia lịa. Thì ra đây là một đại tướng dưới trướng Sấm Vương, từng kết nghĩa huynh đệ với Viên Thừa Chí, chính là Lý Nham. Bốn người còn lại là vệ sĩ của ông.

Viên Thừa Chí vô tình cứu được hai cố nhân liên tiếp, hoan hỉ quay lại hỏi An đại nương: “An thẩm thẩm! Thẩm thẩm còn nhớ con không?”

Từ hồi Viên Thừa Chí tránh nạn ở nhà An đại nương đến nay đã nhiều năm rồi. Viên Thừa Chí từ một đứa bé đã thành người lớn, An đại nương làm sao nhận ra được?

Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra chiếc vòng tay thắt bằng chỉ vàng mà ngày trước An đại nương đã tặng, lại nói: “Lúc nào con cũng mang theo bên mình.”

An đại nương nhớ ra, bèn kéo chàng đến bên ánh nến để nhìn cho kỹ. Quả nhiên trên lông mày bên trái của chàng vẫn còn vết sẹo dao để lại, bà vừa kinh hãi vừa mừng rỡ nói: “Con đấy ư? Con đã cao đến thế này rồi, lại học được võ công nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Con đã gặp Tiểu Huệ muội muội ở Chiết Giang. Muội muội cũng cao lắm rồi.”

An đại nương nói: “Thời gian trôi nhanh quá, bọn trẻ đều lớn cả rồi.” Bà liếc nhìn người chồng đang nằm dưới đất một cái, thở ra một hơi rồi ủ rũ nói: “Không ngờ vẫn là con đến cứu ta.”

Lý Nham không biết những giao tình lúc trước, nghe An đại nương kêu Viên Thừa Chí là con, chỉ nghĩ hai người là họ hàng. Ông mỉm cười nói: “Hôm nay nguy hiểm quá! Ta phụng mạng Sấm Vương, đến đây hẹn gặp mấy người ở tỉnh Hà Bắc. Tin tức của bọn cẩm y vệ thật là nhanh, biết được manh mối bèn tới đây mai phục.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đại ca! Bạn của đại ca sắp đến chưa?”

Lý Nham chưa kịp đáp, tiếng vó ngựa đã từ xa vọng tới. Ông mỉm cười nói: “Đó không phải tiếng vó ngựa hay sao?”

Đám thủ hạ của ông ra mở cửa, không bao lâu đã đón ba người vào trong nhà. Trong ba người này có Điền Kiến Tú và Lưu Phương Lượng, năm xưa Viên Thừa Chí đã gặp ở đỉnh Thánh Phong. Hai người không thể nhận ra Viên Thừa Chí, nhưng chàng vẫn còn nhớ diện mạo của họ. Người còn lại họ Hầu, tên Phi Vân, mới gặp chàng trên đỉnh Thái Sơn.

Sau khi chào hỏi Lý Nham, Hầu Phi Vân quay sang cung kính thi lễ với Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Xin tham kiến minh chủ.”

Lý Nham và An đại nương cùng nói: “Thì ra mọi người đã quen biết nhau.”

Hầu Phi Vân nói: “Viên minh chủ là minh chủ bảy tỉnh, huynh đệ bọn tại hạ đều phải nghe hiệu lệnh.”

Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta bận rộn ở tỉnh Hà Nam, tin tức ở phía đông đều bị chặn không nghe được. Thì ra đã có chuyện lớn như thế, thật đáng chúc mừng.”

Viên Thừa Chí nói: “Tháng trước tiểu đệ được bằng hữu giang hồ nể mặt mà tấn phong như vậy. Thật ra tiểu đệ không sao đảm đương nổi.”

Hầu Phi Vân nói: “Võ công minh chủ ít ai sánh nổi, kiến thức lại uyên thâm, chuyện đó không cần phải nói nhiều. Chỉ riêng phần nhân nghĩa của minh chủ, trong võ lâm chẳng ai là không thán phục. Trận chiến ở Thanh Châu, Kim Xà Doanh chúng ta nở mặt nở mày, hoàn toàn nhờ Viên minh chủ chỉ huy.”

Lý Nham cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu.” Sau đó ông truyền đạt lại chỉ thị của Sấm Vương. Thì ra Lý Tự Thành đã đại phá mười mấy vạn quân binh do Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình thống lĩnh tại Nhữ Châu, Nam Dương tỉnh Hà Nam. Lúc này Sấm Vương đang vây ép Đồng Quan, hạ lệnh cho Lý Nham bí mật đến Hà Bắc liên lạc quần hào để hưởng ứng.

Hầu Phi Vân hỏi: “Xin minh chủ cho ý kiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Sấm Vương làm việc nghĩa, dĩ nhiên hào kiệt khắp thiên hạ nghe tin là khởi sự ngay. Bây giờ tiểu đệ lập tức đưa tin, hảo hán bảy tỉnh chúng ta phải làm một trận thật oanh liệt mới được.”

Sáu người nói chuyện khẳng khái hào hùng, mặt mày rạng rỡ. Viên Thừa Chí nhắc đến ba doanh thủ hạ của mình gồm sáu bảy ngàn nhân mã, đang đóng ở vùng Mã Cốc Sơn biên giới Trực Lệ Sơn Đông. Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta từng nghe tiếng Kim Xà Doanh, nhưng không sao thám thính được danh tính của Kim Xà Vương, thì ra là hiền đệ. Để ta bẩm báo với Sấm Vương rõ ràng ba doanh này do đệ chỉ huy, thế thì binh lực chúng ta càng mạnh hơn.”

Lý Nham lại nói: “Quan quân đã thối nát lắm rồi, nghĩa binh bao vây chỗ nào là chỗ đó lập tức tan rã. Sấm quân thắng dễ như chẻ tre, nhưng trước mắt đang có một vấn đề nan giải.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vấn đề gì thế?”

Lý Nham đáp: “Vừa rồi có tin cấp báo, nói là có mười khẩu Hồng Nhi đại pháo của Tây dương đang vận chuyển đến Đồng Quan, yểm trợ cho Tôn Truyền Đình. Sau khi lão họ Tôn đại bại, binh sĩ không còn tinh thần chiến đấu nữa, không thể làm khó dễ chúng ta. Nhưng oai lực của Hồng Nhi đại pháo thì không thể nào coi thường, một khẩu pháo bắn ra là sát thương mấy chục mạng ngay lập tức. Đó chính là việc chúng ta lo lắng.”

Viên Thừa Chí nói: “Mười khẩu đại pháo đó, tiểu đệ từng gặp dọc đường. Mới nhìn đã thấy đáng sợ, chắc là oai lực phi thường. Chẳng lẽ mười khẩu đại pháo này không phải vận chuyển đến Sơn Hải Quan để đánh bọn Mãn Châu hay sao?”

Lý Nham đáp: “Những khẩu đại pháo này từ vạn dặm xa xôi vận chuyển đến đây. Nghe nói, đáng lẽ chúng được đưa đến Sơn Hải Quan để đối phó với quân Mãn Châu. Nhưng Sấm Vương thắng hết trận này đến trận khác, nên triều đình đã thay đổi ý kiến. Bây giờ mười khẩu đại pháo đã chuyển hướng về phía tây, đi về phía Đồng Quan.”

Viên Thừa Chí chau mày nói: “Thì ra hoàng đế coi việc trấn áp bá tính còn quan trọng hơn kháng cự ngoại xâm. Đại ca! Theo đại ca thì phải làm gì?”

Lý Nham nói: “Nếu những khẩu đại pháo đến được Đồng Quan, khi chúng ta tấn công quan ải này chắc phải đem máu thịt mà chọi với hỏa khí. Tuy chưa chắc thua trận, nhưng nhất định tổn thương rất nhiều.”

Viên Thừa Chí nói: “Vậy chúng ta phải chặn dọc đường.”

Lý Nham xoa tay, mừng rỡ nói: “Đại công này phải phiền tới hiền đệ rồi.”

Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Hỏa khí của bọn lính Tây dương này thật là lợi hại, tiểu đệ đã thấy rồi. Muốn đoạt đại pháo, phải có mưu kế đặc biệt, thành công hay không thì bây giờ khó nói. Nhưng việc này liên quan đến khí số cả thiên hạ, tiểu đệ nhất định sẽ tận lực. Nếu dựa vào thần oai của Sấm Vương mà ra tay thành công, đó là phước của muôn dân.”

Mọi người nói chuyện một hồi về quân lữ, rồi Viên Thừa Chí hỏi đến phu nhân của Lý Nham. Lý Nham đáp: “Bà ấy ở Hà Nam, vẫn thường nhắc đến hiền đệ.”

An đại nương nói xen vào: “Phu nhân của Lý tướng quân đúng là nữ trung hào kiệt. Thừa Chí, con đã có ý trung nhân chưa?”

Viên Thừa Chí chợt nghĩ đến Thanh Thanh, đỏ mặt mỉm cười không đáp. An đại nương thở dài nói: “Nhân tài như con, không biết cô nương nhà nào có phước đây?”

Đột nhiên bà nhớ đến Tiểu Huệ. Tiểu Huệ cùng Viên Thừa Chí là bạn thanh mai trúc mã, cùng chung hoạn nạn từ hồi nhỏ. Nếu chàng có thể là con rể của mình, thì coi như chuyện chung thân của Tiểu Huệ có nơi có chốn. Nhưng Tiểu Huệ lại thân thiết với tên Thôi Hy Mẫn ngơ ngơ ngáo ngáo rồi! Chuyện này phải có duyên mới được.

Ba người Điền, Lưu, Hầu nghe họ nhắc đến chuyện riêng, không thể nói xen vào, bèn đứng dậy cáo từ. Hầu Phi Vân nói: “Minh chủ! Sáng sớm mai tại hạ sẽ dẫn anh em bản bộ đến nghe lệnh.”

Viên Thừa Chí đáp: “Hay lắm.” Hầu Phi Vân hỏi địa điểm gặp nhau, rồi ba người cáo từ rời khỏi đó.

Lý Nham và Viên Thừa Chí ngồi đàm luận tình hình thiên hạ cả một đêm dài, càng nói càng tâm đầu ý hợp. Viên Thừa Chí hiểu biết về quốc gia hưng suy, thế cuộc biến hóa có phần nông cạn, mỗi câu nói của Lý Nham đều khiến chàng tăng thêm phần kiến thức. Mãi đến khi trời sáng hẳn, gà đã gáy ba lần, hai người vẫn chưa hết hứng thú.

Quay lại nhìn An đại nương, chợt thấy bà đang chống tay dưới cằm, ngẩn ngơ nhìn người chồng đang nằm dưới đất, im lặng xuất thần. Lý Nham khẽ gọi: “An đại nương!”

An đại nương ngẩng đầu lên. Lý Nham hỏi: “Người này xử lý như thế nào?”

Lúc này lòng dạ An đại nương trăm mối ngổn ngang, lắc đầu không đáp. Lý Nham biết bà khó mà quyết đoán, không muốn xen vào việc đó nữa. Ông nói với Viên Thừa Chí: “Hiền đệ, chúng ta tạm biệt ở đây.”

Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca một đoạn.”

Hai người cáo biệt An đại nương, dắt tay nhau bước ra đường. Vệ sĩ của Lý Nham xa xa đi theo. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, được bảy tám dặm đường thì Lý Nham bảo: “Hiền đệ về đi.”

Viên Thừa Chí chưa nỡ chia tay người anh kết nghĩa. Lý Nham lại nói: “Hiền đệ! Sau khi đại nghiệp của Sấm Vương thành công, ta sẽ cùng hiền đệ ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Ngày tháng sau này còn dài lắm.”

Viên Thừa Chí hân hoan nói: “Nếu được như thế, tiểu đệ coi như toại nguyện.”

Hai người chia tay tại đó.

Viên Thừa Chí đưa mắt nhìn nghĩa huynh lên ngựa, chờ đám bụi mù khuất hẳn đằng xa mới quay về khách sạn. Hầu Phi Vân đã dẫn mấy chục hán tử tráng kiện chờ trong khách sạn, đứng đầy cả đại sảnh lẫn mấy khu vườn xung quanh. Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải lại không có ở đó. A Cửu cùng đám tùy tùng nhìn thấy nhiều đại hán thô lỗ như vậy, cứ ở yên trong phòng không bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí bảo Hầu Phi Vân: “Hầu huynh! Huynh dẫn mấy huynh đệ đi về hướng tây nam, xem đội lính Tây dương kia mang đại pháo đi về hướng bắc hay quay lại hướng tây. Xem rõ rồi lập tức quay về cho ta biết.” Hầu Phi Vân nhận lệnh, chọn ba người khỏe mạnh rồi ra khỏi khách sạn lên ngựa đi ngay.

Hầu Phi Vân vừa đi, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc chạy vào trong khách sạn, mừng rỡ nói: “À, Viên tướng công về rồi.”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời thì thấy Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đi vào trong sảnh. Bộ tóc mượt mà của Thanh Thanh bị gió thổi rối bù, mặt đỏ bừng. Vừa nhìn thấy Viên Thừa Chí là nàng lộ vẻ hân hoan ngay, cất tiếng hỏi: “Sao đến bây giờ mới quay lại?”

Viên Thừa Chí biết mọi người không yên tâm, chia nhau đi đón mình, bèn kể lại những chuyện đêm qua. Thanh Thanh cúi mặt nhìn xuống, không nói tiếng nào. Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng khác lạ, liền kéo qua một bên khẽ nói: “Ta bắt muội phải lo lắng rồi.”

Thanh Thanh xoay lưng lại chàng. Viên Thừa Chí biết nàng đang tức giận, nhưng vẫn cố nói: “Tiếc là Thanh đệ không gặp Lý đại ca của huynh. Huynh ấy cũng là đại ca của Thanh đệ rồi.” Tuy Thanh Thanh là nữ nhân, nhưng Viên Thừa Chí cứ thuận miệng gọi nàng là Thanh đệ.

Thanh Thanh giận dỗi nói: “Huynh không có lương tâm, ai cần ca ca làm gì nữa!”

Viên Thừa Chí nói: “Huynh thật sự xin lỗi, lần sau nhất định không để Thanh đệ phải lo lắng nữa.”

Thanh Thanh nói: “Lần sau đã có người khác lo lắng cho huynh rồi, cần gì muội phải lo lắng!”

Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Ai vậy?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “A Cửu chứ còn ai! Người đẹp không ngớt hỏi huynh đi đâu, lo lắng muôn phần.” Nàng dậm chân một cái, bỏ về phòng mình.

Đợi đến bữa trưa, không thấy nàng ra ngoài ăn cơm, Viên Thừa Chí bèn gọi tiểu nhị đưa thức ăn vào phòng cho nàng, đợi ăn cơm xong rồi vào tạ lỗi. Chàng nhớ lại sắc thái hoảng loạn của nàng khi nãy, trong lòng có phần cảm động. Nào ngờ tiểu nhị bưng thức ăn quay lại, nói: “Cô nương không có trong phòng.”

Viên Thừa Chí kinh hãi buông đũa, chạy vào phòng Thanh Thanh. Chẳng những phòng không có người, ngay cả binh khí và hành lý cũng không còn nữa. Chàng lo lắng nghĩ thầm: “Nàng đang tức giận như vậy, không biết sẽ đi đâu. Cô này thường gây chuyện không hay, thật sự khiến cho người ta không yên tâm được.”

Bây giờ chàng đang có việc lớn để lo, không thể đích thân đi tìm, bèn nhờ tới Hồng Thắng Hải. Chàng dặn Hồng Thắng Hải hễ gặp nàng thì khó khăn cách mấy cũng phải khuyên nàng quay lại.

Đợi đến xế chiều, Hầu Phi Vân cưỡi khoái mã quay về, vào cửa là nói ngay: “Quả nhiên bọn Tây dương đã rẽ sang hướng tây. Chúng ta nhanh chóng đuổi theo!”

Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, phân công ông câm ở lại khách sạn canh giữ rương sắt, còn mình dẫn bốn người Trình, Sa, Hồ, Thiết, cùng Hầu Phi Vân và quần hào Hà Bắc suốt đêm chạy về hướng tây nam, đoán là những khẩu đại pháo không thể đi nhanh, nhất định sẽ đuổi kịp. Đến sáng sớm ngày thứ ba, đoàn người Viên Thừa Chí đi ngang một thị trấn nhỏ, nhìn thấy mười khẩu đại pháo đó xếp một dãy bên ngoài khách sạn, bên cạnh có sáu tên lính Tây dương cầm súng canh giữ.

Mọi người mừng rỡ nhìn nhau mỉm cười. Thiết La Hán la lên: “Đói bụng rồi, đói bụng rồi!”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Chúng ta vào gặp lại hai võ quan Tây dương kia.”

Mọi người vào phạn điếm. Thiết La Hán đi đầu, vừa lên lầu bỗng kinh hãi la lên. Y thấy mấy tên lính Tây dương đang cầm súng nhắm vào Thanh Thanh, ngón tay đã đặt vào cò súng. Trên đó còn có hai võ quan Bỉ Đắc, Lôi Mông và cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm.

Lôi Mông thấy mọi người đi lên, bèn xì xồ ra lệnh mấy tiếng. Lại thêm mấy tên lính Tây dương đưa súng lên nhắm vào quần hào. Trong lúc gấp rút Viên Thừa Chí nảy ra một ý, bèn xách một cái bàn quăng lẹ vào bọn lính Tây dương, rồi bay người tới đưa tay nắm vai Thanh Thanh ấn xuống. Hai người cúi rạp xuống, một đợt khói mù khét lẹt xộc vào mũi. Khi loạt đạn đó bắn ra, những viên đạn chì ghim hết vào mặt bàn.

Viên Thừa Chí sợ hỏa khí Tây dương lợi hại, vội la lên: “Mọi người mau xuống lầu!” Rồi chàng kéo Thanh Thanh theo mọi người nhảy xuống.

Lôi Mông cả giận, đưa súng ngắn bắn ra một phát. Thiết La Hán “úi chà” một tiếng, dưới mông bị một viên chì bắn trúng, té nhào xống đất. Sa Thiên Quảng vội tới dìu y dậy, rồi mọi người lên ngựa chạy về hướng nam.

Lúc này hỏa khí của Tây dương sử dụng chưa được tiện lợi, cứ bắn xong một phát lại phải nạp thêm thuốc súng và những viên chì. Bọn lính Tây dương bắn một phát không trúng, nạp xong thuốc súng để chuẩn bị bắn phát thứ hai thì mọi người đã chạy xa rồi.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cỡi chung một con ngựa. Vừa chạy Viên Thừa Chí vừa hỏi: “Sao lại cãi nhau với bọn lính Tây dương?”

Thanh Thanh đáp: “Đệ có biết đâu!”

Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng vẫn tươi tỉnh yểu điệu, nhưng có vẻ không muốn nói thật. Chàng biết chắc nàng có gì muốn giấu, nên chỉ mỉm cười một cái không nói gì. Ba ngày nay, ngày nào đêm nào cũng mong nhớ, bây giờ gặp lại nhau vui vẻ vô cùng.

Chạy hơn hai mươi dặm thì đến một thị trấn, mọi người xuống ngựa ăn cơm. Hồ Quế Nam dùng dao nhỏ khều lấy viên chì ghim ở mông Thiết La Hán ra, y đau quá kêu la ầm ĩ.

Thanh Thanh kéo Viên Thừa Chí đến ngồi ở một cái bàn phía tây, khẽ nói: “Ai bảo con mụ ấy trang điểm giống như yêu quái, ngay cả cánh tay cũng để lộ ra ngoài. Thật là không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí không hiểu gì cả, hỏi lại: “Muội nói ai?”

Thanh Thanh đáp: “Nữ nhân Tây dương kia chứ còn ai!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Cô ấy làm phiền gì tới Thanh đệ?”

Thanh Thanh mỉm cười đáp: “Muội nhìn không quen mắt, nên dùng hai đồng tiền đánh rơi cặp hoa tai của cô ấy.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Trời ơi, Thanh đệ ẩu tả quá. Sau đó thế nào?”

Thanh Thanh nói: “Tên võ quan Tây dương tỉ kiếm thua muội lần trước kêu bọn lính chĩa súng nhắm vào muội. Muội nghe không hiểu, đoán là hắn muốn tỉ kiếm báo thù, nên không nói gì, nghĩ bụng: Muốn tỉ kiếm thì tỉ kiếm, chẳng lẽ ta sợ ngươi? Đúng lúc đó thì huynh đến.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao muội một mình bỏ đi?”

Thanh Thanh đang cười nói vui vẻ, vừa nghe câu này bỗng xịu mặt xuống, hỏi lại: “Huynh lại còn hỏi muội! Chuyện chính mình làm, mình lại không biết ư?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta không biết thật mà. Ta đắc tội với Thanh đệ chuyện gì thế?”

Thanh Thanh nói: “Huynh cả đêm không về khách sạn, nhất định là hẹn hò với cô A Cửu xinh đẹp rồi. Đêm đó hai người vui vẻ ở đâu vậy?”

Viên Thừa Chí mắng: “Vui vẻ cái đầu muội!”

Thanh Thanh đưa tay ra toan tát, Viên Thừa Chí túm được rồi kề môi hôn nhẹ lên lưng bàn tay. Thanh Thanh phì cười rồi cựa quậy rút tay về.

Viên Thừa Chí nói: “Đúng là đêm đó ta ở cạnh một nữ nhân, nhưng tuổi tác bà ấy so với bà nội của A Cửu chắc không chênh lệch lắm.”

Thanh Thanh hỏi: “Ai vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là An thẩm thẩm, mẫu thân của An Tiểu Huệ. Nhưng An Tiểu Huệ không có ở đó.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đồ vô dụng! Thì ra người đẹp không đếm xỉa đến huynh, huynh phải đi tìm bà lão.”

Viên Thừa Chí biết, nếu kể tiếp về An đại nương thì Thanh Thanh nhất định tiếp tục không vui, bèn đổi đề tài: “Hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại thật. Muội nghĩ xem, mình phải dùng cách gì mới cướp được những khẩu đại pháo của chúng?”

Thanh Thanh gắt gỏng: “Ai thèm nói chuyện với huynh?”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì ta đi bàn bạc với Sa Thiên Quảng.” Nói xong chàng đứng dậy đi ngay.

Thanh Thanh vội đưa tay ra túm lấy vạt áo chàng, la lên: “Không cho huynh đi!”

Nàng nói chưa dứt câu, Thừa Chí đã mỉm cười ngồi xuống. Hồi lâu, Thanh Thanh cất tiếng hỏi: “Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu rồi?”

Thừa Chí đáp: “Từ lúc chia tay vẫn chưa gặp lại. Không biết cô ấy ở đâu.”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh nói chuyện suốt đêm với mẹ cô ấy, không nỡ chia tay, nhất định là nói về cô ấy chứ gì?”

Viên Thừa Chí đã hiểu, thì ra nàng tức giận vì vấn đề này. Chàng bèn thành khẩn nói: “Thanh đệ! Tấm lòng của ta đối với muội, chẳng lẽ muội còn chưa hiểu?”

Khuôn mặt Thanh Thanh đỏ ửng lên, từ từ quay đi. Viên Thừa Chí lại mỉm cười nói: “Từ nay về sau, ta vĩnh viễn không rời Thanh đệ nữa. Thanh đệ hãy yên tâm.”

Thanh Thanh hỏi: “Thế thì tại sao mỗi khi huynh gặp cô A Cửu đó là cặp mắt của hai người đều chứa chan tình cảm? Huynh nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn huynh, cứ như hai bên đều mong muốn vĩnh viễn không phải phân ly. Huynh thích nhìn cô ấy, là vì cô ấy xinh đẹp. Muội cũng thích nhìn, chuyện này không thể trách huynh được. Nhưng sao cô ấy cứ nhìn huynh hoài? Chẳng lẽ huynh tuấn tú lắm sao?”

Viên Thừa Chí gắng gượng cãi: “Làm gì có chuyện đó? Thanh đệ cứ nhắm mắt nói bừa, vu oan người khác.”

Thanh Thanh nói rất nhỏ: “Thế thì tại sao huynh… huynh tốt với Tiểu Huệ muội muội?”

Thừa Chí đáp: “Hồi nhỏ huynh được mẫu thân cô ấy đối đãi rất tốt, coi như con ruột vậy, dĩ nhiên huynh phải cảm kích. Hơn nữa, Thanh đệ không thấy Tiểu Huệ có tình cảm với sư điệt của ta hay sao?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “Huynh nói thằng lỏi họ Thôi ấy à? Hắn vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, làm sao cô ấy thích được?”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Người thích rau xanh người thích củ cải, ai cũng có sở thích riêng. Thằng lỏi họ Viên này vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, tại sao Thanh đệ lại thích?”

Thanh Thanh phì cười rồi nói: “Thật là không biết xấu hổ! Ai thèm thích huynh?”

Cãi nhau sơ sơ một trận, hai người lại hòa thuận như cũ. Thừa Chí bảo: “Thôi, ăn cơm đi.”

Thanh Thanh nói: “Muội còn một câu muốn hỏi. Huynh nói đi, tiểu cô nương A Cửu có xinh đẹp hay không?”

Thừa Chí đáp: “Cô ấy xinh đẹp hay không, chẳng liên quan gì đến ta. Người này hành tung vừa kỳ lạ vừa bí mật, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.” Chàng nghĩ bụng: “Cô ấy dẫn theo một số thị vệ trong triều đình, không biết vai vế thế nào. Nếu không phải hoàng thân quốc thích, chắc chắn cũng là quyến thuộc của bọn đại quan.” Chàng không khỏi ủ rũ, trong lòng khó chịu.

Thanh Thanh khẽ gật đầu, rồi hai người quay lại bàn của quần hào, ngồi xuống ăn cơm. Viên Thừa Chí bàn bạc với Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, tìm cách cướp lấy đại pháo.

Hồ Quế Nam nói: “Đêm nay để tại hạ đi thám thính, thừa cơ lấy trộm mấy khẩu súng. Hôm nay mấy khẩu, ngày mai mấy khẩu, từ từ ăn cắp hết súng ống của chúng thì chúng không còn đáng sợ nữa.”

Viên Thừa Chí khen: “Kế ấy rất hay. Để tại hạ cùng đi với huynh.”

Sa Thiên Quảng nói: “Minh chủ hà tất đích thân xuất mã, để Hồ lão đệ đi một mình là được.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ muốn xem rõ cách sử dụng hỏa khí của bọn Tây dương. Khi lấy được súng, chúng ta có thể dùng gậy ông đập lưng ông.”

Mọi người cùng gật đầu khen phải. Thanh Thanh mỉm cười nói thêm: “Huynh ấy còn muốn nhìn trộm người đẹp Tây dương một chút.”

Quần hào cười ha hả.

Chiều hôm đó, Viên Thừa Chí cùng Hồ Quế Nam quay ngựa đi ngược lại, từ xa theo dõi lính Tây dương, đợi xem chúng trú lại khách sạn nào. Đợi đến canh ba, hai người vượt tường vào trong khách sạn. Vừa nhảy xuống sân, đã nghe tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, từ một căn phòng vọng ra ngoài không dứt.

Hai người nấp sau cửa sổ, theo khe cửa nhìn vào, thấy hai võ quan Tây dương đang cầm trường kiếm đấu nhau kịch liệt. Viên Thừa Chí không ngờ hai tên này là đồng bọn mà đánh nhau như thế, bèn im lặng ngồi yên, theo dõi hai người tỉ đấu. Xem được mấy chục chiêu, chàng thấy Lôi Mông tấn công ráo riết, kiếm pháp ác độc còn Bỉ Đắc thì bình tĩnh lạ thường, thủ nhiều công ít, nhưng mỗi khi phản đòn đều rất lợi hại. Viên Thừa Chí biết, thời gian kéo dài thì tên võ quan lớn tuổi hơn chắc chắn phải thua.

Quả nhiên tỉ đấu hồi lâu, Bỉ Đắc xoay kiếm đâm sang bên trái. Nhân lúc thanh kiếm của đối phương chưa rút về ngay được, y đột nhiên đâm thẳng tới. Lôi Mông vội vàng thu kiếm lại cản trở, thân kiếm bị lệch đi, không có thế để cầm chắc. Bỉ Đắc lập tức từ dưới vung kiếm hất mạnh lên, trường kiếm của Lôi Mông tuột ngay khỏi tay.

Bỉ Đắc bước lên, dùng chân đạp cứng thanh kiếm đó xuống đất, chĩa mũi kiếm vào giữa ngực đối phương, nói xì xồ mấy câu gì đó. Lôi Mông tức đến run cả người, lầm bầm chửi mắng. Bỉ Đắc nhặt thanh kiếm lên đặt trên bàn, rồi quay người mở cửa đi ra.

Lôi Mông cầm kiếm, vừa chửi vừa chém ngang chém dọc trong phòng. Đột nhiên hắn dừng tay lại, cười rạng rỡ, mở cửa ra ngoài lấy vào một cây xẻng sắt, bắt đầu đào dưới nền nhà. Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam lại càng tò mò hơn, chờ xem hắn định chôn giấu thứ gì.

Hắn đào một cái lỗ vuông chừng hai thước, đất đá bới lên đều hất vào gầm giường. Đào sâu khoảng hai thước hắn mới dừng tay, xé một miếng chăn đậy lên miệng lỗ, dùng đất đá nén chặt quanh mép chăn, cuối cùng rải một lớp đất mỏng lên trên để ngụy trang. Hắn cười nhạt mấy tiếng, mở cửa bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam không hiểu hắn định làm gì, chắc là chuẩn bị thi triển yêu pháp gì đó của Tây dương.

Lát sau Lôi Mông lại vào phòng, Bỉ Đắc theo sau. Lôi Mông nói gì đó ra vẻ giận dữ, còn Bỉ Đắc cứ lắc đầu quầy quậy. Đột nhiên nghe “bốp” một tiếng, Lôi Mông vung tay tát đối phương một phát. Bỉ Đắc nổi giận tuốt kiếm ra khỏi vỏ, hai người tiếp tục tỉ đấu. Lôi Mông không ngừng di chuyển bước chân, từ từ dụ Bỉ Đắc tới bên miệng hố.

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu rõ. Thì ra tên này đánh không lại, bèn âm thầm cài bẫy. Hắn xử sự nham hiểm như thế, rõ ràng không thể không giết đối phương. Viên Thừa Chí đối với cả hai vốn không có thiện cảm, nhưng bây giờ thấy Lôi Mông mưu đồ xảo trá, bất giác nổi lòng hiệp nghĩa.

Lôi Mông liên tiếp đâm thẳng mấy kiếm, đều bị Bỉ Đắc đỡ gạt. Khi Bỉ Đắc vung kiếm phản công, Lôi Mông bèn lùi hai bước. Chân phải Bỉ Đắc bước theo, đạp trúng vào miệng hố. Y la lên một tiếng, té nhào xuống. Lôi Mông chĩa mũi kiếm xuống, định đâm vào lưng đối thủ.

Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn rồi, vội xô cửa sổ nhảy vào. Thanh Kim Xà Kiếm đưa ra, lưỡi rắn trên đầu kiếm móc lấy sống kiếm của Lôi Mông kéo ngược ra sau. Bỉ Đắc thoát được đại nạn, lập tức nhảy lên, nhưng chân phải đã trật khớp.

Lôi Mông thấy chuyện đã hỏng, vừa kinh hãi vừa giận dữ vung kiếm đâm tới Viên Thừa Chí. Chàng cười lạnh, cầm Kim Xà Kiếm vẫy trái vẫy phải. Nghe những tiếng keng keng không dứt, thanh kiếm của Lôi Mông bị Kim Xà Kiếm chặt đứt từng tấc một, trong chốc lát chỉ còn lại một đoạn ngắn ngủn. Lôi Mông đứng ngẩn người ra.

Viên Thừa Chí vọt đến nắm lấy cổ tay hắn, thuận tay nhấc bổng lên, chân trên đầu dưới quẳng hắn vào trong cái hố chính tay hắn đào ở trong phòng, rồi vừa cười ha hả vừa nhảy ra ngoài cửa sổ.

Hồ Quế Nam từ phía sau chạy tới, cười nói: “Viên tướng công xem này.” Y đưa tay lên, trong tay đang cầm ba khẩu súng ngắn.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Huynh lấy ở đâu ra thế?”

Hồ Quế Nam chỉ vào trong cửa sổ. Thì ra lúc Viên Thừa Chí xuất thủ cứu người, Hồ Quế Nam cũng vào trong đó, thừa lúc lộn xộn mà đánh cắp ba khẩu súng ngắn của bọn võ quan Tây dương.

Viên Thừa Chí mỉm cười khen: “Thật không hổ danh Thánh Thủ Thần Thâu.”

Hai người chạy lẹ về, tụ họp với quần hào. Thanh Thanh lấy một khẩu súng cầm chơi, vô ý ấn vào cò súng. Lập tức nghe tiếng nổ “đoàng”, khói mù mịt xung quanh. Sa Thiên Quảng ngồi đối diện nàng, rất may là tay chân nhanh nhẹn nên rụt đầu xuống tránh được. Cả nón lẫn khăn quấn trên đầu đều bị bắn rơi, mặt y vương đầy khói súng.

Thanh Thanh vô cùng kinh hãi, luôn miệng xin lỗi. Sa Thiên Quảng le lưỡi ra nói: “Lợi hại quá!”

Mọi người xem xét tỉ mỉ hai khẩu súng ngắn kia, thấy trong nòng súng nhồi đầy thuốc súng và đạn chì. Trình Thanh Trúc nói: “Thuốc súng vốn là phát minh của Trung Quốc, nhưng chúng ta chỉ dùng làm pháo để đốt hay pháo hoa để bắn chơi. Người Tây dương học được, lại dùng thuốc súng để giết người. Đội lính Tây dương này có hơn trăm tên, nếu hơn trăm cây súng đồng loạt bắn ra thì không phải chuyện đùa.”

Mọi người đều cảm thấy hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại, không thể dùng võ công mà đối địch, nên nhất thời đều im lặng để suy nghĩ cách đối phó.

Hồ Quế Nam lên tiếng: “Viên tướng công! Tại hạ có một quỷ kế, có thể dựng tuồng trên sân khấu, nhưng không biết có dùng được hay không.”

Thiết La Hán cười nói: “Hình như tên ăn trộm này chẳng có ý kiến nào đàng hoàng cả.”

Viên Thừa Chí nói: “Hồ huynh cứ nói thử xem.”

Hồ Quế Nam mỉm cười nói ra. Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen ngợi, Sa Thiên Quảng cùng mọi người đều tán dương là diệu kế. Viên Thừa Chí suy nghĩ kỹ lưỡng, cảm thấy mưu kế này có thể thực hiện được, bèn hạ lệnh chia nhau bố trí.

*

*   *

Cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm có phụ thân là đại quan Bồ Đào Nha đồn trú tại Ma Cao, vừa chết năm ngoái. Lần này nàng theo chiếc thuyền vận chuyển đại pháo đến Trung Quốc, lại theo đội quân áp tải đại pháo lên phía bắc, khi đến Thiên Tân sẽ lên thuyền về nước.

Bỉ Đắc là thuộc hạ của phụ thân Nhược Khắc Lâm, đã thầm yêu nàng từ lâu rồi. Còn Lôi Mông mới từ Bồ Đào Nha đến, thấy người đẹp muốn ra tay đoạt lấy. Hắn cấp bậc cao hơn, lại tự cho mình phong lưu, nhưng nghĩ mãi không biết phải ra tay như thế nào. Trong lúc giận dữ, hắn khiêu chiến với tình địch, tỉ kiếm bị thua nên mới sử dụng quỷ kế, không ngờ quỷ kế sắp thành lại bị Viên Thừa Chí nhảy vào phá đám. Bỉ Đắc coi hắn là thượng cấp nên không dám làm gì, chỉ biết đề phòng nghiêm ngặt hơn.

Một hôm đến một thôn trang lớn, gọi là thôn Phàn Công. Bọn lính Tây dương nghỉ lại ở từ đường nhà họ Vạn trong thôn trang này. Đến giữa đêm đột nhiên nghe thấy tiếng người ồn ào, rồi tên lính Tây dương canh gác chạy vào hô lớn: “Trong thôn có đám cháy!”

Lôi Mông và Bỉ Đắc nhảy chồm dậy, thấy lửa cháy rất gần, bèn hạ lệnh cho quân lính khiêng thuốc súng ra khỏi từ đường, để ở chỗ trống. Trong lúc hỗn loạn, bỗng thấy dân làng xách nước đến cứu hỏa. Mấy chục đại hán xông vào trong từ đường, tưới nước khắp nơi.

Lôi Mông quát hỏi nguyên nhân, đám dân làng bèn nói với tên phiên dịch Tiền Thông Tứ: “Đây là từ đường tổ tiên bọn tiểu nhân, phải tạt nước trước để đề phòng ngọn lửa bén sang.”

Lôi Mông nghe có lý, nên không can thiệp. Nào ngờ dân làng tiện tay vẩy nước loạn xạ, tạt bừa lên cả những thùng thuốc súng. Bọn lính Tây dương dùng báng súng đánh đuổi, nhưng đuổi người này đi người khác lại tới. Thời gian chưa ăn xong bữa cơm, trong ngoài từ đường đều ướt sũng, kể cả những thùng thuốc súng cùng đại pháo. Lúc này thế lửa đã dần dần hạ xuống.

Đợt lộn xộn này kéo dài đến sáng. Lôi Mông và Bỉ Đắc thấy hành động của đám dân làng này khác lạ, thuốc súng của mình ướt hết, dường như súng ống cũng mất nhiều, bèn nghĩ: “Nơi này có phần cổ quái, nhanh chóng rời khỏi thì hay hơn”.

Chúng định hạ lệnh khởi hành, bỗng một tên lính chạy vào báo: “Trong lúc hoảng loạn đêm qua, đám ngựa kéo xe kéo pháo đã chạy trốn sạch.”

Lôi Mông vung roi ngựa quất loạn lên, mắng chửi bọn lính không cẩn thận. Hắn hạ lệnh cho Tiền Thông Tứ dẫn lính Tây dương ra ngoài tìm lừa ngựa. Không ngờ trong cái thôn khá lớn này không có một con lừa hay ngựa nào. Chắc chắn dân làng đã biết tin, đem giấu hết rồi.

Thế này thì không sao khởi hành được. Lôi Mông đành sai Tiền Thông Tứ dẫn Bỉ Đắc đến thị trấn phía trước để tìm mua lừa ngựa.

Lôi Mông ở lại, chỉ huy quân sĩ mở thùng thuốc súng đổ ra phơi. Phơi đến xế chiều thì thuốc súng đã khô. Binh lính đang định gom lại vào trong thùng, đột nhiên từ nhà bên cạnh có mấy chục ngọn đuốc quăng ra, rơi vào giữa chỗ thuốc súng đang phơi.

Ngọn lửa lập tức bốc lên, cao thấu trời xanh. Bọn lính Tây dương hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Lôi Mông phải luôn mồm quát tháo chúng mới tập hợp lại được, rồi lấy súng ra bắn ầm ầm vào ngôi nhà đó. Trong khói súng mịt mù, mấy chục đại hán chuồn vào trong rừng rồi mất hút.

Lôi Mông kiểm điểm lại, thấy thuốc súng đã cháy mất tám chín phần mười, súng cũng bị mất chừng một nửa. Hắn vô cùng ủ rũ.

Đến chiều ngày thứ ba, Bỉ Đắc mới dẫn về được mấy chục con lừa ngựa để kéo pháo.

Sau bốn năm ngày đường, hôm đó đoàn lừa ngựa kéo pháo đến một eo núi hẹp, dẫn xuống thung lũng. Trước mắt là đoạn đường dốc rất đứng. Lôi Mông và Bỉ Đắc chỉ huy binh sĩ, mười mấy tên phụ trách một khẩu đại pháo, dùng dây lớn cột chắc để kéo ghịt lại, đề phòng đại pháo rơi xuống vực.

Càng xuống càng thấy nguy hiểm hơn. Trong lúc cả bọn đang lo lắng, dồn hết sức để kéo đại pháo, đột nhiên xung quanh eo núi rít lên những tiếng veo véo, mấy chục mũi tên bắn ra ngoài.

Mười mấy tên lính Tây dương lập tức trúng tên, lại còn mười mấy mũi ghim trúng vào thân lừa ngựa. Lừa ngựa bị đau, nhảy cẫng lên chạy gấp xuống dưới, làm sao bọn lính Tây dương ghìm lại nổi? Mười mấy khẩu pháo, mỗi khẩu nặng hơn ngàn cân, tuôn ào ào xuống dốc, khí thế không sao cản được. Họa vô đơn chí, dọc đường lại bất ngờ xuất hiện rất nhiều ổ gà và hầm hố, một số lừa ngựa rơi xuống hố.

Nghe tiếng lăn ầm ầm, hai khẩu đại pháo đi sau cùng đã mất điều khiển, đổ nhào xuống, ép mấy tên lính Tây dương nát ra thành tương. Tám khẩu đại pháo phía trước cũng lập tức bị hai khẩu đại pháo này đẩy nhào xuống.

Quân lính không còn tâm trí đâu mà chống địch nữa, phải lo chạy trốn sang hai bên đường. Có tên không còn đường để chạy, khi thấy đại pháo nhằm thẳng mình xô tới, đành phải nhảy sang một bên tránh né, rơi xuống vực sâu.

Mười khẩu đại pháo vừa chạy vừa lăn, càng xuống phía dưới càng nhanh thêm. Đám lừa ngựa phía dưới chạy trốn không kịp, chẳng bao lâu đã bị cán cho thịt xương tan nát. Hồi lâu vang lên những tiếng ầm ầm điếc tai, cả mười khẩu đại pháo đã rơi xuống thung lũng.

Khi Lôi Mông và Bỉ Đắc hơi định thần lại, quay sang nhìn Nhược Khắc Lâm thì thấy nàng đã hoảng sợ ngất đi rồi. Hai người vực nàng dậy, rồi chỉ huy binh lính nằm xuống chống địch. Nhưng địch thủ đã khoét sẵn những hố sâu hai bên sườn núi, dùng vách núi làm lá chắn, súng đạn bắn tới không làm rụng mất của họ sợi lông nào. Còn bọn lính Tây dương thì phơi mình ra làm đích cho tên bắn, lát sau mới khoét được một đường hào mà nấp.

Trận chiến đã xảy ra hơn hai giờ, quân Tây dương vẫn không phá nổi vòng vây. Lôi Mông nói: “Thuốc súng quân ta không đủ dùng, bây giờ chỉ còn cách xung phong cận chiến.”

Bỉ Đắc nói: “Đại tá thử sai Tiền Thông Tứ qua đó, hỏi xem bọn thổ phỉ này muốn gì.”

Lôi Mông giận dữ nói: “Sao phải nói chuyện với bọn thổ phỉ? Ngươi không dám, để ta xung phong.”

Bỉ Đắc nói: “Cung tiễn của thổ phỉ rất lợi hại, không cần dũng cảm vô ích.”

Lôi Mông nhìn Nhược Khắc Lâm một cái, giận dữ nhổ một bãi nước bọt, mắng luôn: “Thằng hèn!”

Bỉ Đắc tức giận đến nỗi mặt trắng bệch ra, rít qua kẽ răng: “Đợi đuổi xong bọn thổ phỉ, ta sẽ cho ngươi biết cái giá của sự vô lễ.”

Lôi Mông nhảy chồm dậy, hô lớn: “Ai là người dũng cảm thì theo ta!”

Bỉ Đắc kêu lên: “Đại tá Lôi Mông! Đại tá muốn chết hay sao?”

Bọn lính Tây dương biết chắc xông lên là chết, nên chẳng ai chịu theo chủ soái xung phong. Lôi Mông cầm kiếm vừa chạy vừa hò hét, nhưng mới vài bước đã bị một mũi tên bắn xuyên qua ngực, ngã xuống chết ngay.

Bỉ Đắc và bọn lính Tây dương nấp trong hào cố thủ, nhờ hỏa khí lợi hại nên địch thủ không dám ép tới gần. Chúng chống chọi như vậy một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh đến cứu. Nhưng lúc này quan trường thối nát, muốn điều binh khiển tướng thì phải công văn qua lại, rồi thỉnh thị, rồi thương nghị đủ trò. Trong vòng mười ngày nửa tháng, chắc chắn không có tên lính nào được phái tới đây.

Đến xế chiều ngày thứ hai, bọn lính đã đói đến nỗi chóng mặt hoa mắt, đành phải dựng cờ trắng lên. Tiền Thông Tứ hô lớn: “Chúng ta đầu hàng rồi! Đại nhân Tây dương nói là đầu hàng rồi.”

Trên vách núi có người quát lên: “Ném hết súng ra ngoài!”

Bỉ Đắc nghe dịch xong liền hô: “Không được nộp súng!”

Chẳng hiểu đối phương có hiểu không, mà ngừng tấn công. Lát sau đột nhiên ngửi thấy mùi thơm rượu thịt, từng đợt từng đợt xông vào mũi bọn lính Tây dương. Chúng đã hai đêm một ngày chưa ăn uống gì, bây giờ không sao gượng được nữa, bèn quẳng súng đi rồi nhảy ra khỏi đường hào. Bỉ Đắc thấy mình thất thế, chỉ còn cách hạ lệnh nộp vũ khí đầu hàng.

Quân lính dồn hết súng ống lại một chỗ, rồi la lên đòi ăn uống. Hai bên sườn núi có tiếng hiệu lệnh vang lên, mấy trăm đại hán từ trong những hố đất đứng dậy, giương cung lắp tên nhằm thẳng bọn lính Tây dương. Vài người chậm rãi bước ra. Khi đến gần, Bỉ Đắc nhìn thấy rõ ràng người đi đầu chính là thiếu niên đã cứu mạng mình đêm trước, bên cạnh là thiếu nữ từng bị Lôi Mông bắn rơi khăn bịt tóc.

Nhược Khắc Lâm kêu lên: “À! Thì ra là nhóm người có ma thuật này.”

Bỉ Đắc gỡ thanh kiếm đang đeo ra, bước lên mấy bước, hai tay nâng lên giao cho Viên Thừa Chí tỏ ý đầu hàng. Y nghĩ bụng: “Người này từng có ơn với mình, thua dưới tay anh ta cũng đáng.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút, rồi cũng hiểu đây là ý chịu thua đầu hàng, bèn xua tay rồi bảo Tiền Thông Tứ: “Ngươi nói với y, lính Tây dương mang đại pháo đến đây, nếu để giúp Trung Quốc bảo vệ đất đai, chống đỡ ngoại xâm, thì chúng ta vô cùng cảm tạ, coi như bạn tốt.”

Tiền Thông Tứ theo lời mà dịch. Bỉ Đắc gật đầu lia lịa, đưa tay ra định bắt tay Viên Thừa Chí, nhưng Viên Thừa Chí lại nói: “Nhưng các ông đến Đồng Quan là để giúp hoàng đế giết dân chúng. Chuyện này chúng ta không cho phép.”

Bỉ Đắc ngạc nhiên hỏi: “Đi đánh dân chúng Trung Quốc ư? Sao tôi không biết chuyện đó?”

Viên Thừa Chí thấy vẻ mặt y thành khẩn, không có dấu hiệu dối trá, lại nói: “Dân chúng ở Trung Quốc rất cực khổ, không có cơm ăn, sắp chết đói cả rồi. Họ rất mong có người dẫn họ đi đánh hoàng đế, giúp họ thoát khỏi cảnh khổ này. Hoàng đế hoảng sợ, nhờ các ông đem đại pháo đi bắn chết dân chúng.”

Bỉ Đắc nói: “Tôi cũng xuất thân con nhà nghèo khó, thấu hiểu được nỗi khổ của người nghèo. Bây giờ tôi sẽ trở về nước.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay lắm. Ông dẫn binh lính đi hết đi.”

Bỉ Đắc hạ lệnh triệu tập đội ngũ. Viên Thừa Chí bảo bộ hạ lấy rượu thịt ra, đãi quân lính Tây dương ăn no một bữa.

Bỉ Đắc đưa tay chào Viên Thừa Chí, rồi dẫn quân đi ngược về đường cũ. Viên Thừa Chí la lên: “Sao không mang súng đi luôn?”

Tiền Thông Tứ phiên dịch lại. Bỉ Đắc ngạc nhiên nói: “Đây là chiến lợi phẩm của các ông. Ông khoan hồng thả chúng tôi đi, không bắt chúng tôi đem tiền đến đây chuộc mạng, chúng tôi đã cảm tạ lắm rồi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ông đã làm mất những khẩu đại pháo, nếu không mang những cây súng này theo, khi trở về nhất định thượng cấp sẽ trách phạt nặng nề. Lấy đi đi!”

Bỉ Đắc hỏi: “Ông không sợ chúng tôi dùng súng bắn các ông hay sao?”

Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Người Trung Quốc chúng ta coi trọng chữ tín. Đã coi ông là bạn, thì không nghi ngờ gì nữa.”

Bỉ Đắc đa tạ liên hồi, hạ lệnh cho binh sĩ nhận lại súng, xếp thành đội ngũ trở về. Y leo hết con dốc, càng nghĩ lại càng thán phục, bèn hạ lệnh cho binh lính ngồi nghỉ tại chỗ, rồi dẫn Tiền Thông Tứ quay lại.

Y lấy trong túi ra một gói vải, nói với Viên Thừa Chí: “Ông hào kiệt như thế, tôi có một vật muốn tặng.” Tiền Thông Tứ dịch câu này sang tiếng Hoa.

Viên Thừa Chí mở cái gói ra xem, thấy đó là một xấp giấy dày được xếp gọn gàng, trải ra xem thì ra là một tấm bản đồ. Dường như tấm bản đồ này vẽ một cái đảo giữa biển khơi, ghi chú rất nhiều chữ quanh co.

Bỉ Đắc nói: “Đây là một cái đảo lớn ở vùng biển phía nam. Trên đảo này khí hậu ấm áp, sản vật phong phú, giống như thiên đường vậy. Khi tôi đi biển, từng đến chỗ ấy.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ông cho ta tấm bản đồ này để làm gì?”

Bỉ Đắc đáp: “Các ông ở đây cực khổ, chi bằng dẫn theo những người Trung Quốc không có cơm ăn đến đảo đó mà sinh sống.”

Viên Thừa Chí cười thầm, nghĩ bụng: “Người ngoại quốc này lòng dạ rất tốt, nhưng không biết Trung Quốc chúng ta rộng lớn, đông đúc chừng nào. Cả mấy trăm triệu người, cái đảo này lớn tới đâu cũng không đủ ở”. Chàng hỏi: “Trên đảo này không có người ở hay sao?”

Bỉ Đắc đáp: “Có lúc có bọn hải tặc Tây Ban Nha, có lúc không có. Anh hùng hảo hán như các ông, nhất định không sợ bọn hải tặc Tây Ban Nha đáng chết đó.”

Viên Thừa Chí thấy y rất chân thành, bèn đa tạ rồi cất giữ tấm bản đồ. Bỉ Đắc từ biệt trở về.

Tiền Thông Tứ theo về, nhưng vừa quay đi thì bị Thanh Thanh đưa tay ra xách lấy tai, quát lên: “Lần sau mà ta còn thấy ngươi tác oai tác quái, ăn hiếp đồng bào thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đây!”

Tai của Tiền Thông Tứ bị xé rách ra, đau thấy ông bà ông vải nên liên tục van nài: “Tiểu nhân không dám, tiểu nhân không dám!”

Miệng hắn đã rớt hết răng cửa, nên nói ấm ớ nghe như: “Tiểu nhân không dám không dám, tiểu nhân không không dám”.

Viên Thừa Chí dẫn mấy người bò xuống đáy vực để xem. Họ thấy mười khẩu đại pháo va đụng vào nhau bể nát gãy vụn, không thể dùng được nữa, bèn xúc đất lấp lên.

Đại công đã thành, Viên Thừa Chí cùng quần hào say sưa vui vẻ nửa ngày rồi mới chia tay. Hôm sau chàng lại cùng ông câm, Hồng Thắng Hải… mang theo những rương sắt tiếp tục đi về hướng kinh sư.

Chiến dịch này Hồ Quế Nam góp công nhiều nhất. Diệu kế của y đã mang lại kết quả còn hơn cả mong muốn. Dọc đường mọi người tán tụng y không dứt, không ai dám coi thường y xuất thân trộm cắp nữa.

Thế là ba doanh bộ thuộc của Viên Thừa Chí vừa tham gia khởi nghĩa đã liên tiếp lập được kỳ công, danh tiếng Kim Xà Doanh lừng lẫy khắp nơi. Sau này Sấm quân tiến công Đồng Quan, Đốc sư Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình của Thanh triều chết trận, đại tướng Cao Kiệt bỏ quan ải chạy về phía Tây An. Sấm quân phá Đồng Quan rồi mới đoạt Tây An, sau đó đánh chiếm Bắc Kinh. Công lao hủy pháo, làm suy yếu lực lượng của triều đình đúng là không nhỏ.

*

*   *

Suốt dọc đường lên kinh thành, đâu đâu cũng tàn tạ điêu linh, nơi nơi đều có dấu tích tàn sát cướp bóc của bọn lính Thanh. Thỉnh thoảng lại gặp lũ chó đói tha xác người đi gặm. Quần hùng thấy vậy đều nổi giận bừng bừng.

Sa Thiên Quảng nói: “Tiếc là hôm đó không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thát tử. Minh chủ! Chúng ta rượt theo để ám sát hắn, có được không?”

Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen phải. Viên Thừa Chí suy nghĩ không trả lời ngay, nàng liền hỏi: “Đi giết nguyên soái Thát tử thì có gì không tốt? Lại khỏi phải nghe Tôn Trọng Thọ thúc thúc oán trách nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Đã ám sát bọn Thát tử to đầu, thì càng to đầu càng đáng giết. Chúng ta đi hành thích hoàng đế Hoàng Thái Cực của bọn Mãn Thanh quách!”

Mọi người ngẩn ra một chút, rồi lập tức hoan hô. Viên Thừa Chí hỏi tỉ mỉ Hồng Thắng Hải, tình hình kinh thành Mãn Thanh phòng bị như thế nào, làm sao vào được nội cung.

Hồng Thắng Hải đáp: “Kinh đô Mãn Thanh đang ở Thẩm Dương, bây giờ chúng gọi là Thịnh Kinh. Quy mô Thịnh Kinh rất đơn giản, không thể sánh với Bắc Kinh. Tiểu nhân trước đây từng làm sai dịch dưới tay Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn, còn giữ một tấm bài đeo lưng có thể đi thẳng vào vương phủ Nhuệ Thân Vương. Còn hoàng cung thì tiểu nhân chưa vào lần nào.”

Viên Thừa Chí bảo: “Bây giờ chúng ta đi Thịnh Kinh ngay, đến nơi sẽ thừa cơ hành sự.”

Quần hào đến Bắc Kinh ở phủ Thuận Thiên trước. Họ thuê một căn nhà, chôn những chiếc rương sắt dưới đất, để Trình Thanh Trúc cùng vài đầu mục đắc lực của Thanh Trúc Bang ở lại canh giữ. Viên Thừa Chí cùng những người còn lại ra khỏi kinh thành, tiến về phía bắc. Ra khỏi Sơn Hải Quan, đi chưa đầy một ngày đã đến Thịnh Kinh.

Mọi người trú trong một khách sạn nhỏ, bàn kế hoạch để vào cung. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Theo ý tiểu nhân thì xin tướng công ủy khúc một chút, giả làm đồng bọn của tiểu nhân để gặp Đa Nhĩ Cổn trước. Hắn là em trai ruột của Thát tử hoàng đế. Trong các vị vương gia thì hắn được sủng ái nhất, quyền lực lớn nhất. Không chừng chúng ta có thể dụ hắn dẫn vào cung.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đa Nhĩ Cổn từng phái ngươi đưa thư đến thái giám Tào Hóa Thuần. Làm sao ngươi phúc đáp được?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân sẽ nói là chưa gặp Tào Hóa Thuần, nhưng khi ở Bắc Kinh đã thám thính được một số quân tình cơ mật, nên quay về bẩm báo trước.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Những quân tình cơ mật gì?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân cứ nói bừa một phen, đại khái như hoàng đế Minh triều cầu viện bọn Tây dương, mượn được mấy trăm khẩu đại pháo, mấy ngàn binh lính cầm súng, đặt kế hoạch tiến công Mãn Châu.”

Viên Thừa Chí cả mừng nói: “Kế này tuyệt diệu! Đa Nhĩ Cổn nghe vậy, nhất định sẽ bẩm lên Thát tử hoàng đế.” Chàng bảo Thanh Thanh lấy cây súng Tây dương ra, nói với Hồng Thắng Hải: “Ngươi cứ nói ta là tên thông dịch Tiền Thông Tứ của bọn Tây dương, nên hiểu rõ nội tình.”

Thanh Thanh phá ra cười rồi nói: “Thừa Chí đại ca! Huynh không cải trang thành ai khác, lại đi giả mạo thành tên thông dịch chó má Tiền Thông Tứ kia. Muội phải đánh gãy hàm răng của huynh cho giống, rồi tính tiếp.”

Vừa nói xong, nàng đưa tay tát vờ lên mặt Viên Thừa Chí. Chàng há miệng ra đớp ngay bàn tay, Thanh Thanh rút tay về không kịp. Sau đó Viên Thừa Chí xì xồ mấy câu bắt chước kiểu Tây dương, mọi người đều cười ồ lên.

Trưa hôm đó Viên Thừa Chí cùng Hồng Thắng Hải tới Nhuệ Thân Vương Phủ để cầu kiến vương gia. Đa Nhĩ Cổn lập tức gọi vào gặp mặt.

Viên Thừa Chí thấy Đa Nhĩ Cổn chừng ba mốt ba hai tuổi, người vừa cao vừa ốm, mặt đầy vẻ tinh ranh. Hồng Thắng Hải nói một hồi bằng tiếng Mãn Châu. Quả nhiên thần sắc Đa Nhĩ Cổn dần dần biến đổi, rồi dùng tiếng Hán hỏi Viên Thừa Chí mấy câu. Viên Thừa Chí lấy khẩu súng Tây dương ra đặt lên bàn, kể lại những chuyện đã cùng Hồng Thắng Hải thương lượng.

Đa Nhĩ Cổn suy nghĩ hồi lâu rồi nói: “Các ngươi báo tin có công, ta nhất định sẽ trọng thưởng. Bây giờ về đi, mai trở lại đây nghe ta dặn dò.”

Hai người không làm gì được, chỉ còn cách khấu đầu lùi ra.

Viên Thừa Chí dập đầu lạy Thát tử vương gia mấy cái oan uổng mà không được gặp Hoàng Thái Cực, khi về khách sạn ngồi rầu rĩ một hồi. Tính toán xong, chàng bảo Hồng Thắng Hải dẫn mình đi xem xét quanh hoàng cung một phen, chuẩn bị đêm đó sẽ vào hoàng cung hành thích.

Chàng biết, bất kể đêm nay thành bại thế nào thì hôm sau chúng cũng lùng sục khắp nơi tìm bắt thích khách, nên yêu cầu mọi người ra khỏi thành trước, hẹn trưa mai sẽ gặp nhau ở một cái miếu cũ phía nam cách hai mươi dặm.

Mọi người tự biết võ công chênh lệch rất xa, đi theo không giúp gì được chàng, lại bắt chàng phải lo lắng nữa. Để chàng đi một mình thì việc thoát thân dễ dàng hơn nhiều, nên tất cả đều tuân lệnh, chỉ dặn dò chàng phải cẩn thận tuyệt đối.

Khi bước ra cửa, Thanh Thanh đắm đuối nhìn Viên Thừa Chí một hồi, rồi khẽ nói: “Thừa Chí ca ca! Ám sát được Thát tử hoàng đế, dĩ nhiên là tốt. Nhưng ám sát không được thì thôi, ca ca quyết phải bảo trọng thân mình. Ca ca biết đấy, trong lòng muội thì một trăm tên Thát tử hoàng đế cũng không bằng được một sợi tóc của ca ca. Nếu từ nay muội không được gặp ca ca nữa…” Nói đến đây, khóe mắt nàng đã đỏ lên.

Viên Thừa Chí muốn nàng yên lòng, bèn bứt trên đầu một sợi tóc, mỉm cười nói: “Tặng muội một trăm tên Thát tử hoàng đế đây.”

Nói xong, chàng đưa sợi tóc cho Thanh Thanh. Nàng phì cười thành tiếng, nhưng nước mắt đã rơi xuống.

*

*   *

Đợi đến canh một, Viên Thừa Chí mang theo Kim Xà Kiếm và Kim Xà Truy đi tới ngoài tường hoàng cung. Chàng đã biết bên ngoài hoàng cung canh giữ rất nghiêm ngặt, nên vòng ra phía sau một gốc cây to để giấu mình, đợi bọn vệ sĩ tuần tra đi qua rồi mới nhẹ nhàng vượt tường vào cung. Bên trong điện các đầy rẫy, chàng phân vân không biết Hoàng Thái Cực ở điện nào, nghĩ bụng chỉ còn cách cố bắt một tên vệ sĩ hoặc thái giám để hỏi cung.

Chàng rón rén đi qua đi lại cả nửa giờ vẫn không thấy manh mối gì, thầm nghĩ: “Việc này tuy khó, nhưng vẫn không bằng lần trước nửa đêm dò xét Đại Công Phường. Ta phải bình tĩnh, đêm nay không thành công thì đêm mai đến tiếp. Mất một hai tháng cũng không sao”.

Viên Thừa Chí nghĩ vậy nên thoải mái trong lòng, nhẹ chân đi vòng qua một hành lang. Đột nhiên thấy giữa lùm hoa có ánh đèn chớp lên, chàng liền co người lại núp phía sau một hòn non bộ. Không bao lâu thì có bốn tên thái giám xách lồng đèn yểu điệu đi tới, dẫn theo ba viên quan.

Viên Thừa Chí thấy đông người, nếu mình nhảy ra bắt thì nhất định sẽ làm kinh động, hoàng đế đề phòng thì không thể hành thích thành công được. Chàng bèn nhẹ nhàng đi theo bảy người đó tới một tòa đại điện ở vào khoảng giữa. Tấm hoành phi ngoài điện ghi ba chữ Sùng Chính Điện, bên cạnh đầy những chữ Mãn Thanh cong queo.

Viên Thừa Chí vòng ra sau điện, nằm rạp xuống đất quan sát xung quanh. Chàng thấy quanh điện có bốn năm chục vệ sĩ cầm đao canh giữ, mừng rỡ nghĩ: “Nơi này phòng thủ thâm nghiêm, chắc là chỗ ở của Thát tử hoàng đế.”

Viên Thừa Chí lượm một viên đá nhỏ dưới đất ném vào giữa vườn hoa. Bọn vệ sĩ nghe tiếng, một số bước sang đó xem xét, số còn lại cũng chăm chú nhìn theo. Viên Thừa Chí lập tức chạy tới bên tường, thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường bò dọc lên, chỉ chốc lát đã tới đỉnh điện. Chàng nằm sát mái nhà, im lặng lắng nghe bốn phía.

Thấy không có tiếng động gì, biết tung tích của mình chưa bị phát hiện, chàng mới khẽ gỡ một phiến ngói lưu ly trên mái điện. Theo khe hở nhìn xuống, thấy trong điện đèn đuốc sáng trưng, ba viên quan đó đang xì xụp dưới đất, hành đại lễ ba quỳ chín lạy. Viên Thừa Chí cả mừng, biết họ đang tham kiến hoàng đế.

Người đứng trên cùng là một lão quan râu tóc bạc phơ, lên tiếng: “Thần là Phạm Văn Trình kiến giá.”

Viên quan đứng giữa thân hình to lớn, nói: “Thần là Ninh Hoàng Ngã kiến giá.”

Viên quan đứng cuối khuôn mặt khô gầy, nói: “Thần là Bao Thừa Tiên kiến giá.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ba tên quan này là người Hán mà đầu hàng bọn Thát tử, đều là Hán gian.” Chàng bỗng thắc mắc, sao họ lại dùng tiếng Hán để nói chuyện với hoàng đế Thát tử, bèn từ từ di chuyển về phía nam, theo khe hở nhìn dịch về phía bắc. Thấy trên long ỷ có một người mặt vuông tai lớn, cặp mắt rất có thần, trên mép lớt phớt râu, chừng hơn năm mươi tuổi, chắc chắn là Hoàng Thái Cực, đại địch năm xưa của cha mình.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu ở đây phóng Kim Xà Truy thì cũng có thể lấy mạng hắn, nhưng khoảng cách hơi xa, không chắc lắm. Không chừng trong đám thị vệ có cao thủ, chúng mà gạt được thì hỏng việc. Hay là mình nhảy xuống dưới đó, dùng kiếm cắt thủ cấp của hắn cho bảo đảm.”

Bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Quân tình ở Nam triều mấy hôm nay thế nào? Ta vừa nhận được báo cáo của A Ba Thái, nghe nói y vừa trúng mai phục ở Thanh Châu Thái An tỉnh Sơn Đông, thua một trận lớn. Chẳng lẽ quân Minh còn đánh trận như thế được hay sao? Các ngươi biết tổng binh ở vùng Thanh Châu Thái An là ai không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra chúng đang nói về trận thắng của mình. Để xem chúng nói gì nữa.”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải bẩm hoàng thượng, thần đã điều tra tường tận, tổng binh của quân Minh là Thủy Giám, võ nghệ rất giỏi. Nhưng chỉ huy thật sự là một đám vong mạng dưới tay Lý Tự Thành, gọi là Kim Xà Doanh gì gì đấy. Thủy tổng binh đã bị chúng thu phục rồi.”

Hoàng Thái Cực “À” lên một tiếng rồi nói: “Hắn đầu hàng bọn phản tặc rồi ư? Thế thì đáng tiếc quá. Các ngươi đi điều tra tỉ mỉ xem có thể tìm cách dụ hắn đầu hàng Đại Thanh chúng ta hay không. Xem thử hắn tham tiền tài hay tham nữ sắc? Người này có thể đánh bại A Ba Thái, nhất định là một nhân tài, chúng ta quyết không dễ bỏ qua.”

Ba viên quan cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh! Nếu Thủy Giám chịu quy thuận thì hay quá, coi như hắn có phước khí.”

Hoàng Thái Cực thở ra một hơi rồi nói: “Năm xưa chúng ta dùng kế phản gián giết Viên Sùng Hoán, mỗi lần trẫm nghĩ đến lại thấy tiếc vô cùng.”

Viên Thừa Chí nghe y nhắc đến tên phụ thân mình, trong tai bỗng ù ù, toàn thân nóng hổi, ý nghĩ cứ lặp đi lặp lại: “Kế phản gián! Chúng dùng kế phản gián! Gia gia mình bị y hại chết! Tên này là đại thù nhân, hại chết phụ thân mình!”

Lại nghe Hoàng Thái Cực nói tiếp: “Nếu trẫm dùng được Viên Sùng Hoán, chắc bây giờ giang sơn Nam triều đã thuộc về Đại Thanh chúng ta rồi.”

Viên Thừa Chí “Xì” một tiếng, mắng thầm: “Tên cẩu Thát tử này nói chuyện nghe sướng quá. Phụ thân ta trung can nghĩa đảm, làm sao chịu đầu hàng ngươi?”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Có điều Viên Sùng Hoán ngu trung không hiểu thời thế, chắc không chịu đầu hàng đâu.”

Y lại thở dài rồi hỏi: “Phùng Thừa Đồ gần đây như thế nào?”

Năm xưa Viên Sùng Hoán từng làm Tổng đốc Kinh Liêu. Sau này Phùng Thừa Đồ kế tục chức đó. Hắn được Sùng Trinh hoàng đế cấp đại quyền binh mã, nhưng vừa thua trận bị bắt đã đầu hàng Mãn Thanh ngay. Lúc Phùng Thừa Đồ mới bại trận mất tích, Sùng Trinh còn tưởng hắn hy sinh vì nước, đích thân tế tự. Sau này biết hắn đầu hàng Mãn Thanh, người trong thiên hạ đều chê cười Sùng Trinh là thứ chẳng biết gì.

Phạm Văn Trình nói: “Khải tấu hoàng thượng, Phùng Thừa Đồ đã nói hết tình hình Nam triều rồi. Y nói Sùng Trinh hoàng đế bảo thủ ngoan cố, dùng kế sách không đúng, tin dùng gian nịnh, sát hại trung lương, lưu khấu bốn phương khởi dậy. Đại quân Đại Thanh chúng ta có thể thừa cơ hội này mà tiến công vào quan ải, giải tỏa nỗi khổ cho dân chúng.”

Hoàng Thái Cực lắc đầu nói: “Về Sùng Trinh thì hắn nói không sai một chút nào. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để Thanh binh tiến công vào quan ải. Không phải bây giờ chúng ta không nắm chắc phần thắng, nhưng nên để triều đình nhà Minh đánh với bọn lưu khấu trước đã, đợi hai bên mệt mỏi kiệt sức, lưỡng bại câu thương, bấy giờ Đại Thanh chúng ta có thể ngư ông đắc lợi, nhấc tay một cái là lấy được thiên hạ. Người Hán các ngươi gọi kế này là Biện Trang Thí Hùng, có phải hay không?”

Ba viên quan đồng thanh nói: “Vâng, vâng! Hoàng thượng thánh minh.”

Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thát tử hoàng đế thật là lợi hại, so với Sùng Trinh cách một trời một vực, ta không thể không giết hắn. Không diệt tên này thì giang sơn Đại Hán chúng ta không thể vững vàng. Cho dù Sấm Vương lấy được thiên hạ đi nữa, cũng sợ rằng… sợ rằng…” Chàng cảm thấy người này có tầm nhìn xa rộng, bao quát được cục diện, suy nghĩ thấu suốt, đánh trận nào chắc trận đó, không nóng nảy chút nào, hình như tài năng của Sấm Vương cũng không so được với hắn. Tên hoàng đế này nói tiếng Hán rất lưu loát, lại từng đọc sách Trung Quốc nữa, biết cả chuyện Biện Trang giết cọp.”

Lại nghe Hoàng Thái Cực hỏi: “Phùng Thừa Đồ còn nói gì nữa không?”

Phạm Văn Trình nói: “Phùng Thừa Đồ đã mấy lần nói với thần, chỉ mong hoàng thượng ân điển ban cho y việc để làm. Y muốn góp công góp sức, làm khuyển mã cho hoàng thượng để báo thiên ân.”

Hoàng Thái Cực cười rộ lên rồi nói: “Muốn có việc để làm ư? Chuyện này từ từ rồi tính.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng! Hạ thần ngu muội, trong lòng có việc không hiểu, mong hoàng thượng chỉ điểm.” Hoàng Thái Cực gật đầu.

Bao Thừa Tiên nói: “Khi Phùng Thừa Đồ mới quy thuận, hoàng thượng ban cho y rất nhiều ân sủng, chính tay cởi áo bào da điêu khoác lên người y, lại mở tiệc đãi đằng mấy ngày liên tiếp. Từ xưa đến giờ, ngay cả những khai quốc công thần của Đại Thanh chúng ta cũng chưa được vinh dự như thế. Chúng thần đều không sao hiểu được. Hoàng thượng bèn dạy bảo: “Chúng ta cực khổ chinh chiến mấy năm nay để làm gì?” Chúng thần khải tấu: “Để đánh chiếm giang sơn Nam triều”. Hoàng thượng dạy bảo: “Đúng vậy! Nhưng chúng ta không hiểu nội tình của Nam triều, giống như kẻ mù vậy. Khi Phùng Thừa Đồ quy thuận, mắt chúng ta sáng hẳn cả ra, còn gì vui mừng hơn nữa?” Chúng thần đều bái phục hoàng thượng thánh minh. Sau đó Phùng Thừa Đồ kể hết các quan chức canh giữ thành trì của Nam triều, ngay cả phong thổ nhân tình cũng nói tỉ mỉ, quả nhiên không ngoài dự liệu của hoàng thượng. Nhưng tại sao hoàng thượng không thưởng cho y tước vị hay quan chức gì, chúng thần hoàn toàn không hiểu.”

Hoàng Thái Cực mỉm cười nói: “Tính tình lão Bao thật là thẳng thắn, muốn hỏi gì là hỏi thẳng ngay, không kiêng kỵ. Ba người các ngươi tuy là người Hán, nhưng đã phụng sự cho tiên hoàng và trẫm từ lâu, một dạ trung thành. Phùng Thừa Đồ làm sao so sánh với các ngươi được?”

Bọn Phạm Văn Trình đều quỳ xuống dập đầu binh binh lên nền nhà, tỏ vẻ vô cùng cảm kích. Viên Thừa Chí thầm thóa mạ: “Vô sỉ!”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Con người Phùng Thừa Đồ tuy có bản lãnh, nhưng cốt khí thì không được chút nào. Trước đây trẫm đã đối đãi với hắn quá tốt, nếu bây giờ lại ban cho tước cao lộc hậu, thì loại người này có chịu ra sức làm việc hay không? Hừ! Sùng Trinh phong quan cho hắn còn chưa đủ lớn hay sao? Trước kia hắn làm chức quan gì?”

Phạm Văn Trình đáp: “Khải tấu Hoàng thượng, hồi ở Nam triều y giữ chức Thái tử Thái bảo, Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc Kinh Liêu quân vụ, thống lĩnh tám quan Tổng binh dưới trướng, thật là quan to quyền lớn.”

Hoàng Thái Cực nói: “Thế đấy! Ta phong quan cho hắn dù lớn đến đâu cũng không thể lớn hơn chức quan của Sùng Trinh đã phong cho hắn. Nếu muốn hắn tận tâm tận lực, thì không thể cho hắn làm quan, mà nên treo một chỗ cho hắn lắc lư qua lại, không biết dựa dẫm vào đâu.”

Ba người đó nghe xong cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh!”

Viên Thừa Chí càng nghĩ càng thấy có lý, nhận ra Hoàng Thái Cực có phương pháp sử dụng nhân tài cực kỳ sáng suốt. Chàng nghe mấy câu này, cảm giác giống như hồi ở Hoa Sơn tuyệt đỉnh vừa đọc Kim Xà Bí Kíp. Loại pháp môn này hiểu được mà không bắt chước được, tuy không phải là chính đạo nhưng bắt người ta phải khâm phục.

Chàng nằm yên ở đó một lát, nghe Hoàng Thái Cực thương nghị với bọn Phạm Văn Trình, sau này lấy được thiên hạ triều Minh sẽ cai trị thế nào, bây giờ phải chuẩn bị ra sao, cứ như giang sơn Đại Minh đã là đồ vật trong túi rồi vậy. Viên Thừa Chí vô cùng giận dữ, nhẹ nhàng gỡ thêm hai viên ngói lưu ly, nhìn chính xác những chỗ sẽ đặt chân khi nhảy vào trong điện.

Chàng bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Hiện nay ở Nam triều lưu khấu nổi lên tứ phía, nói tới nói lui cũng chỉ có một lý do. Đó chính là bá tính không có cơm ăn. Sau khi chúng ta lấy được giang sơn Nam triều, việc lớn đầu tiên là phải làm sao cho bá tính trong khắp thiên hạ người nào cũng có cơm ăn…”

Viên Thừa Chí bỗng động tâm nghĩ: “Câu này rất đúng.”

Bọn Phạm Văn Trình tán dương mấy câu. Hoàng Thái Cực lại nói: “Muốn cho dân chúng có cơm ăn, các ngươi nghĩ xem cách gì tốt nhất? Phạm tiên sinh nói thử xem.”

Hình như y đối với Phạm Văn Trình khách sáo hơn, gọi là tiên sinh, không như vừa rồi gọi Bao Thừa Tiên là lão Bao.

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng chưa đoạt được giang sơn đã nghĩ đến bá tính, tâm ý này nhất định sẽ được hoàng thiên chiếu cố. Theo ngu ý của thần, muốn cho bá tính trong thiên hạ đều có cơm ăn, việc thứ nhất là phải thuế má nhẹ nhàng, không như Sùng Trinh ra sức vơ vét tăng lương tăng thuế.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Sau khi vào quan ải chúng ta phải ra quy củ: vĩnh viễn về sau không được tăng thuế. Mỗi khi trong kho dư thừa tiền bạc, phải hạ chỉ giảm thuế ngay.”

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng có lòng như vậy, thật là phước cho muôn dân. Thần may được góp sức mọn cho minh chúa, nếu phải tan xương nát thịt vì hoàng thượng, cũng… cũng cam lòng.”

Nói đến cuối câu, thanh âm của y ra vẻ nghẹn ngào. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Hình như tên đại Hán gian này cũng biết yêu dân, nhưng không biết là đóng tuồng hay thật lòng đây?”

Hoàng Thái Cực nói: “Hay lắm! Người Hán chửi các ngươi là Hán gian, sau này các ngươi lo việc đàng hoàng cho trẫm cũng chính là lo cho bá tính, phải cố gắng giành lại một chút tiếng tăm. Phải cho hàng nghìn hàng vạn bá tính nhìn thấy ai là Hán gian thật sự, các ngươi tốt cho người Hán hơn, hay là bọn tay chân Sùng Trinh chỉ biết thăng quan phát tài, vơ vét bá tính tốt cho người Hán hơn. Lão Ninh, ngươi còn điều gì trình tấu hay không?”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải tấu hoàng thượng, người Mãn Châu của Đại Thanh chúng ta ít, người Hán lại rất đông. Sau khi hoàng thượng có được thiên hạ rồi, theo ngu ý của thần thì phải xem người Mãn người Hán đều là con dân của hoàng thượng, đừng như người Mông Cổ đời Nguyên xem người Hán ở phương Nam là dân hạ đẳng. Chỉ cần Đại Thanh chúng ta đối xử với dân chúng bình đẳng như nhau, cho dù trong số người Hán có kẻ quật cường thì cũng không thể gây thành chuyện lớn.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Câu này rất có lý. Người Mông Cổ vô địch về cung tiễn, cưỡi chiến mã giày xéo khắp thiên hạ, nhưng giang sơn tại Trung Quốc của họ thì không sao yên ổn được, chính vì đã ngược đãi người Hán. Cái này gọi là… tiền cư… gì gì đó?”

Bao Thừa Tiên mỉm cười nhắc: “Tiền cư phúc thiết.”

Hoàng Thái Cực nói: “Đúng rồi. Lão Bao! Sách chữ Hán ta đọc rất ít, mãi không thấy tiến bộ chút nào.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng đêm ngày phải lo muôn việc, điển cố trong sách của người Hán không cần phải để trong lòng làm chi. Chỉ cần hiểu được đạo lý trong sách về chuyện trị quốc bình thiên hạ là đủ lắm rồi.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Người Hán có không ít đạo lý rất hay. Khi học chỉ cần học đạo lý và sách lược bên trong, chứ không cần học như bọn tú tài tiến sĩ người Hán, toàn lo chuyện ngâm nga thơ phú”.

Viên Thừa Chí nghe câu nào cũng đúng ý, quên mất mình đến đây là để hành thích, trong lòng như muốn nghe thêm một chút. Bốn người thương nghị đến việc chỉnh đốn quân kỷ, sau khi nhập quan tuyệt đối không được tàn sát bá tính, tuyệt đối không cho quân lính cướp bóc.

Bỗng có hai tên thị vệ vào trong, tháo hai cây nến lớn trên long án ra đổi. Giữa lúc ánh sáng mờ mờ, Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Bây giờ mà không xuất thủ, còn đợi lúc nào?” Chàng vung tả chưởng lên đập xuống, nghe rắc một tiếng, hai cây xà ngang trên nóc điện gãy lìa. Giữa đám ngói vụn cùng bụi bặm, chàng nhảy xuống dưới điện, chân phải đạp lên long án, Kim Xà Kiếm đâm vèo ra nhằm vào trước ngực Hoàng Thái Cực.

Hai bên Hoàng Thái Cực lập tức có bốn tên vệ sĩ nhảy ra. Chúng không kịp rút đao, lấy thân mình cản trước mặt Hoàng Thái Cực, hai tên trúng kiếm chết ngay. Chân tay Hoàng Thái Cực cũng rất nhanh, lập tức nhảy ra khỏi long ỷ, lùi lại hai bước.

Lại thêm năm sáu vệ sĩ chạy lên cản trở. Ninh Hoàng Ngã và Bao Thừa Tiên cũng phóng tới sau lưng Viên Thừa Chí, đưa tay ra ôm lấy chàng. Viên Thừa Chí phóng cước đá ngược lại “bình bình” hai tiếng, hất Ninh và Bao văng thẳng ra ngoài. Vì chậm trễ như vậy mà Hoàng Thái Cực lùi được hai bước nữa.

Viên Thừa Chí vô cùng lo lắng, nghĩ thầm: “Nếu hôm nay để Thát tử hoàng đế trốn được, sau này việc hành thích không phải dễ.” Chàng phóng ra hai mũi Kim Xà Truy, nhưng bị bọn vệ sĩ xông ra cản trở, làm con ma thế mạng. Viên Thừa Chí múa Kim Xà Kiếm liên tiếp đâm ra, mặc kệ bọn vệ sĩ bu đến tấn công, cố gắng chạy về phía Hoàng Thái Cực.

Khoảng cách chỉ hơn một trượng, nhưng trong chốc lát phía sau bức màn lại có tám tên võ sĩ tay không chạy ra, đồng thời phóng tới trước mặt Viên Thừa Chí. Chân phải Viên Thừa Chí hất lên, “binh” một tiếng đá văng một tên. Chàng dùng Uyên Ương Liên Hoàn Cước, chân trái theo đó bay lên. Lúc này một tên võ sĩ từ bên tay trái phóng tới, bị chân trái của Viên Thừa Chí đá trúng ngực, nhưng hai tay hắn đã ôm chặt lấy chân Viên Thừa Chí. Miệng hắn hộc máu tươi ra, nhưng hai tay vẫn nắm chặt quyết chẳng chịu buông.

Tám tên võ sĩ đô vật này giỏi về cầm nã, tiếng Mãn Châu gọi là bố khố. Khi bối lặc hay vương công thiết yến, thường có những trận đô vật để xem. Sau khi tiếp kiến đại thần, Hoàng Thái Cực quen xem một trận đô vật rồi mới đi ngủ. Tám tên bố khố này đang đợi phía sau điện, nghe có thích khách liền chạy ra ngoài cứu giá.

Viên Thừa Chí cố gắng kéo chân trái về, nhưng không sao thoát khỏi tay tên võ sĩ này. Chàng vẫy Kim Xà Kiếm ra, chém đứt một nửa cái đầu của hắn, nhưng bàn tay đã chết vẫn nắm chặt lấy chân Viên Thừa Chí.

Đột nhiên chàng nghe sau lưng có người hét lên: “To gan đến đây phạm giá!” Câu này quát bằng tiếng Hán. Viên Thừa Chí mặc kệ, chân trái lôi theo xác tên võ sĩ, sải bước đuổi theo Hoàng Thái Cực. Mới bước được một bước, trên đỉnh đầu bỗng nghe tiếng gió. Binh khí chưa đánh tới nơi mà kình phong đã quét vào gáy như một lưỡi dao sắc bén.

Viên Thừa Chí kinh hãi, biết võ công của địch thủ này rất cao. Trong lúc nguy cấp chàng vội nhào xuống đất, lộn đi một vòng ra ngoài, múa kiếm bảo vệ đỉnh đầu, tay trái cố gắng gỡ bàn tay xác chết đang nắm chặt chân mình, bấy giờ mới đứng dậy được.

Dưới ánh nến chàng thấy một đạo sĩ trung niên đứng trước mặt, khuôn mặt thanh tú trắng trẻo, tay cầm một cây phất trần, cười nhạt nói: “Thích khách to gan! Còn không buông binh khí mà chịu trói?”

Viên Thừa Chí chỉ liếc hắn một cái, lại quay sang Hoàng Thái Cực thì thấy đã có mười mấy vệ sĩ đứng chặn trước mặt y. Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy vọt lên, phóng về phía Hoàng Thái Cực. Chàng còn lơ lửng trên không, bỗng thấy đạo sĩ kia cũng nhảy lên, phất trần vẫy tới trước mặt mình.

Viên Thừa Chí huy động Kim Xà Kiếm đâm hai nhát cực nhanh. Đạo sĩ nghiêng đầu tránh được một kiếm, múa phất trần cản được một kiếm, sau đó hàng trăm hàng ngàn sợi tơ trên phất trần này vẫy tới rất nhanh. Tay trái Viên Thừa Chí chụp lấy phất trần, tay phải cầm kiếm đâm vào yết hầu đối thủ.

“Xoẹt” một tiếng, đuôi phất trần vừa quét trúng tay trái chàng, máu chảy đầm đìa. Thì ra cây phất trần này kết bằng tơ vàng tơ bạc, tuy mềm mại nhưng khi vận nội kình lên thì biến thành binh khí lợi hại có thể lấy mạng đối phương. Ngay lúc đó lưỡi rắn trên mũi Kim Xà Kiếm cũng móc trúng đầu vai của trung niên đạo sĩ.

Hai người còn lơ lửng đã trao đổi ba chiêu, hai bên đều bị thương nhẹ, khi rơi xuống đất đã đổi vị trí cho nhau. Cả hai đều kinh hãi nghi ngờ: “Người này là ai? Sao võ công lại giỏi đến thế? Thật là xưa nay hiếm gặp.”

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.