Bích Huyết kiếm

Hồi 17: Mơ màng bóng áo xanh - Vẫy bút họa tình nhân

trước
tiếp

Viên Thừa Chí mở rương sắt chọn ra một mớ châu báu quý giá, gói thành một gói, bảo La Lập Như đeo lên lưng.

Ba người đợi sáng sớm đi đến cửa cung, Viên Thừa Chí nói mấy câu ám ngữ. Bọn thị vệ cấm quân giữ cổng đã nghe Tào thái giám dặn sẵn từ lâu, lập tức cử người dẫn vào trong. Tới trước một tòa điện, thị vệ lùi ra, một tên tiểu thái giám dẫn tiếp vào trong. Dọc đường còn đổi ba lần thái giám dẫn đường nữa.

Viên Thừa Chí ráng nhớ đường vào, thầm nghĩ: “Tào thái giám thật là đa nghi. Hắn sợ mưu đồ bại lộ, ngay cả người dẫn đường cũng thay đổi không ngừng.” Men theo một con đường nhỏ quanh co bên tay phải Ngự Hoa Viên, cuối cùng đến trước một gian nhà nhỏ. Tiểu thái giám mời ba người vào trong, bưng điểm tâm và trà lên.

Đợi hơn một giờ, Tào thái giám vẫn chưa ra. Ba người không nói gì, cứ ngồi yên ở đó mà đợi. Mãi đến trưa mới có một tên thái giám khoảng ba mươi tuổi ra hỏi Viên Thừa Chí mấy câu mật hiệu. Viên Thừa Chí theo lời dặn của Hồng Thắng Hải mà đáp, tên thái giám đó gật đầu lui ra.

Một lúc sau, hắn dẫn một tên thái giám trung niên vừa mập mạp vừa trắng trẻo vào. Viên Thừa Chí thấy tên này mặc y phục toàn gấm đoạn, trông rất sang trọng, bèn nghĩ: “Chắc đây là Tư lễ thái giám Tào Hóa Thuần, người có quyền thế chỉ sau hoàng thượng.”

Quả nhiên tên thái giám kia giới thiệu: “Vị này là Tào công công.”

Viên Thừa Chí và La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi, ba người quỳ xuống khấu đầu. Tào Hóa Thuần mỉm cười nói: “Đừng đa lễ, xin mời ngồi. Nhuệ vương gia có khỏe không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Nhờ phúc của Tào công công, vương gia vẫn được an khang. Vương gia có hạ lệnh cho tiểu nhân thăm hỏi công công.”

Tào Hóa Thuần cười ha hả: “Không ngờ vương gia quan tâm đến mấy miếng xương sọ già nua này. Hồng lão đệ xa xôi đến đây, không biết vương gia có dặn gì không?”

Viên Thừa Chí nói: “Vương gia hỏi công công, mọi chuyện đã sắp xếp sao rồi.”

Tào Hóa Thuần thở dài nói: “Tính tình của hoàng thượng thật là cố chấp. Ta đã mấy lần nói chuyện, nhưng hoàng thượng cứ nói là chuyện mượn binh diệt khấu có hậu họa vô cùng lớn. Chỉ cần hai nước bãi binh nghị hòa, Đại Minh diệt xong lưu khấu rồi sẽ đa tạ Nhuệ vương gia hậu hĩ.”

Viên Thừa Chí chưa biết giữa Đa Nhĩ Cổn với Tào Hóa Thuần có âm mưu gì. Hồng Thắng Hải ở bên Đa Nhĩ Cổn có địa vị rất thấp, không thể biết chuyện cơ mật, chẳng qua chỉ là sứ giả truyền tin. Hồng Thắng Hải không biết, dĩ nhiên Viên Thừa Chí cũng không biết. Lúc này nghe Tào Hóa Thuần nói, chàng không nén nổi trái tim nhảy loạn lên, trong tai lùng bùng mấy chữ: “mượn binh diệt khấu”. Chàng nghĩ: “Hoàng đế không chịu mượn binh, bọn Mãn Châu lại quyết ý cho mượn, hiển nhiên có ý định không tốt.”

Tuy Viên Thừa Chí rất trấn tĩnh, nhưng đột nhiên biết chuyện này, không tránh khỏi đổi sắc mặt. May mà Tào Hóa Thuần hiểu lầm, cứ tưởng chàng không thoải mái vì đại sự chưa thành, bèn nói: “Lão đệ đừng lo lắng. Kế này không thành, ta sẽ có kế tiếp theo.”

Viên Thừa Chí nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Tào công công túc trí đa mưu, vương gia của tại hạ thường khen ngợi không dứt. Vương gia từng nói: Có Tào công công trong cung hành sự, khỏi phải lo lắng việc lớn không thành.”

Tào Hóa Thuần mỉm cười, không nói gì.

Viên Thừa Chí tiếp: “Vương gia có mấy món lễ vật mọn, sai tiểu nhân đem tới. Xin công công thu nhận.” Nói xong, chàng chỉ sang La Lập Như. Tiêu Uyển Nhi đón lấy cái bao đang đeo trên lưng y, đặt lên bàn rồi mở ra cho Tào công công xem.

Bao vừa mở ra, ánh sáng châu quang bảo thúy làm cả gian phòng sáng rực. Tào Hóa Thuần ở trong đại nội lâu ngày, bảo vật trân quý đã thấy không biết bao nhiêu. Những loại châu báu tầm thường, dĩ nhiên hắn không để lọt vào mắt. Nhưng phen này khác hẳn, hắn bất giác kinh hãi đến ngẩn người. Thì ra trong cái bao đó có vô số đồ trân bảo. Chỉ riêng chuỗi trân châu một trăm hạt, hạt nào cũng lớn cũng tròn, đã là hiếm thấy trên đời. Lại còn một đôi sư tử bằng phỉ thúy, chân trước đạp lên một viên hồng bảo thạch tròn trịa đỏ rực như lửa. Khối phỉ thúy màu xanh biếc to lớn thế này Tào công công chưa từng gặp, mà viên hồng bảo thạch sáng ngời lại càng khó thấy.

Tào Hóa Thuần cứ xem một món lại tấm tắc khen một món, rồi quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Sao vương gia lại hậu thưởng ta đến thế?”

Viên Thừa Chí muốn thám thính mưu đồ, bèn nói: “Vương gia cũng biết hoàng thượng tinh minh, việc mượn binh diệt khấu khó mà lo được. Chuyện này phải dựa vào thế lực của công công.”

Tào Hóa Thuần được Viên Thừa Chí khen ngợi, đắc ý mỉm cười. Hắn vẫy tay một cái, bảo La Lập Như và Tiêu Uyển Nhi: “Hai ngươi ra ngoài nghỉ ngơi đi.”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, hai người liền theo bọn tiểu thái giám ra ngoài. Tào Hóa Thuần đích thân đóng cửa, nắm tay Viên Thừa Chí, hỏi rất khẽ: “Vương gia xuất binh lần này có yêu cầu gì, lão đệ biết không?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Lý Nham đại ca từng nói, gặp chuyện khó khăn phải ứng biến kịp thời, muốn lừa biết được bí mật của người ta thì phải nói chút ít bí mật cho người ta nghe. Mình cũng nên nói bừa một chút.” Chàng bèn đáp: “Công công là người phe mình, dĩ nhiên tiểu nhân phải bẩm báo. Nhưng chuyện này vô cùng cơ mật, ngoài vương gia cùng tiểu nhân chỉ có hai ba người biết.”

Chàng trước nay thẳng thắn, ít khi phải dùng cơ mưu, nên gấp rút suy nghĩ một hồi vẫn chưa nghĩ ra đại sự gì liên quan đến Mãn Thanh, bèn thuận miệng nói bừa mấy việc về chính bản thân mình.

Ánh mắt Tào Hóa Thuần sáng hẳn lên. Viên Thừa Chí lại kề tai hắn mà nói: “Tiểu nhân vẫn nghĩ, tuy mình được vương gia tin tưởng, nhưng dẫu sao họ vẫn là phiên bang ngoại quốc. Nếu Tào công công chịu gia ân, giúp cho tiểu nhân được quang tông diệu tổ…”

Tào Hóa Thuần hiểu ngay chàng muốn tìm một chức quan trong triều đình, bèn cười ha hả: “Thì ra Hồng lão đệ muốn có công danh phú quý. Chuyện này lão phu sẽ lo liệu cho.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Đã đóng kịch, thì phải đóng kịch đến cùng.” Chàng liền quỳ xuống khấu đầu đa tạ.

Tào Hóa Thuần cười nói: “Sau khi sự việc thành công, ta cho lão đệ làm phó tướng có được không? Bảo đảm sẽ phái lão đệ đến nơi thật béo bở.”

Viên Thừa Chí nở mặt nở mày, lại đa tạ tiếp: “Công công đại ân đại đức thế này, tiểu nhân không dám giấu giếm tí gì nữa. Ý của vương gia là…”

Chàng nhìn trái nhìn phải một hồi, mới hạ giọng nói: “Nhưng công công tuyệt đối đừng tiết lộ, không thì tính mạng tiểu nhân khó mà giữ được.”

Tào Hóa Thuần bảo: “Lão đệ yên tâm đi. Sao ta lại nói ra ngoài?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ta chẳng ngại ngùng gì mà không nói thách, còn chịu mua hay không là chuyện của hắn.” Chàng bèn nói: “Sau khi quân Đại Thanh tiến vào quan ải, Sấm tặc nhất định bị dẹp yên. Ý của vương gia là muốn triều đình cắt vùng Trực Lệ và Sơn Đông để đa tạ, lấy Hoàng Hà làm biên giới, từ nay về sau là hai nước anh em.”

Viên Thừa Chí thuận miệng nói bừa, nhưng Tào Hóa Thuần không nghi ngờ gì cả. Một là có lá thư chính tay Đa Nhĩ Cổn viết, và đúng ám hiệu đã hẹn ước. Hai là lễ vật hậu hĩ thế này. Ba là người Mãn Thanh gian trá khó lường, dĩ nhiên hắn phải biết.

Tào công công suy nghĩ một chút rồi gật đầu nói: “Lúc này thiên hạ đại loạn. Mấy tháng trước Sấm tặc đã công phá Đồng Quan, lại chiếm Tương Dương, Tây An. Nếu Đại Thanh không xuất binh ngay, chỉ khoảnh khắc là Sấm tặc tiến đến kinh thành. Bắc Kinh bị phá thì cái gì cũng hết, kể gì đến Trực Lệ với Sơn Đông?”

Viên Thừa Chí nghe nói Sấm quân chẳng bao lâu sẽ đến kinh thành, bất giác vô cùng mừng rỡ. Chàng sợ lộ vẻ vui mừng, liền cúi đầu nhìn xuống đất. Tào Hóa Thuần cũng nhìn thấy, nhưng lại tưởng chàng vui mừng vì mình đồng ý những điều khoản đó. Hắn bèn nói: “Đêm nay ta sẽ trình tấu lên hoàng thượng. Nếu hoàng thượng vẫn cố chấp không chịu, chúng ta phải lấy quốc gia xã tắc làm trọng, đành phải…”

Nói đến đây hắn im lặng trầm ngâm, đôi mày chau hẳn lại. Trái tim Viên Thừa Chí đập loạn xạ, chỉ mong Tào công công tiết lộ âm mưu ngay lập tức. Chàng bèn khích một câu: “Đương kim hoàng thượng anh minh cương nghị, mọi chuyện công công phải cẩn thận.”

Tào công công cười gằn nói: “Hừ! Cương thì đúng là cương, nhưng nghị thì không thấy đâu. Hai chữ anh minh lại càng không có. Giang sơn Đại Minh mất vào tay hôn quân thì thôi, nhưng chẳng lẽ chúng ta phải chết chung với hắn hay sao?”

Mấy câu này có thể gọi là đại nghịch bất đạo, tiết lộ ra ngoài là đủ tru di tam tộc. Thế mà Tào công công nói toẹt ra chẳng kiêng nể gì, đủ thấy hắn không nghi ngờ Viên Thừa Chí chút nào. Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu công công đã có kế hoạch tuyệt diệu gì?”

Tào Hóa Thuần nói: “Dù lấy Hoàng Hà làm biên giới, vẫn còn hơn mất hết giang sơn vào tay bọn lưu khấu. Hoàng thượng không chịu, chẳng lẽ…”

Nói đến đây, đột nhiên hắn cười ha hả rồi tiếp: “Hồng lão đệ! Trong vòng ba ngày, nhất định sẽ có tin tức tốt lành để hồi báo vương gia. Lão đệ cứ đợi ở đây.” Hắn vỗ tay một tiếng. Mấy tên tiểu thái giám chạy vào bưng những đồ châu báu mà Viên Thừa Chí đã tặng, theo Tào Hóa Thuần ra ngoài.

Chẳng bao lâu, bốn tên tiểu thái giám vào dẫn Viên Thừa Chí, Tiêu Uyển Nhi, La Lập Như đến nghỉ tại một gian phòng nhỏ bên trái. Bữa tối thức ăn rất phong phú, dùng cơm xong thì trời đã tối đen như mực. Tiểu thái giám thỉnh an rồi lùi ra khỏi phòng. Đáng lẽ cấm cung không để người ngoài ở lại, nhưng lúc này binh hoang mã loạn, luật lệ lỏng lẻo. Tào Hóa Thuần trong hoàng cung có thế một bàn tay che cả mặt trời, dĩ nhiên không ai dám liều mạng bàn tán.

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Tào thái giám đang trù hoạch một âm mưu lớn. Chuyện này quan trọng, ta phải ra ngoài thám thính một chút.”

Uyển Nhi nói: “Để muội đi với Viên tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Không! Cô nương cùng La huynh cứ ở đây. Không chừng Tào thái giám không yên tâm, sẽ sai người đến hỏi thăm.”

La Lập Như nói: “Một mình tại hạ ở đây là được. Viên tướng công có thêm một tay trợ thủ, sẽ hay hơn.”

Viên Thừa Chí thấy Uyển Nhi ra vẻ quyết tâm, không tiện cản trở bèn gật đầu một cái. Sang phòng kế bên, chàng vung hai tay điểm huyệt hai tên tiểu thái giám. Còn hai tên nữa nhảy vội từ trên giường xuống, trợn mắt lên không biết phải làm gì. Uyển Nhi rút Nga Mi Thích, chỉ vào trước ngực chúng, quát thầm: “Các ngươi mà lên tiếng, ta cho đi gặp Ngụy Trung Hiền lập tức.”

Nói xong, nàng hơi nhấn cương thích tới trước, đâm thủng áo, mũi nhọn dí sát vào da ngực chúng. Viên Thừa Chí thầm cười trong bụng, nghĩ: “Lúc này mà nàng vẫn nói đùa được.” Ngụy Trung Hiền là một tên thái giám gian ác thời Thiên Tông, làm bại hoại thiên hạ, bị xử tử đã lâu.

Chàng lột quần áo hai tên thái giám này, mặc vào người. Uyển Nhi thổi tắt ngọn nến, trong bóng tối cũng đổi lấy sắc phục thái giám.

Viên Thừa Chí điểm huyệt thêm một tên, tay trái nắm lấy mạch môn tên còn lại, kéo ra cửa, khẽ quát: “Dẫn chúng ta đi tìm Tào công công.”

Tên thái giám này nửa người tê liệt, không dám nói nhiều, lập tức dẫn đường. Đi vòng vèo trong cung cả dặm đường, đến một tòa lầu lớn, hắn lắp bắp: “Tào công công… ở chỗ này…”

Thừa Chí không đợi hắn nói hết câu, huých khẽ khuỷu tay vào huyệt đạo trước ngực hắn, rồi hất vào trong một lùm hoa nhỏ.

Hai người khom lưng chạy đến tòa lầu. Viên Thừa Chí đang định kéo Tiêu Uyển Nhi nhảy lên, đột nhiên sau lưng nghe tiếng chân bước tới. Một người từ xa đã hỏi: “Tào công công có trên lầu không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta cũng mới đến. Chắc có trên lầu chứ.”

Quay lại thì thấy tổng cộng năm người đang đến, người đi đầu xách lồng đèn màu đỏ. Ánh đèn soi rõ, cả năm đều là thái giám. Tên thái giám xách đèn vừa cười vừa mắng: “Thằng khỉ này, nói chuyện rào đón lắm thế?”

Lúc chúng đến gần, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi cúi đầu xuống, không để bị nhìn rõ mặt.

Cánh cửa sơn bóng loáng như một tấm gương, phản chiếu ánh đèn nên khi bọn thái giám đi ngang có thể thoáng nhìn thấy tướng mạo. Viên Thừa Chí hơi giật mình, khẽ kéo tay áo Uyển Nhi. Đợi năm tên đó lên lầu, chàng mới nói nhỏ: “Thái Bạch Tam Anh!”

Uyển Nhi kinh hãi, khẽ la lên: “Bọn gian tặc giết gia gia muội! Chúng làm thái giám rồi ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Giống như chúng ta, chỉ cải trang thôi. Lên đi!”

Hai người theo sau Thái Bạch Tam Anh lên lầu. Mấy thái giám gác cửa tưởng đi cùng một bọn nên không xét hỏi. Lên tới lầu, hai tên thái giám đi trước đã dẫn Thái Bạch Tam Anh vào một căn phòng. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi không tiện vào theo, nên đứng chờ ngoài cửa.

Loáng thoáng nghe giọng tên thái giám xách đèn từ trong phòng vọng ra: “Xin đợi ở đây… Tào công công lập tức…” Những câu khác thì nghe không rõ. Sau đó hai tên thái giám lui ra, bước xuống lầu.

Viên Thừa Chí kéo tay Uyển Nhi tiến vào phòng. Bốn bức tường đều là giá sách, thì ra đây là một thư phòng. Thái Bạch Tam Anh ngồi trên ghế, thấy hai người thái giám đi vào nhưng không để ý, để Viên Thừa Chí và Uyển Nhi bình thản tới gần. Uyển Nhi cười nhạt, lên tiếng: “Sử thúc thúc, Lê thúc thúc! Gia gia tiểu nữ mời ba vị đi ăn cơm.”

Thái Bạch Tam Anh đột nhiên nhìn thấy Uyển Nhi, dĩ nhiên giật mình kinh hãi. Lê Cương nhảy bật dậy, la lên: “Gia gia ngươi đã chết rồi mà?”

Uyển Nhi đáp: “Không sai. Ông ấy mời ba vị thúc thúc đi ăn cơm cúng.”

Sử Bính Vân chau mày, “soạt” một tiếng trường đao đã ra khỏi vỏ. Viên Thừa Chí vung hai tay ra nhanh như chớp, mỗi tay túm lấy một người, xách cổ Sử thị huynh đệ nhấc bổng lên, đồng thời phóng chân trái ra đá trúng huyệt Phụng Vĩ sau lưng Lê Cương. Sử Bính Quan cố xoay tay đánh lại một quyền, nhưng Viên Thừa Chí để mặc cho hắn đánh vào ngực mình, hai tay ập lại cho đầu anh em họ Sử đập vào nhau. Cả hai ngất xỉu liền tại chỗ.

Uyển Nhi chưa kịp nhìn rõ, Thái Bạch Tam Anh đã bất tỉnh nhân sự. Nàng rút cây Nga Mi Thích ra, định đâm vào ngực Sử Bính Quan. Viên Thừa Chí đưa tay giữ lấy cổ tay nàng, nói nhỏ: “Có người!”

Đã nghe rõ tiếng chân bước lên cầu thang. Viên Thừa Chí xách Sử thị huynh đệ đặt sau giá sách, rồi quay lại nhấc Lê Cương lên, cùng Uyển Nhi trốn luôn vào sau giá sách. Vừa nấp xong, đã có mấy người tiến vào phòng.

Một người lên tiếng: “Xin quý vị đợi ở đây, Tào công công lập tức đến ngay.”

Một giọng thiếu nữ nói rất ẻo lả: “Làm phiền ngươi rồi.”

Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nhận ra thanh âm của Hà Thiết Thủ giáo chủ Ngũ Độc Giáo, ngầm siết tay nhau một cái.

Lát sau Ngụy Đào Thanh tổng quản Huệ vương phủ dẫn mấy người vào, đều là hảo thủ võ lâm được Huệ vương gia mời tới Chiêu Hiền Quán. Nghe mọi người chào hỏi, thì ra có cả Ôn Thị Tứ Lão của Kỳ Tiên Phái tại Tịnh Nham Cù Châu, có cả Lữ Thất tiên sinh.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thì ra bốn lão già đêm qua Uyển Nhi nhìn thấy chính là Ôn Thị Tứ Lão, chẳng trách Tiên Đô Phái không chống nổi. Chúng đến đây làm gì nhỉ?”

Mọi người chào hỏi chưa xong, Tào Hóa Thuần đã tiến vào trong phòng. Viên Thừa Chí nghĩ: “Ôn Phương Thi giết mẫu thân Thanh đệ, đã bị mình dùng Hỗn Nguyên Công điểm huyệt cho biến thành phế nhân. Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn không triển khai được nữa, nhưng còn có cao thủ Ngũ Độc Giáo và những người khác, một mình ta không chống nổi.”

Nghe giọng Tào Hóa Thuần hỏi: “Thái Bạch Tam Anh đâu rồi?”

Một tên thái giám trả lời: “Ba vị đó đến đây rồi, không biết đi đâu.”

Tào Hóa Thuần sai người tìm kiếm. Mấy tên thái giám đi một hồi quay lại, đều nói không thấy tung tích ba người. Số còn lại bàn tán nhỏ nhẹ, hiển nhiên đều ra vẻ phiền hà. Tào Hóa Thuần nói: “Chúng ta không đợi nữa. Họ bỏ mất cơ hội lập công này, sau này không oán trách được ai.”

Nghe tiếng kéo ghế, chắc là chúng sắp xếp chỗ ngồi để nghe họ Tào chỉ thị. Tào Hóa Thuần khẽ nhắc đến quân tình ở phía tây. Lý Tự Thành phá được Đồng Quan, Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình tử trận. Lý Tự Thành lấy Tây An, tự lập làm vua, xưng quốc hiệu là Đại Thuận, niên hiệu là Vĩnh Xương. Mọi người phát lên những tiếng rì rầm, ra vẻ chấn động.

Tào Hóa Thuần nói: “Nếu chúng ta không nhanh tìm biện pháp, chỉ mấy hôm nữa là bọn giặc cỏ tiến gần đến kinh thành. Hoàng thượng cứ bảo thủ không chịu mượn binh diệt khấu, mấy trăm năm cơ nghiệp Đại Minh nhất định tiêu ma trong tay ông ấy. Chúng ta phải lấy quốc gia triều đình làm trọng, chỉ còn cách lập minh quân khác để bảo vệ xã tắc.”

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Thế thì lập Huệ vương gia.”

Tào Hóa Thuần nói: “Không sai! Hôm nay xin quý vị góp sức phò minh chúa. Mọi việc do ta sắp xếp, đại sự thành công thì mọi người đều có công đầu.”

Hắn thấy không ai dị nghị, bèn lập tức phân chia công việc. Cả bọn đều hăng hái nhận lệnh, ra vẻ rất phấn khởi.

Tào Hóa Thuần sai phái: “Một giờ nữa, bốn vị lão tiên sinh họ Ôn dẫn những huynh đệ đắc lực đến mai phục ở bốn phía phòng ngủ hoàng thượng, cản trở người khác vào cứu giá. Thủ hạ của Hà giáo chủ mai phục bên ngoài thư phòng, để Huệ vương gia vào trong tấu trình.”

Lữ Thất tiên sinh hỏi: “Ngũ thành binh mã sứ Chu đại tướng quân thống lĩnh binh mã kinh thành, vốn trung thành với đương kim hoàng thượng. E rằng bất trắc, chúng ta có cần trừ khử hắn trước hay không?”

Tào Hóa Thuần mỉm cười đáp: “Chu đại tướng quân cùng Phó thượng thư, hai tên này đã bị ta dùng kế mọn trừ khử lâu rồi. Hà giáo chủ kể cho mọi người biết đi.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tào công công muốn ủng hộ Huệ Vương đăng cơ, dĩ nhiên đã biết Chu đại tướng quân và Phó thượng thư rất trung thành với hoàng thượng. Một người nắm quân, một người giữ tiền, đúng là mối họa. Vì thế công công đã sai tiểu muội liên tiếp phái người đến Hộ Bộ ăn cắp khố ngân. Hoàng đế chỉ biết tính toán tỉ mỉ, chịu không nổi những chuyện nhỏ nhặt này, nên chiều nay đã hạ chỉ cách chức điều tra hai lão Chu Phó rồi.”

Mọi người đều khen ngợi Tào Hóa Thuần thần cơ diệu toán, nhưng cố nén tiếng reo hò cho nhỏ lại.

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu, thủ hạ của Hà Thiết Thủ gây án ở Hộ bộ không chỉ vì tiền, mà đó là một âm mưu thông địch hại nước. Sùng Trinh vẫn tự cho mình rất tinh minh, tiếc rằng rơi vào bẫy của người khác mà không hay biết.

Tào Hóa Thuần nói: “Bây giờ các vị về nghỉ ngơi một lúc, khoảng một giờ nữa sẽ có người đến gọi. Nhất định các vị phải thản nhiên bình tĩnh, không để tiết lộ đại sự.”

Mọi người đều khẽ vâng dạ. Lữ Thất tiên sinh cùng Ôn Thị Tứ Lão cáo từ ra ngoài. Hà Thiết Thủ ra sau cùng, gần đến cửa bỗng cất tiếng hỏi: “Tại sao Thái Bạch Tam Anh không đến? Chẳng lẽ họ đi tố cáo với hoàng thượng?”

Tào Hóa Thuần nói: “Hà giáo chủ đúng là tính toán chu đáo. Thôi thì việc này cứ giấu họ luôn cho ổn thỏa. Nhưng Thái Bạch Tam Anh là tâm phúc của Cửu vương gia Mãn Châu, gần đây còn lập đại công, chắc không đến nỗi phản bội Cửu vương gia.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Đại công gì thế?”

Tào Hóa Thuần đáp: “Họ đã đánh cắp trủy thủ của một tên họ Mẫn phái Tiên Đô, đi ám sát bang chủ Kim Long Bang. Sau việc này, nhân vật võ lâm phương Nam chắc chắn sẽ tự giết lẫn nhau, tranh chấp không dứt được. Sau này chúng ta đánh chiếm Kim Lăng sẽ thuận lợi hơn nhiều.”

Uyển Nhi đã biết chắc chín phần là Thái Bạch Tam Anh hại chết cha mình, bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Viên Thừa Chí sợ nàng tức giận phát ra âm thanh, mà Hà Thiết Thủ tai mắt linh mẫn khác thường, động tĩnh nhỏ nhất cũng không giấu được, bèn đưa tay lên khẽ che miệng Uyển Nhi.

Tiêu Uyển Nhi xinh đẹp dịu dàng, lúc này đang tựa sát vào người Viên Thừa Chí. Cảm thấy ngón tay chạm vào đôi môi mềm mại của nàng, Viên Thừa Chí tuổi đang niên thiếu, huyết khí phương cương, trong lòng bất giác có phần khó chịu.

Nghe thấy Hà Thiết Thủ cười nói: “Công công thân tại cung đình mà tường tận sự việc giang hồ như thế, thật không phải dễ.”

Tào Hóa Thuần bật cười thành tiếng rồi nói: “Những chuyện trong triều đình, ta đã chứng kiến rất nhiều. Chẳng ai là không tham công danh phú quý, ai cũng phản phúc vô thường. Chẳng ai đếm xỉa gì đến nghĩa khí hay chữ tín, ai cũng sẵn sàng vì thăng quan phát tài mà bán đứng bằng hữu. Dù sao những bằng hữu giang hồ vẫn nói một là một, nói hai là hai, đáng tin hơn rất nhiều. Lần này ta mưu đồ đại sự, không dám thương nghị với đại thần trong triều, cũng không dám dùng võ tướng thị vệ, lại mời các vị đến đây rút đao tương trợ, chính vì lý do này.”

Hai người vừa nói vừa rời khỏi thư phòng. Viên Thừa Chí biết chuyện rất khẩn cấp, nhưng phải làm thế nào thì chưa có chủ ý. Lúc này trong đầu chàng, quốc nạn gia thù cứ xen lẫn chồng chéo vào nhau.

Uyển Nhi nhẹ kéo tay chàng rời khỏi miệng mình, hỏi nhỏ: “Ba tên gian tặc này phải xử lý thế nào? Tiểu muội giết chúng được không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Được, nhưng đừng có máu để tránh bị phát hiện.” Chàng xốc đầu Sử Bính Quan lên, chỉ vào hai bên thái dương mà hỏi: “Cô nương biết chiêu Chung Cổ Tề Minh không?”

Uyển Nhi gật đầu. Viên Thừa Chí lại nói: “Khớp xương ngón cái hướng ra ngoài, nắm tay như vậy. Đúng rồi, phát chiêu đi.”

Uyển Nhi dạ một tiếng rồi xuất quyền. “Bụp” một tiếng, song quyền đồng thời kích vào hai bên thái dương, Sử Bính Quan không rên được tiếng nào, lập tức tắt thở. Nàng cứ thế mà đánh chết Sử Bính Vân và Lê Cương. Bây giờ đại thù đã báo, nàng nghĩ đến cha mình bỗng không nén nổi, gục đầu vào vai Viên Thừa Chí mà khóc rấm rứt. Viên Thừa Chí đưa tay trái ôm lấy thân hình mềm mại, kề tai nàng nói nhỏ: “Chúng ta ra ngoài nhanh lên, xem Hà Thiết Thủ đi đến chỗ nào.”

Uyển Nhi được chàng ôm vào lòng, không nỡ buông ra ngay. Nhưng sau đó nàng cảm thấy không ổn, bèn nín khóc rồi theo Viên Thừa Chí ra khỏi phòng.

Họ thấy Tào Hóa Thuần và Hà Thiết Thủ chia tay nhau ở một chỗ rẽ, hai tên thái giám xách lồng đèn dẫn Hà Thiết Thủ đi về phía tây. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi xa xa theo dõi, qua mấy khu vườn thì thấy cô ả đi vào một tòa nhà.

Hai người vẫn bám theo. Vừa vào trong cửa, đã nghe ở phòng phía đông có người la lớn: “Mụ già xấu xí Hà Hồng Dược kia! Sao còn chưa chịu thả ta ra ngoài?”

Âm thanh lảnh lót, không phải Thanh Thanh thì còn ai nữa?

Viên Thừa Chí vừa hoan hỉ vừa kinh ngạc, xông thẳng vào bất kể có chuyện gì. Thanh Thanh đang nằm trên giường, kế bên có hai tên tiểu thái giám sắc thuốc thắp hương.

Lúc Viên Thừa Chí đưa tay điểm huyệt hai tên này, Thanh Thanh mới nhận ra. Nàng cả mừng, run run gọi: “Đại ca!”

Viên Thừa Chí đi đến bên giường, hỏi: “Vết thương của Thanh đệ thế nào rồi?”

Thanh Thanh đáp: “Đại khái chưa chết.” Nàng thấy Uyển Nhi đứng phía sau, bèn hỏi: “Cô nương cũng đến đây ư?”

Uyển Nhi đáp: “Vâng! Hạ cô nương ở đây thì hay quá. Viên tướng công đỡ phải lo lắng rồi.”

Thanh Thanh hừ một tiếng, không đáp mà nói: “Hà Thiết Thủ sắp đến đây rồi. Đại ca đập ả một trận cho Thanh đệ mát ruột đi.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Họ đang có gian mưu, bây giờ mình tạm thời không lộ mặt là hơn.” Chàng vội nói: “Thanh đệ! Huynh tạm thời không thể động thủ với ả. Muội cứ dụ ả nói chuyện, hỏi xem ả bắt muội vào cung để làm gì.”

Thanh Thanh ngạc nhiên hỏi lại: “Cung gì?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra Thanh đệ chưa biết đây là hoàng cung.” Chàng nghe có tiếng chân bước đến, không kịp nói rõ, vội xách hai tên thái giám nhét vào tủ áo, kéo tay Uyển Nhi định tìm chỗ nấp.

Trước cửa bóng người thấp thoáng, một cô gái áo trắng đã chạy vào trong, đúng là Hà Thiết Thủ. Thân pháp nàng cực nhanh, mỉm cười nói với Viên Thừa Chí: “Hay quá! Sư phụ! Sư phụ cũng đến đây rồi ư?”

Nàng tiện tay túm lấy cánh tay Uyển Nhi, chỉ một chiêu đã đẩy Uyển Nhi lùi mấy bước, rồi chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí. Khoảng cách chưa tới một thước, mũi hai người như sắp chạm vào nhau. Thừa Chí ngửi thấy hương thơm rất nồng, biết nàng toàn thân có độc, đứng gần không ổn chút nào. Chàng vội lùi lại một bước, đến cạnh cái giường.

Hà Thiết Thủ phóng người tới, đặt tay trái lên vai chàng. Thừa Chí xoay tay phải lại, nắm lấy cổ tay trái Hà Thiết Thủ. Chàng đang định hất nàng ra ngoài, Hà Thiết Thủ bỗng la lên: “Hàm sa xạ ảnh!”

Viên Thừa Chí không dám vận kình nữa, bỗng thấy nàng đưa tay phải lên hông, cho vào trong áo, chỉ cần ấn một cái nút bên trong là mấy chục mũi độc châm sẽ bắn vèo ra.

Hà Thiết Thủ chồm tới, phóng lên người Viên Thừa Chí. Chàng thò tay trái vào trong áo nàng, nắm lấy cổ tay, quyết cản trở nàng ấn nút. Hai người đứng sát nhau, hầu như đã tiếp xúc da thịt. Nếu mấy chục mũi độc châm đó phóng ra, dù chàng bản lĩnh bằng trời cũng không sao tránh né được.

Hà Thiết Thủ đưa tay trái ra, quàng lấy lưng Viên Thừa Chí, cả người tựa sát vào lòng chàng, nhõng nhẽo gọi: “Sư phụ! Sư phụ!”

Viên Thừa Chí ấp úng nói: “Cô… cô… Đừng làm thế.”

Thanh Thanh thấy vậy, giận dữ hét lên: “Hai người làm gì thế?”

Viên Thừa Chí biết tình thế nguy cấp, chỉ mong kéo được tay Hà Thiết Thủ ra ngoài. Nhưng Thanh Thanh lại thấy người yêu thò tay vào trong áo Hà Thiết Thủ không ngớt sờ mó gì đó, cảnh tượng thật là ô uế không sao nhìn được. Nàng vừa lo lắng vừa giận dữ, lại đau lòng, bèn lớn tiếng chửi mắng: “Vô sỉ! Hạ lưu!”

Hà Thiết Thủ ỏn ẻn nói: “Sư phụ! Sư phụ không chịu thì muội dùng Hàm sa xạ ảnh, đồng quy ư tận.”

Viên Thừa Chí không làm gì được nữa, chỉ còn cách đồng ý. Chàng đành nói: “Được! Ta đồng ý, nhưng có câu nói trước.”

Hà Thiết Thủ kêu gọi: “Sư phụ ơi!”

Thừa Chí đáp: “Ừ!”

Hà Thiết Thủ hoan hỉ nói: “Đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời đấy nhé.” Nàng bèn đứng thẳng dậy, lùi mấy bước.

Thừa Chí ngồi phịch lên giường, nghĩ đến khoảnh khắc nửa sống nửa chết vừa rồi mà không nén nổi toát mồ hôi lạnh. Chàng xoay tay lại nắm lấy tay Thanh Thanh, giữ trong lòng bàn tay mình, nghiêm giọng nói với Hà Thiết Thủ: “Ta có mấy câu nói, nếu cô chịu nghe lời thì ta nhận cô làm đồ đệ.”

Hà Thiết Thủ mừng rỡ, mỉm cười nói: “Xin sư phụ dặn dò.”

Viên Thừa Chí bảo: “Tào công công âm mưu thoán vị, dẫn quân Mãn Châu vào nước để đánh Sấm Vương. Cô mau mau dẫn thủ hạ đi cản trở mưu đồ đó. Đây là đại sự trước mắt.”

Hà Thiết Thủ gật đầu đáp: “Đồ nhi tuân mạng.”

Viên Thừa Chí tiếp: “Việc thứ hai, cô phái người đưa Hạ cô nương trả về hẻm Chính Điện Tử. Nếu cô ấy bị đau một ngón tay, ta vĩnh viễn không dạy cho cô một chiêu nào.”

Hà Thiết Thủ thè lưỡi ra nói: “Đồ nhi quyết không làm cô ấy bị thương. Sư phụ! Sau này Hạ cô nương sẽ là sư nương phải không?”

Thừa Chí đáp: “Không sai lắm. Cô cứ đảm bảo cô ấy trở về bình an là được.”

Hà Thiết Thủ cãi: “Cái gì mà không sai lắm? Đồ nhi thấy trúng cả mười phần rồi. Nhưng cô cô Hà Hồng Dược của đồ nhi có thâm thù đại hận với Hạ cô nương, nên mới bắt về. Cô cô sợ sư phụ cướp lại nên đem vào đây mà nhốt, dĩ nhiên yên ổn hơn nhiều. Không ngờ sư phụ cũng tìm đến được. Người của cô cô bắt về, tuy đồ nhi là giáo chủ nhưng cũng không thể tùy tiện thả ra.”

Viên Thừa Chí nói: “Mối thâm thù đại hận đó là gì, ta vẫn chưa hiểu được. Chuyện này cần điều tra cho rõ. Nhiều môn võ công của ta đã học từ Kim Xà Lang Quân.”

Hà Thiết Thủ nói: “Được! Để đồ nhi giúp sư phụ hỏi cho rõ là xong. Đến lúc này sư phụ đã có ba mệnh lệnh. Thứ nhất, cản trở âm mưu thay đổi hoàng đế, mượn binh diệt khấu. Thứ hai, đưa sư nương về nhà. Thứ ba, hỏi rõ về Kim Xà Lang Quân, nhạc phụ đại nhân của của sư phụ. Đồ nhi sẽ lo liệu đàng hoàng từng điều một.”

Thanh Thanh nghe nàng gọi mình là sư nương, gọi gia gia mình là nhạc phụ đại nhân của Viên Thừa Chí, vô cùng mừng rỡ. Nàng không ghen với Hà Thiết Thủ nữa, bèn siết chặt tay Viên Thừa Chí mấy cái, tạm thời không truy cứu chuyện vừa rồi chàng thò tay vào trong áo cô nương họ Hà.

Lại nghe tiếng bước chân ở ngoài phòng, rồi có tiếng hỏi: “Giáo chủ! Giáo chủ ở đây phải không?”

Đây là giọng Hà Hồng Dược. Một thanh âm già nua, nghe chói tai khác lại cất lên: “Hà giáo chủ! Tào công công cho mời giáo chủ, tới lúc chuẩn bị rồi.” Viên Thừa Chí nhận ra đây là giọng nói của Lữ Thất tiên sinh.

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Được rồi.” Rồi nàng khẽ bảo Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Xin hai vị tránh mặt một chút.”

Trong phòng không có chỗ nào nấp được. Viên Thừa Chí sợ Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược thấy mình sẽ la lên, khiến Tào Hóa Thuần thay đổi âm mưu tạo thành biến cố khác, chỉ còn cách nắm tay Uyển Nhi chui xuống gầm giường.

Thanh Thanh vẫn còn ngơ ngẩn, Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược đã tiến vào phòng. Lữ Thất tiên sinh nói: “Hà giáo chủ! Chúng ta ở đây đợi Tào công công đi.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Được.”

Nàng bỗng xoay cây thiết câu lắp bên tay trái, gõ một phát trúng vào giữa lưng Lữ Thất tiên sinh. Thiết câu có chất kịch độc, nhát đâm này lại ghim sâu vào trong thịt, Lữ Thất tiên sinh không sao chống nổi, té nhào xuống nằm ngẩng mặt nhìn trời. Hà Thiết Thủ vội đưa tay phải ra, lấy tay áo dài đè lên miệng lão, đề phòng lão la lối làm kinh động người khác.

Lữ Thất tiên sinh co giật mấy cái, khẽ rên mấy tiếng rồi nằm bất động. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tiên sinh đừng vội vã, cứ ở đây mà đợi.” Rồi nàng dùng chân hất xác lão vào phía sau giường.

Hà Hồng Dược vô cùng kinh ngạc, cất tiếng hỏi: “Giáo chủ! Không phải chúng ta cùng lo việc cho Tào công công hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Ngũ Tiên Giáo chúng ta xưa nay độc lai độc vãng, đâu thể để bọn thái giám quát tháo chạy tới chạy lui?”

Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy.”

Mụ thấy giáo chủ gặp đại sự mà đột nhiên thay đổi ý kiến, dĩ nhiên phải thắc mắc, nhưng mụ chỉ muốn gấp rút điều tra thân thế Thanh Thanh. Âm mưu thoán vị tuy là đại sự, nhưng mụ không thèm để ý, coi như việc nhỏ.

Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nắm tay nhau trốn dưới gầm giường, trông rất thân mật. Nàng không nén nổi cơn giận, chửi bới ra miệng: “Các ngươi lén lút như vậy, tưởng ta không biết gì hay sao?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Lén lút gì vậy?”

Thanh Thanh la toáng lên: “Các người bức hiếp ta, bức hiếp một kẻ khổ sở không cha không mẹ. Các người thật là vô lương tâm, đáng bị chết yểu.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Không biết Thanh đệ chửi ai?” Còn Uyển Nhi là nữ nhân tinh tế hơn, đã thấy Thanh Thanh nghi ngờ ganh tỵ với mình từ lâu rồi nên nghe là hiểu ngay. Lúc này nàng nghe Thanh Thanh chửi này mắng nọ, không nén nổi tức giận, bất giác thân hình hơi run rẩy.

Viên Thừa Chí cũng hiểu tâm ý nàng, nhưng tình thế không sao giải thích được, chỉ còn cách vỗ nhẹ lên vai để tỏ lòng an ủi.

Hà Hồng Dược bỗng gằn giọng: “Con bé kia! Ngươi đã lọt vào tay ta rồi, đâu thể nguyên vẹn ra về? Gia gia ngươi đâu? Mụ đê tiện sinh ra ngươi đâu?”

Thanh Thanh đang giận, lại nghe mụ sỉ nhục mẹ mình, không sao nhẫn nại được nữa. Nàng vớ lấy chén thuốc đang để ở đầu giường, quẳng vào mặt mụ. Hà Hồng Dược nghiêng người né tránh, cái chén đập vào tường nghe choang một tiếng, nhưng trên mặt vẫn bị không ít nước thuốc nóng bỏng văng trúng. Mụ giận dữ hét lên: “Con tiện tì kia! Chán sống rồi ư?”

Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường tập trung quan sát, thấy hai chân của Hà Hồng Dược rùn xuống, chuẩn bị nhảy xổ tới Thanh Thanh. Chàng bèn thủ thế, đợi mụ nhảy đến gần là lập tức tấn công vào hạ bàn. Đột nhiên có bóng trắng thoáng qua, giữa hai chân Hà Hồng Dược và chiếc giường đã có chân Hà Thiết Thủ cản trở.

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Cô cô! Ta đã hứa với họ Viên, phải đưa cô nương này về. Cô cô đừng để ta thất tín.”

Hà Hồng Dược cười nhạt, hỏi: “Sao phải làm thế?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Rất nhiều người chúng ta đã bị điểm huyệt, không thể không nhờ họ Viên giải cứu.”

Hà Hồng Dược suy nghĩ một lúc rồi nói: “Được! Không giết con bé này cũng được, nhưng phải cho nó nếm chút ít cực khổ. Ta phải hủy hoại dung mạo nó, móc một con mắt nó ra. Này! Con bé họ Hạ kia! Ngươi thấy ta có xinh đẹp không?”

Thanh Thanh la lên một tiếng. Nghe tiếng la sợ hãi, cũng biết khuôn mặt xấu xí của Hà Hồng Dược lúc này trông càng đáng sợ, đang kề sát vào mặt nàng.

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Cô cô hà tất phải làm cô ấy hoảng sợ.”

Hà Hồng Dược ra vẻ không vui, nói: “Đúng rồi! Giáo chủ bảo vệ nó là muốn lấy lòng gã họ Viên. Thật là sai lầm rất lớn.”

Hà Thiết Thủ giận dữ hỏi: “Cô cô nói gì?”

Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Giáo chủ nhìn kỹ xem, giáo chủ đẹp hơn hay con bé này đẹp hơn?”

Tuy Thanh Thanh đang vận nam trang, nhưng mắt phượng mày ngài, môi đỏ như trái anh đào, hai má rất trắng, nhan sắc vẫn thu hút người ta. Hà Thiết Thủ nói: “Cô nương này xinh đẹp lắm. Cô cô! Ta không kém bao nhiêu đấy chứ?”

Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ muốn lấy gã họ Viên, thì lấy lòng con bé này chỉ vô dụng. Phá hủy dung mạo nó là hơn.”

Hà Thiết Thủ gắt: “Ăn nói bừa bãi! Ai bảo ta muốn lấy họ Viên?”

Hà Hồng Dược nói: “Tâm sự của những cô nương trẻ, giáo chủ tưởng ta không biết hay sao? Ta cũng từng trẻ như vậy. Giáo chủ xem đi, đây là ta ngày trước.”

Nghe những tiếng sột soạt, hình như mụ đang lôi trong bọc ra vật gì đó. Hà Thiết Thủ cùng Thanh Thanh đều khẽ la lên một tiếng, nửa như kinh ngạc, nửa lại tán dương.

Hà Hồng Dược cười khổ rồi nói: “Các người ngạc nhiên phải không? Hà hà, ta đã từng xinh đẹp như thế.”

Mụ quẳng vật đó xuống. Thì ra đó là một bức tranh vẽ trên lụa.

Viên Thừa Chí từ dưới gầm giường nhìn ra, thấy tấm lụa đó vẽ một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, hai má ửng hồng, mặc trang phục đầy màu sắc của tộc Bài Di, đầu quấn khăn trắng, dung mạo diễm lệ, nhìn cặp lông mày có mấy phần giống Hà Hồng Dược. Nhưng nếu nói đây là hình ảnh trong quá khứ của mụ già xấu xí này, thì thật khó mà tin được.

Lát sau, nghe Hà Hồng Dược vừa cười nấc lên vừa nói: “Tại sao bây giờ ta lại trông như xú bát quái? Tại sao, tại sao…? Đó là do thằng cha không có lương tâm của ngươi.”

Thanh Thanh cãi: “Này, gia gia ta thì liên quan gì đến bà? Ông ấy là người tốt, nhất định không có lỗi với ai.”

Hà Hồng Dược giận dữ nói: “Con bé này lúc đó chưa chào đời, làm sao biết được? Nếu hắn có lương tâm, thì ta không biến thành bộ dạng thế này, thì không có ngươi sinh ra trên đời.”

Thanh Thanh nói: “Bà càng nói càng ly kỳ cổ quái. Ngũ Độc Giáo các ngươi ở Vân Nam, còn gia gia và má má ta kết tình ở Chiết Giang. Hai nơi cách nhau không tới một vạn cũng tám ngàn dặm, làm sao liên can được?”

Hà Hồng Dược cả giận, vung quyền toan đập vào mặt nàng. Hà Thiết Thủ vội đưa tay ra cản, khuyên can: “Cô cô đừng nổi giận, có gì cứ nói từ từ.”

Hà Hồng Dược hét lên: “Gia gia của giáo chủ bị chính tên Kim Xà Lang Quân này trêu tức mà chết. Bây giờ giáo chủ lại ra sức bảo vệ con bé này, có biết xấu hổ không?”

Hà Thiết Thủ giận dữ nói: “Ai bảo vệ cô ấy? Nhưng nếu cô cô đánh cô ấy bị thương, tức là làm hại bốn mươi mấy mạng người trong giáo. Ta nghĩ cô cô là trưởng bối, đã nể mặt ba phần, nhưng nếu phạm giáo quy thì ta không thể dung tình nữa.”

Hà Hồng Dược thấy nàng dùng thân phận giáo chủ ra oai, bèn ủ rũ ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu. Hồi lâu, mụ mới xuống giọng hỏi Thanh Thanh: “Mẹ ngươi đâu? Mẹ ngươi chắc phải đẹp tuyệt trần, là hồ ly tinh xứ Giang Nam mới mê hoặc được cha ngươi phải không?”

Mụ thở ra một hơi rồi tiếp: “Ta đã vô số lần nằm mơ thấy mẹ của ngươi, nhưng tướng mạo ả lúc nào cũng mơ mơ hồ hồ, không sao nhìn rõ. Ta thật sự muốn gặp ả. Ả có giống ngươi không?”

Thanh Thanh thở dài đáp: “Mẹ ta đã chết rồi.”

Hà Hồng Dược giật mình hỏi: “Chết rồi ư?”

Thanh Thanh hỏi lại: “Chết rồi thì sao? Bà vui lắm phải không?”

Hà Hồng Dược nghiến răng nghe rất thê thảm. Mụ nói rõ từng tiếng một: “Ta từng bức hỏi hắn, mẹ ngươi ở nơi nào, nhưng hắn quyết không chịu nói, thì ra đã chết rồi. Đúng là trời không có mắt, mối thù này ta không thể trả. Lần này phải thả ngươi về, nhưng sẽ có lúc ngươi lọt vào tay ta lần nữa… Mẹ ngươi có giống ngươi không?”

Thanh Thanh tức giận mụ buông lời vô lễ, bèn xoay người quay mặt vào giường, không lý gì đến mụ nữa.

Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ! Phải bắt thằng lỏi họ Viên chữa trị những người chúng ta trước, rồi mới thả con tiện tì này ra.”

Hà Thiết Thủ đáp: “Chuyện này không cần phải nói.”

Hà Hồng Dược đứng dậy đi ra phía cửa. Viên Thừa Chí thấy rõ đôi chân mụ sắp bước qua ngạch cửa, đột nhiên khựng lại, rồi quay người nói: “Gia gia con tiện nhân này đang ở đâu, ta nhất định phải hỏi rõ ràng.”

Hà Thiết Thủ nói: “Dĩ nhiên, nhưng… nhưng chúng ta không thể thất tín.”

Hà Hồng Dược nói: “Sao giáo chủ lại bảo vệ con tiện nhân này? Chắc là giáo chủ muốn lấy cảm tình thằng lỏi họ Viên kia. Để ta dạy cho giáo chủ biết xử sự hơn. Nếu giáo chủ muốn họ Viên thích mình, thì phải để ta giết con tiện nhân này. Ngô công muốn làm vua các loài độc vật thì phải cắn chết thanh xà trước, đã hiểu chưa con bé ngu ngốc kia?”

Mụ nổi giận đùng đùng, quay lại ngồi phịch xuống ghế. Trong phòng lúc này im lặng không có tiếng nói, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi càng không dám thở mạnh.

Thanh Thanh đột nhiên vỗ mạnh lên giường, kêu la: “Sao các người chưa chịu ra đây? Đang làm gì đấy?”

Uyển Nhi kinh hãi, muốn bò ra ngoài, nhưng Viên Thừa Chí nắm chặt cổ tay nàng giữ lại.

Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược khuyên Hà Thiết Thủ giết mình để được Viên Thừa Chí yêu, mỗi lúc một tức giận hơn. Hai tay nàng nắm thành nắm đấm, đập loạn trên ván giường, bụi bặm rơi mù xuống gầm giường. Viên Thừa Chí suýt nữa hắt hơi, phải cố điều hòa hơi thở mới nén lại được.

Thanh Thanh nghĩ: “Chỉ có Hà Thiết Thủ và mụ ăn mày, làm gì thắng nổi đại ca? Sao phải tránh mặt chứ? Hai người nằm dưới gầm giường đang làm chuyện gì?”

Thì ra Viên Thừa Chí đang nghĩ tới âm mưu của Tào Hóa Thuần hành thích hoàng đế, lập vua khác để rước quân Thanh vào. Tuy Hà Thiết Thủ đã hứa ngăn cản âm mưu này, nhưng loại độc nữ tà giáo thì lời hứa chưa chắc đáng tin; mà cũng có thể gian mưu sẽ biến đổi gì khác, không lường trước được. Việc này liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, muốn tuyệt đối không sơ suất thì phải kiên nhẫn giấu mình, nghe cho rõ ràng rành mạch. Dĩ nhiên Thanh Thanh không hiểu được nguyên do, nên cơn ghen giận mới bốc lên không sao kìm nổi.

Hà Hồng Dược bỗng hỏi Hà Thiết Thủ: “Cô là giáo chủ, đại sự trong giáo do cô chấp chưởng. Kim câu của giáo tổ đã truyền cho cô, thì cô có toàn quyền sinh sát. Nhưng những chuyện thê thảm mà ta gặp phải, không đủ khiến cô kinh tâm động phách mà rút ra bài học hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Lúc nào ta cũng lấy đại sự của bản giáo làm trọng, ai thèm để ý họ Viên kia?”

Hà Hồng Dược thở dài rồi nói: “Lúc động thủ với gã họ Viên, giáo chủ cứ liếc mắt đong đưa, giọng nói dịu dàng khêu gợi, không phải liều mạng sinh tử mà giống tình nhân tâm sự. Hai bên nói chuyện tình cảm như thế, ai thấy cũng phải phát tức lên.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Cô cô! Rốt cuộc thì Kim Xà Lang Quân có lỗi gì mà cô cô phải hận đến thế?”

Hà Hồng Dược lại la lên: “Kim Xà Lang Quân ở đâu? Ta muốn gặp hắn. Này, con tiện tì kia, ngươi có nói không? Nói ra, ta lập tức thả ngươi ngay.” Mấy câu này đương nhiên là nói với Thanh Thanh, nhưng Thanh Thanh vẫn quay mặt vào trong tường, mặc kệ mụ.

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô hãy nói Kim Xà Lang Quân từng có lỗi với cô cô như thế nào. Hạ cô nương là người biết phân biệt thị phi, sẽ tự nguyện dẫn cô cô đi gặp cha mình. Dù sao thì mẹ cô ấy cũng chết rồi. Đôi tình nhân tuổi già sum họp, chẳng phải chuyện tốt hay sao?”

Thanh Thanh quay mặt lại cãi: “Chỉ nói bừa! Phụ thân ta đã tuấn tú lại là đại anh hùng hào kiệt, làm sao thích được mụ già xấu xí này?”

Hà Hồng Dược nói một cách dịu dàng: “Trước đây ta không phải mụ già xấu xí đâu nhé. Gia gia cô bây giờ ở đâu? Ta muốn đi gặp hắn, không phải vì muốn hắn yêu thương mụ già xấu xí này, mà muốn hỏi một câu: Hắn tàn hại cuộc đời của ta rồi, trong lòng có thoải mái hay không. Hạ cô nương! Ta muốn kể cho cô nghe, tại sao ta quen biết cha cô, và hắn đã đối xử với ta như thế nào. Chỉ cần một chữ nửa câu giả dối, ta sẽ chịu thêm lần nữa hình phạt ngàn vạn con rắn cắn vào thân thể. Hy vọng cô hiểu được đúng sai, đối với mụ già xấu xí này sẽ có ba phần trắc ẩn. Bây giờ cô đang nằm trong tay ta, lẽ ra ta không cần cầu xin cô làm gì. Nhưng ta muốn cô hiểu rõ, Ngũ Tiên Giáo chúng ta tuy không việc ác nào không làm, giết người không run tay, nhưng về tình yêu nam nữ thì tuyệt đối không vong ân phụ nghĩa. Nếu không, hoàng thiên đã không cho Ngũ Tiên Giáo hưng vượng đến mãi hôm nay.”

Thanh Thanh nói: “Ta không thích nghe.” Nói xong, nàng thò tay kéo tấm chăn trùm kín đầu, ra vẻ không thèm nghe chuyện của Hà Hồng Dược. Nhưng cuối cùng nàng không nén nổi hiếu kỳ, lại kéo hở một góc chăn ra, nghe mụ kể chuyện cha mình năm trước.

Hà Hồng Dược không biết chuyện Hà Thiết Thủ muốn bái Viên Thừa Chí làm sư phụ để học võ công thượng thừa. Mụ lấy bụng ta so bụng người, cứ tưởng Hà Thiết Thủ đã phải lòng Viên Thừa Chí, chuyện này mụ thấy không nên. Hai mươi năm mụ tìm kiếm Hạ lang nhưng không sao gặp được, cuối cùng chỉ nhìn thấy con gái người yêu. Đó là một chút cơ hội mong manh duy nhất, mụ không nén nổi nôn nóng. Dù sao Tào thái giám cũng bắt mọi người đợi thêm một giờ, nên mụ quyết định kể lại thân thế của mình cho cô cháu gái nghe mà học hỏi, cho Thanh Thanh nghe mà động lòng, dẫn mình đi gặp cha cô ấy.

Mụ quay lại nhìn Hà Thiết Thủ, chậm rãi kể: “Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi. Lúc đó ta chưa lớn bằng cô bây giờ. Gia gia của cô vừa nhận chức giáo chủ, phái ta làm trang chủ Vạn Diệu Sơn Trang, trông coi những hầm nuôi rắn. Một hôm rảnh rỗi không có việc gì làm, ta liền ra sau núi để bắt chim chơi.”

Hà Thiết Thủ hỏi xen vào: “Cô cô đã làm trang chủ mà vẫn đi bắt chim về chơi hay sao?”

Hà Hồng Dược hứ một tiếng rồi nói: “Ta đã nói rồi, lúc đó ta còn rất trẻ, có thể nói là một con bé hơi to xác. Ta bắt được hai con thúy điểu, hớn hở quay về. Đi ngang một hầm rắn, đột nhiên nghe thấy trong lùm cây có tiếng sột soạt, biết có rắn chạy trốn ra ngoài, ta liền hướng theo tiếng động mà tìm, quả nhiên thấy một con ngũ hoa xà đang trườn ra ngoài. Ta rất ngạc nhiên. Lũ rắn của chúng ta rất ngoan ngoãn, xưa nay chẳng bao giờ chạy trốn, không biết con ngũ hoa xà này chuồn ra ngoài để làm gì? Vì thế ta không bắt nó lại ngay, cứ theo dõi xem sao. Cuối cùng con ngũ hoa xà đó bò ra sau lùm cây, chạy thẳng về hướng một người. Ta ngẩng mặt lên nhìn, trong lòng bỗng nhói lên một cái. Đó chính là oan nghiệp kiếp trước của ta, chính là tên ma đầu tàn hại đời ta.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Đó là Kim Xà Lang Quân phải không?”

Hà Hồng Dược nói: “Lúc đó ta không biết hắn là ai, chỉ thấy hắn mặt mày thanh tú, là một thiếu niên người Hán đẹp trai, tay cầm một bó nhang quấn bằng lá ngải để dụ rắn. Thì ra ngũ hoa xà ngửi thấy mùi hương, bị hắn dụ ra ngoài. Nhìn thấy ta, hắn mỉm cười một cái.”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Lúc đó chắc cô cô đẹp lắm, hắn nhìn là mê tít ngay.”

Hà Hồng Dược hứ một tiếng, nói tiếp: “Ta đang nói chuyện đàng hoàng, cô đừng quấy rối. Lúc đó ta thấy hắn là người lạ, sợ hắn bị rắn cắn, bèn nói: Này, con rắn đó có độc. Huynh đừng động đậy, để ta đến bắt. Hắn lại mỉm cười, lấy trên lưng xuống một chiếc thùng gỗ, đặt dưới đất. Trên một góc thùng có sợi dây rất mảnh, buộc một con cóc sống vẫn đang nhảy nhót. Dĩ nhiên ngũ hoa xà muốn bắt con cóc này, bèn từ từ bò lên cái thùng gỗ đó. Nó đang vươn cổ định mổ, thì thiếu niên đó giật sợi dây, nắp thùng lập tức sập xuống. Ngũ hoa xà khoanh tròn lại, giấu bớt thân thể, nhưng thiếu niên đó lập tức thò tay trái vào trong, dùng hai ngón tay kẹp chặt cổ nó. Thủ pháp của hắn khác với chúng ta, nhưng bộ vị kẹp cổ con rắn hoàn toàn không sai lệch, ngũ hoa xà không sao động đậy nữa. Biết hắn cũng thạo nghề này, lúc đó ta mới yên tâm.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Úi chà! Cô cô mới gặp người ta mà đã quan tâm đến thế rồi ư?”

Thanh Thanh ngắt lời: “Này! Cô đừng cản trở bà ấy được không? Để bà ấy kể tiếp đi.”

Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Cô nương nói không thích nghe mà?”

Thanh Thanh hỏi lại: “Bây giờ ta thích nghe, không được hay sao?”

Hà Thiết Thủ vừa cười vừa đáp: “Được, được! Ta không cản trở nữa.”

Hà Hồng Dược liếc nàng một cái, kể tiếp: “Lúc đó ta bỗng nghi ngờ: Người này là ai? Sao cả gan tới bắt rắn của chúng ta? Chẳng lẽ không biết oai danh của Ngũ Tiên Giáo hay sao? Sau đó hắn dùng tay phải lấy ra một thanh sắt ngắn, đưa đến bên miệng con ngũ hoa xà, nó há miệng đớp ngay. Ta chạy đến gần xem kỹ, thì ra thanh sắt này rỗng ở giữa. Nọc độc trong miệng ngũ hoa xà không ngớt chảy ra, bị hứng vào trong ống sắt. Bây giờ ta mới biết, thì ra hắn đến đây để ăn cắp nọc rắn. Chẳng trách mấy hôm nay trong hầm rắn có nhiều con không chịu ăn uống, gầy ốm phờ phạc hẳn đi. Ta kêu lên: Này, mau thả nó xuống!, đồng thời lấy cây sáo dụ rắn ra thổi. Hắn nghe âm thanh kỳ lạ, vừa ngẩng lên nhìn là bị con ngũ hoa xà quay lại mổ trúng đầu ngón tay. Hắn lập tức quẳng con ngũ hoa xà ra xa, định mở rương lấy thuốc giải. Ta liền quát: Ngươi giỏi lắm! rồi nhảy xổ vào. Nào ngờ võ công của hắn cực cao, chỉ khẽ kéo một cái đã hất ta té xuống.”

Thanh Thanh nói xen vào: “Dĩ nhiên bà không phải là đối thủ của ông ấy.”

Hà Hồng Dược lườm một cái, lại nói: “Nhưng độc tính của ngũ hoa xà lợi hại phi thường. Hắn chưa kịp lấy thuốc giải ra, chất độc đã phát tác, ngất xỉu ngay tại chỗ. Ta chạy đến nhìn, đột nhiên trong lòng có phần không nỡ, nghĩ bụng: Người còn trẻ như vậy đã mất mạng, thật là đáng tiếc. Huống chi lại giỏi võ công đến thế.”

Hà Thiết Thủ thêm vào: “Huống chi lại đẹp trai đến thế. Sau đó cô cô đưa hắn về giấu ở trong trang, lấy thuốc giải độc cho. Đến khi vết thương lành hẳn thì cô cô đem lòng yêu hắn, có phải vậy không?”

Hà Hồng Dược than thở: “Hắn chưa lành vết thương, ta đã trao trái tim mình cho hắn rồi. Lúc ấy rất nhiều sư huynh đệ trong giáo có hảo ý với ta, nhưng không biết tại sao ta đều không coi họ ra gì. Còn đối với người này thì ta thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được. Ba ngày sau, chất độc trong người hắn đã giảm nhiều, ta đem cho thức ăn thức uống, nuôi nấng mấy ngày. Ta hỏi hắn đến đây để làm gì. Hắn nói, ta đã cứu mạng hắn nên không giấu làm chi. Hắn họ Hạ, là người Hán ở Giang Nam, đang gánh một mối huyết hải thâm thù. Đối thủ công phu rất cao, người đông thế mạnh, không biết làm sao trả được mối thù. Nghe nói Ngũ Tiên Giáo nghiên cứu độc dược giỏi nhất thiên hạ, nên hắn tìm đến Vân Nam để học công phu này…”

Nghe đến đây, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới hiểu Kim Xà Lang Quân và Ngũ Độc Giáo đã quen biết nhau như thế. Ông lấy trộm nọc rắn, dĩ nhiên là để đối phó với nhà họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái.

Hà Hồng Dược kể tiếp: “Hắn nói đã âm thầm dò xét từ lâu, học được mấy cách chế luyện thuốc độc, nên mới lén đến hầm rắn của chúng ta, ăn cắp nọc của độc xà để tẩm lên ám khí, đối phó với kẻ thù. Hai ngày sau thì vết thương của hắn khỏi hẳn, ngỏ lời đa tạ ta rồi xin cáo biệt. Lòng ta đương nhiên không nỡ, tặng hắn hai bình nọc rắn, hắn bèn vẽ cho ta bức chân dung này. Ta hỏi chuyện trả thù có khó lắm không, có cần ta giúp đỡ không. Hắn chỉ mỉm cười, nói rằng công phu của ta còn quá kém, không thể giúp được. Ta bảo hắn, trả thù xong nhớ đến thăm ta, hắn gật đầu đồng ý. Ta hỏi chừng nào đến, hắn đáp là rất khó nói. Muốn trả thù, hắn còn thiếu một món lợi khí. Nghe nói ở phái Nga Mi có một thanh bảo kiếm trấn sơn, hắn muốn tới núi Nga Mi ở Tứ Xuyên để lấy cắp. Nhưng không biết thật sự có thanh kiếm đó không, dù có thì trộm được hay không, bao giờ, không thể tính trước.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Kim Xà Lang Quân đúng là bất kể tất cả, để trả được thù thì chuyện gì cũng dám làm.”

Hà Hồng Dược thở dài, tiếp: “Khi đó ta cứ mơ màng, chỉ mong hắn ở lại với mình thêm mấy ngày. Ta như phát điên phát rồ, việc gì cũng không sợ, biết rõ việc không nên làm mà cũng nhịn không nổi phải làm. Ta cảm thấy càng mạo hiểm vì hắn thì trong lòng càng vui vẻ, dù chết vì hắn cũng là cam tâm tình nguyện. Ôi! Khi đó như bị ma quỷ mê hoặc, ta nói với hắn là biết một thanh bảo kiếm sắc bén vô cùng, binh khí gì cũng chém đứt được. Hắn vui mừng đến nhảy dựng lên, vội hỏi ở đâu. Ta đáp, đó chính là Kim Xà Kiếm, đời đời lưu truyền trong Ngũ Tiên Giáo chúng ta.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây bỗng động lòng, bất giác đưa tay sờ lại thanh Kim Xà Kiếm đang giấu bên mình. Hà Thiết Thủ từng nói, Kim Xà Kiếm là của Ngũ Tiên Giáo. Lúc đó đang đánh nhau kịch liệt, chàng tưởng đối thủ buột miệng nói bừa, thì ra thanh kiếm này có liên quan đến Ngũ Tiên Giáo thật.

Hà Hồng Dược lại tiếp: “Ta nói với hắn, thanh kiếm này là một trong tam bảo của Ngũ Tiên Giáo, cất trong Độc Long Động trên núi tuyết Ngọc Long, phủ Lệ Giang, tỉnh Vân Nam. Đó là thánh địa của Ngũ Tiên Giáo, ngoài động canh giữ vô cùng nghiêm mật. Hắn khẩn khoản nhờ ta dẫn đi trộm kiếm, hứa chỉ mượn dùng một tí, trả thù xong nhất định sẽ trả lại. Hắn cầu xin không dứt, cuối cùng ta mềm lòng ưng thuận. Ta bèn ăn cắp lệnh bài của ca ca, dẫn hắn đến Độc Long Động. Quân canh thấy lệnh bài, lại thấy ta dẫn hắn đi, nên để chúng ta vào động.”

Hà Thiết Thủ ngạc nhiên hỏi: “Cô cô! Chẳng lẽ cô cô dám mặc quần áo đi vào Độc Long Động?”

Hà Hồng Dược đáp: “Dĩ nhiên ta không dám…”

Thanh Thanh hỏi xen vào: “Tại sao vào Độc Long Động lại không dám mặc… mặc quần áo?”

Hà Hồng Dược hừ một tiếng, không đáp. Hà Thiết Thủ nói: “Trong Độc Long Động có nuôi hàng ngàn hàng vạn con Hạt Đính Xà. Khi vào động mà trên người có chỗ không thoa xà dược, bị cắn một miếng thì chẳng ai chịu nổi. Hạt Đính Xà là loại dị chủng, độc nhất thế gian, bị đớp là mất mạng trong vòng ba bước. Vì thế những ai vào động đều phải cởi hết y phục, để thoa xà dược toàn thân.”

Thanh Thanh hổ thẹn nói: “Trời ơi! Ngũ Độc Giáo các ngươi thật là… thật là…”

Hà Hồng Dược hỏi: “Thật gì mà thật? Không thế thì không thể đi vào Độc Long Động. Vì thế ta trút hết y phục, thoa xà dược đầy người, bảo hắn cũng làm thế. Hắn không thoa được kín lưng, ta bèn thoa hộ. Ôi! Nam nữ thiếu niên lõa thể, ở trong sơn động thoa thuốc cho nhau, còn giữ gìn gì được nữa? Hơn nữa, ta đã phải lòng hắn trước rồi, bèn trao tấm thân này cho hắn.”

Thanh Thanh nghe mà hai má đỏ bừng, đột nhiên nghĩ đến hai người đang nằm dưới gầm giường. Nàng lập tức quơ tay quơ chân nện ầm ầm xuống ván giường.

Hà Thiết Thủ vội khuyên: “Đó là chuyện ngày xửa ngày xưa rồi, cô nương đừng giận dữ nữa.”

Thanh Thanh quát lên: “Ta ghét nhất là loại người không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí cảm thấy thân hình mềm mại của Uyển Nhi đang tựa vào lòng mình lúc này từ từ nóng rực lên. Chàng bỗng nghĩ: “Uyển Nhi đối với mình rất dịu dàng chiều chuộng, khác hẳn Thanh đệ chỉ chút xíu là nổi nóng rồi. Trời ơi! Tại sao lúc này mình suy nghĩ như vậy? Thật không biết làm sao.”

Uyển Nhi lại nghĩ: “Gia gia chết rồi, không còn ai chiếu cố, thương xót mình nữa. Chỗ dựa duy nhất trên đời, chính là tấm thân đang kề cận mình đây. Nhưng… nhưng… việc đó chắc không thành được.”

Hà Hồng Dược thở nhẹ một hơi, rồi tiếp: “Cô nương nói ta không biết xấu hổ, cũng không sai lắm. Nữ nhân Bài Di chúng ta không có nhiều quy luật thối tha như người Hán các ngươi. Ôi! Sau đó ta đẩy cánh cửa đá, dẫn hắn vào trong động. Thanh Kim Xà Kiếm và hai món bảo vật khác cùng để trong miệng của Thạch long. Hắn phi thân nhảy lên, rút thanh kiếm đó ra. Nào ngờ lòng dạ hắn không lương thiện, lấy nốt hai món báu vật kia. Đó là hai mươi bốn mũi Kim Xà Truy và một tấm bản đồ.”

Kể đến đây, mụ nhắm mắt như ngẫm nghĩ chuyện xưa, dừng lời chốc lát. Lát sau mụ thở hắt ra rồi kể tiếp: “Ta thấy hắn lấy hết ba món bảo vật, biết chuyện không hay rồi, nhất định bắt hắn đem Kim Xà Truy và tấm bản đồ trả lại vào miệng con rồng đá.”

Thanh Thanh đã biết đó là tấm bản đồ kho báu của Kiến Vân hoàng đế, nhưng giả vờ hỏi: “Bản đồ gì vậy? Phụ thân ta một lòng một dạ muốn trả thù, lấy tấm bản đồ cũ rích của Ngũ Độc Giáo có lợi ích gì?”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta cũng không biết là bản đồ gì, nhưng đã lưu truyền rất lâu trong bản giáo. Tên vô lương tâm đó không trả lời, chỉ nhìn ta cười cười, rồi đột nhiên ôm chầm lấy ta… Sau đó ta không trách mắng gì nữa. Hắn nói, trả thù xong nhất định sẽ quay lại trả ba món bảo vật này. Từ ngày hắn đi, ngày nào ta cũng nhớ đến hắn, nhưng hai năm liền không có chút xíu tin tức gì. Sau này giang hồ đồn đại, ở Giang Nam vừa xuất hiện một quái hiệp cầm thanh quái kiếm, rất giỏi dùng Kim Xà Truy đả thương người khác, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân. Ta biết nhất định là hắn, trong lòng cứ lo lắng, không biết hắn có trả được thù không. Chẳng bao lâu thì giáo chủ nghi ngờ, biết ba món bảo vật bị mất. Ông ấy điều tra, biết ta đã đưa người lạ vào trong động, nên bắt ta tự xử. Vì thế ta mới trở thành thế này.”

Thanh Thanh hỏi: “Sao bà lại xấu xí thế này?”

Hà Hồng Dược ra vẻ giận dữ, không chịu trả lời. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Lúc đó phụ thân ta làm giáo chủ, biết muội tử mình phạm phải tội này mà không có cách nào bảo vệ. Chiếu theo quy luật trong giáo, cô cô uống sẵn thuốc giải rồi nhảy vào trong hầm rắn, để hàng vạn con rắn cắn xé mình. Khuôn mặt cô cô trông như thế này, chính vì bị rắn cắn.”

Thanh Thanh không khỏi rùng mình. Lúc này nàng đã có phần thương cảm mụ ăn mày, bèn ấp úng nói: “Chuyện này… chuyện này… thật có lỗi với bà. Trước nay ta không biết…”

Hà Hồng Dược liếc xéo nàng, lại hừ một tiếng. Hà Thiết Thủ kể tiếp: “Sau khi dưỡng thương xong, cô cô phải ra ngoài ăn xin. Theo quy luật Ngũ Tiên Giáo chúng ta, người phạm trọng tội phải ăn xin mà sống trong vòng hai mươi năm, không được ăn cắp một đồng hay một hột cơm nào, cũng không được nhận những gì đồng đạo võ lâm trợ giúp.”

Thanh Thanh khẽ nói với Hà Hồng Dược: “Nếu gia gia đã hại bà như thế, đúng là ông ấy không tốt.”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta bị hàng ngàn hàng vạn con rắn cắn nát người, chịu phạt ăn xin hai chục năm, nhưng đó là cam tâm tình nguyện. Lúc dẫn hắn vào Độc Long Động, kết quả thế nào ta đã biết rồi, nên không thể trách là hắn hại ta. Ta trách là trách hắn ruồng bỏ ta. Lúc ấy ta vẫn một lòng một dạ, ăn xin suốt dọc đường đến Giang Nam để tìm hắn. Vào tới địa giới tỉnh Chiết Giang, nghe tin hắn đang giết người trả thù ở Cù Châu. Ta muốn gặp mặt, nhưng hắn thần xuất quỷ nhập, không sao gặp được. Đến khi gặp thì hắn đã bị người ta bắt giữ. Cô biết ai bắt hắn không?”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Là đám kẻ thù ở Cù Châu phải không?”

Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy! Chính là bốn ông lão họ Ôn mà cô vừa gặp.”

Hà Thiết Thủ và Thanh Thanh cùng kinh ngạc “À” một tiếng. Hà Thiết Thủ thì không ngờ Ôn Thị Tứ Lão liên quan đến việc này, Thanh Thanh thì không ngờ mấy ông ngoại đã đến Bắc Kinh.

Hà Hồng Dược tiếp: “Ta nhiều lần muốn hạ độc giết hết bọn chúng, nhưng chúng đề phòng hắn hạ độc nên nước uống, thức ăn, bất cứ cái gì cũng bắt hắn nếm thử trước, nên ta không có cách nào xuất thủ. Chúng áp giải hắn đi về phía bắc, sau này ta mới biết là muốn bắt hắn giao tấm bản đồ đó ra. Một lần ta tìm được cơ hội nói chuyện mấy câu, hắn bảo: Tất cả gân cốt kinh mạch toàn thân đã bị kẻ thù cắt đứt, ta đã trở thành phế nhân. Võ công đối thủ cao cường, một mình muội chắc chắn không chống đỡ được. Trước mắt chỉ có một con đường sống, là lừa chúng lên núi Hoa Sơn.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Ông ấy lên Hoa Sơn để làm gì?”

Hà Hồng Dược đáp: “Hắn nói, trong thiên hạ chỉ có một người cứu nổi hắn. Người đó là Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh tiền bối, chưởng môn phái Hoa Sơn.”

Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường nghe kể câu chuyện kinh tâm động phách, trong lòng nảy ra những tình cảm khó mà diễn tả được. Đối với những hành động của Kim Xà Lang Quân, chàng không biết nên đau lòng, luyến tiếc hay nên thương xót. Bây giờ nghe tên sư phụ, chàng càng chú ý lắng nghe. Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược nhắc đến sư phụ của Viên Thừa Chí, cũng đặc biệt chú ý.

Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta hỏi hắn: Mục Nhân Thanh là nhân vật thế nào? Hắn đáp: Đó là một vị đại hiệp có võ công cực cao. Tuy ta chưa từng gặp, nhưng đã biết người này rất chính trực và nghĩa khí, khi thấy ta bị hành hạ thế này, nhất định sẽ ra tay cứu giúp. Ngũ Hành Trận của Ôn Thị Ngũ Lão rất lợi hại, lại thêm đạo nhân phái Không Động trợ giúp, ngoài họ Mục ra thì không ai thắng nổi. Hắn bảo ta mau mau tìm đến Hoa Sơn, khóc lóc van xin Mục đại hiệp. Ta vâng dạ đi ngay, nhưng lên tới Hoa Sơn thì Mục đại hiệp không có ở nhà, chỉ để lại một người câm điếc. Ta dùng tay nói chuyện với y cả nửa ngày, vẫn không hiểu nổi Mục đại hiệp đi đâu và bao giờ trở về.”

Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Hỏi ông câm về hành tung của sư phụ mình, đúng là chuyện không dễ.”

Lại nghe Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta ở lại đỉnh núi Hoa Sơn mà đợi. Một hôm thấy trên vách núi có một sơn động rất lớn, trông có vẻ cổ quái, ta bèn dùng vỏ cây để thắt một sợi dây dài, buộc vào gốc một cây thông lớn, rồi trèo xuống mà xem. Trong động có một khe núi, giống như đường hẻm vậy. Đi vào trong lại có một sơn động khác, trông như một căn phòng. Đêm đó ta ngủ lại trong động. Ba ngày sau, năm lão già họ Ôn khiêng họ Hạ lên đỉnh núi, có hai tên đạo sĩ phái Không Động đi theo. Cha ngươi lừa gạt chúng, nói tấm bản đồ tàng bảo để trên đỉnh núi Hoa Sơn, nhưng không chịu nói rõ để chỗ nào. Năm người họ Ôn không ngớt dùng cực hình hành hạ, nhưng hắn cứ nói vòng vo. Năm tên kia nổi giận, nhưng bị tiền tài che cả mắt, sợ ra tay quá nặng làm chết hắn, lại sợ hắn dù chết cũng không chịu nói, rốt cuộc là sợ không đoạt được báu vật. Ta thừa lúc chúng cãi vã nhau tâm thần bất định, lén cho mấy thang thuốc bổ. Hai tên đạo sĩ thối tha phái Không Động vừa uống là hư hỏa bốc lên, bổ chết cả hai. Lão Tam và lão Tứ nhà họ Ôn cũng uống thuốc bổ, bổ đến nỗi tay chân tê liệt, không đi lại được…”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Tại sao uống thuốc bổ mà chết? Hừ, bà ta đâu có lòng tốt cho địch thủ uống thuốc bổ? Thuốc bổ cái gì, chắc chắn là thuốc độc rồi.”

Hà Hồng Dược hỏi rất nghiêm trang: “Hạ cô nương! Lúc này cô có khỏe không? Để ta hốt cho cô hai thang thập toàn đại bổ, giúp cô hồi phục.”

Thanh Thanh nói: “Muốn hạ độc giết ta à? Mau mau xuất thủ đi, nhưng sau khi ta chết thì đừng hòng gặp phụ thân ta nữa.” Nàng biết Hà Hồng Dược rất mong gặp mặt cha mình, nếu giết mình thì manh mối bị cắt đứt. Dù mạng nàng đang nằm trong tay mụ, nhưng quyết không cho mụ toại nguyện.

Hà Hồng Dược tiếp: “Ta thừa lúc chúng hoảng loạn lo lắng cho nhau, tìm cách cõng tên phụ tình đó ra ngoài, trốn vào nhà Mục Nhân Thanh. Họ Mục chưa về tới Hoa Sơn, nhưng năm lão tặc họ Ôn vẫn không dám vào nhà lục soát. Chúng cứ trách móc lẫn nhau, người này mắng người kia, người kia mắng người nọ, mắng mãi không thôi. Ta cùng hắn ở trong động mấy ngày, trong lòng hoan hỉ, nói sẽ cõng hắn đi Vân Nam, chung sống suốt đời. Nhưng hắn cứ thở dài ủ rũ, nói là gân cốt tay chân đã bị cắt hết, mối thù không trả được, từ nay không muốn làm người nữa. Chúng ta không có lương thực, nên không thể ở lại trên núi lâu ngày. Đoán chắc năm lão tặc họ Ôn đã đi truy đuổi chúng ta, ta bèn cõng tên vô lương tâm kia xuống núi, tới huyện Hoa Âm. Đêm đó ta lẻn vào một nhà phú hộ, trộm đi chút ít tiền bạc, rồi tìm một gian nhà nhỏ để ở lại đó.”

“Khi hắn khỏe hơn một tí, ta bắt đầu đi bắt rắn lấy nọc độc. Hắn cũng học công phu dụng độc để bồi bổ người khác, nói rằng: Phải bồi bổ cho năm tên giặc họ Ôn mất mạng, trả mối thù này. Hắn dụng tâm viết hai quyển sách, nhờ ta ngâm một quyển vào trong thuốc bổ, để sau này năm lão tặc kia bồi bổ cho khỏe khoắn. Hắn lấy tiền đi kết giao với một tay thợ bạc giỏi, mời uống rượu ăn cơm, trở thành bạn tốt. Sau đó hắn nhờ người thợ bạc đó làm hai chiếc hộp bằng sắt, một lớn một nhỏ, bên trong có gắn cơ quan, khi mở nắp sẽ bắn tên ra. Hắn đã nghĩ sẵn phương cách, chỉ vì gân cốt trên tay đã bị cắt đứt nên không có sức để làm. Người thợ bạc theo lời chỉ điểm mà thực hiện, chế ra hai chiếc hộp sắt và những mũi độc tiễn, thủ pháp thật là tinh tế. Ta hỏi họ Hạ: Hai chiếc hộp sắt này dùng để làm gì? Hắn đáp: Một trong hai chiếc dùng để cất bí kíp và bản đồ tàng bảo đã được ngâm tẩm thuốc bổ, để dụ năm tên giặc họ Ôn mở ra. Cho dù độc tiễn bắn chúng không chết, nhất định bí kíp và bản đồ sẽ giết được chúng. Hắn còn nói: Năm tên giặc họ Ôn đã hiếu võ lại tham tiền, nhưng võ công khá cao. Ngoài cách này ra, không còn cách nào trả được mối thù nữa.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây mới hiểu: “Kim Xà Lang Quân xếp bí kíp võ công và bản đồ vào trong hộp sắt có gắn cơ quan, là có mưu đồ sâu xa trả thù năm ông lão nhà họ Ôn. Không ngờ hộp sắt rơi vào tay mình, mà mình lại thoát khỏi đại nạn. Sống chết chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc, quả thật vô cùng may mắn.”

Hà Hồng Dược lại kể: “Hắn nói: Hai cái hộp sắt chứa hai loại bí kíp và bản đồ, một thật một giả, một độc một không. Sau khi trừ khử kẻ thù, không cần hại thêm những người vô tội nữa. Không biết hiện giờ hắn còn giữ cái hộp sắt đó không? Năm lão tặc họ Ôn bây giờ chỉ còn lại bốn. Sớm muộn gì ta cũng cho họ chút ít thuốc bổ, cắt lấy thủ cấp và tay chân chúng ra, đưa cho cha ngươi xem để hắn được an ủi chút ít.”

Thanh Thanh nói: “Chuyện này thì phải đa tạ bà.”

Hà Hồng Dược tiếp: “Mấy tháng sau, ta ở thị trấn Hoa Âm nhìn thấy Ôn gia ngũ tặc quay lại, nói là Kim Xà Lang Quân đã mất tích, mấy hôm nữa chúng sẽ trở lên núi Hoa Sơn để tìm manh mối. Ta về kể lại, hắn nói là đừng để mất cơ hội này. Hôm sau chúng ta mang theo hộp sắt và những quyển sách đã ngâm thuốc bổ lên núi Hoa Sơn, định ở đó mà chờ năm tên giặc kia. Chúng ta lại trú trong sơn động đó, lần này mang theo không ít lương khô, đủ sống hơn một tháng. Sắp xếp xong xuôi, trong lòng ta hoan hỉ, bèn khẽ hát mấy bài đồng dao của dân tộc Bài Di. Chắc hắn cảm ơn ta giúp đỡ, bèn giang tay ra ôm lấy. Trước đó ta biết khuôn mặt mình đã bị rắn cắn đến nỗi chẳng ai dám nhìn, nên không dám thân cận hắn. Bấy giờ trong đêm tối, hắn muốn gần gũi ta, dĩ nhiên ta để mặc. Nào ngờ ta đột nhiên ngửi thấy trên ngực hắn có mùi hương của nữ nhân, thò tay vào áo hắn thì lôi ra được một vật mềm mềm. Ta thắp mồi lửa lên, thấy đó là một cái túi nhỏ được tẩm hương thơm, thêu thùa rất tinh tế, đựng một món tóc nữ nhân và một cây kim thoa nhỏ. Ta tức đến run người, hỏi hắn đây là vật của ai. Hắn không chịu nói. Ta dọa, nếu hắn không nói thì ta không đi dụ năm tên giặc họ Ôn. Hắn cứ ngậm miệng, thần sắc rất cao ngạo. Bang chủ nhìn xem, thần sắc con bé này giống hệt cha nó năm xưa.”

Nói đến đây, giọng mụ như đẫm nước mắt. Đưa tay chỉ Thanh Thanh, mụ dừng lại một lúc mới nói tiếp được: “Ta chịu cực hình vì hắn, khổ sở vì hắn như thế, hắn lại nỡ ruồng bỏ ta, đi tìm người tình khác. Lúc đó ta chỉ muốn ép hắn nói ra, nhưng bỗng nghe thấy tiếng động nên phải ra ngoài thám thính. Thì ra Ôn thị ngũ tặc đã lên núi rồi. Chúng bàn bạc với nhau, nói Mục đại hiệp đã trở về núi, phải cẩn thận hơn. Mấy anh em họ Ôn tìm kiếm khắp nơi không thấy, lại đổ lỗi cho nhau. Năm người cãi cọ một hồi, nên bị Mục đại hiệp phát giác. Mục đại hiệp thi triển thần công khiến chúng hoảng sợ chạy xuống núi Hoa Sơn, rồi chính ông ấy cũng theo xuống núi.”

“Cả đêm hôm đó, ta cứ bắt tên vô lương tâm đó nói ra tên tuổi người tình. Nhưng hắn biết, nếu nói ra thì ta sẽ đi giết chết người trong mộng, mà võ công của hắn đã mất, không thể đến đó bảo vệ, nên cứ ngậm miệng không chịu trả lời. Ta giận dữ suốt ba ngày liền. Mỗi ngày ba lần sáng trưa tối, ta lấy roi gai quất hắn một chập.”

Thanh Thanh la lên: “Con mụ ác độc kia, dám hành hạ cha ta như thế!”

Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Cái đó kêu bằng tự làm tự chịu. Ta càng đánh dữ, hắn càng cười vang. Hắn nói, không phải vì ta bị rắn cắn làm hủy hoại nhan sắc nên hết yêu ta, mà trước nay chưa từng yêu ta thật sự. Lúc ở Độc Long Động, hắn chỉ chơi qua đường mà thôi. Cả đời hắn đã có không biết bao nhiêu nữ nhân, nhưng trong lòng hắn chỉ có một vị hôn thê. Hắn khoe, hôn thê của hắn diễm lệ, dịu dàng, ngây thơ, hơn ta gấp trăm lần. Hắn nói một câu, ta quất một roi. Ta quất một roi, hắn lại tán dương con tiện tì ấy một câu. Đánh mãi đến lúc toàn thân hắn không còn miếng da nào lành lặn, tiếng cười và những câu khen tặng vợ hắn vẫn chưa dừng.”

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Có mới nới cũ là việc rất bình thường trên thế gian. Làm người mà suốt đời không thay lòng đổi dạ, chỉ biết một nữ nhân thì hiếm lắm, vạn người chưa chắc có một. Vì thế người Hán bọn họ mới nói: Bảo vật dễ tìm, tình lang khó kiếm.”

Thanh Thanh không nhịn nổi, xen vào: “Chuyện nam nữ qua đường như phụ thân ta quả là thường gặp, nhưng vẫn là việc không nên. Người Hán chúng ta rất coi trọng tình nghĩa, nên mới có câu: Nhất dạ phu thê bách dạ ân. Bất luận nam hay nữ, vong ân phụ nghĩa chính là đê tiện. Không riêng gì người Bài Di các ngươi, người Hán chúng ta cũng coi có mới nới cũ là hành vi vô sỉ.”

Viên Thừa Chí đang dựa sát Uyển Nhi dưới gầm giường, nghe đến đây bỗng rùng mình một cái, lùi ra một tấc, da thịt hai người không tiếp xúc nhau nữa.

Uyển Nhi cũng động tâm nghĩ bụng: “Phen này mình vào cung là để báo đáp ân nghĩa của Viên tướng công, liều mạng giúp chàng tìm Hạ cô nương. Bây giờ cùng chàng trốn dưới gầm giường, chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chàng đột nhiên thân thiết với mình, không những mình là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn liên lụy chàng trở thành kẻ vong ân phụ nghĩa. Chàng là đại trượng phu lừng danh thiên hạ, mình nhất định không thể làm hỏng tiếng tăm của chàng.”

Nàng không nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy trán, bất giác lùi xa thêm mấy tấc. Lúc nãy hai khuôn mặt kề sát vào nhau, hơi thở hòa vào nhau, nhưng bây giờ đã cách xa rồi. Nghe tiếng Viên Thừa Chí thở nhẹ, Uyển Nhi nghĩ bụng: “Viên tướng công, xin lỗi nhé! Muội rất yêu tướng công, nhưng muội biết hai ta có duyên mà không có phận. Mong rằng kiếp sau sẽ được lấy tướng công.”

Nàng không biết, người lúc này Viên Thừa Chí nghĩ tới không phải là Uyển Nhi nằm bên cạnh, cũng không phải là Thanh Thanh nằm trên đầu, mà là A Cửu không biết đang ở đâu.

Hà Hồng Dược lên tiếng: “Ngươi cũng thông tình đạt lý, biết cha mình làm chuyện không tốt.”

Thanh Thanh giận dữ nói: “Vong ơn phụ nghĩa, không có lương tâm, dĩ nhiên là không tốt.”

Hà Hồng Dược gật đầu khen phải rồi kể tiếp: “Đến sáng ngày thứ ba, hai chúng ta đói đến kiệt sức. Ta phải ra ngoài hái trái cây. Khi quay về, hắn đã canh giữ ngoài cửa động, nói rằng ta chỉ cần bước vào một bước là cho ngay một kiếm. Hắn đã mất võ công, nhưng cầm Kim Xà bảo kiếm trên tay nên ta không dám xông vào. Ta nói, chỉ cần hắn cho biết tên tuổi và nơi ở của con tiện nhân kia thì ta sẽ bỏ qua những lỗi lầm của hắn đối với ta. Tuy hắn là phế nhân, ta vẫn có thể đối đãi đàng hoàng với hắn suốt đời. Hắn cười ha hả, nói rằng hắn yêu nữ nhân kia còn hơn yêu tính mạng của chính mình. Hai người cứ thế mà đối chọi, ta có thức ăn còn hắn phải nhịn đói.”

Hà Thiết Thủ buồn bã hỏi: “Cô cô để ông ấy chết đói ư?”

Hà Hồng Dược nói: “Ta không để hắn chết dễ dàng được. Mấy ngày sau, hắn đói đến mức không nhúc nhích được nữa. Ta tiến vào trong động, dùng roi quất cho hắn một trận nên thân.”

Thanh Thanh kinh hãi la lên, định nhảy xổ vào mụ, nhưng bị Hà Thiết Thủ khẽ đưa tay đè lên vai không cho động đậy. Hà Thiết Thủ lên tiếng khuyên ngăn: “Đừng nổi giận, nghe cô cô kể hết đã.”

Hà Hồng Dược lại kể: “Tuyệt đỉnh Hoa Sơn vô cùng nguy hiểm, người bị cắt hết gân cốt tay chân nhất định không thể trèo xuống. Vì thế ta yên tâm xuống núi, thám thính tin tức tình nhân của hắn. Ta muốn bắt con tiện tì đó, phá hủy dung mạo cho xấu hơn cả ta, rồi dẫn về cho hắn xem, coi thử hắn còn tán dương mụ, ca tụng mụ nữa không. Ta tìm mất nửa năm vẫn không có tin tức gì, trong lòng cứ lo Mục đại hiệp quay về núi, gặp hắn là hỏng bét. Ngày trước ta đã thấy họ Mục thi triển thần công xua đuổi bọn Kỳ Tiên Phái, thật sự cao thâm không lường nổi. Nếu tên phụ tình đó nhờ họ Mục trợ giúp, khi quay lại Hoa Sơn ta sẽ chịu nhiều đau khổ.”

“Khi ta trở về Hoa Sơn, thì không biết hắn đã đi đâu. Cửa vào sơn động đó đã bị phong kín, không thông gió nữa, nhất định hắn không còn trong đó. Ta tìm kiếm khắp nơi trên đỉnh Hoa Sơn mà chẳng thấy gì, không biết Mục đại hiệp đã cứu hắn, hay hắn tự bỏ đi đâu. Mười mấy năm nay, trên giang hồ không ai biết gì về hắn nữa. Ta hỏi khắp thiên nam địa bắc, đến nay vẫn không biết con người vô lương tâm đó còn sống hay đã chết.” Mụ còn buông lời độc địa thóa mạ một hồi.

Đến đây Viên Thừa Chí đã hiểu hết. Nhất định Kim Xà Lang Quân tự nhốt mình trong sơn động vì biết bọn ma đầu thù địch sẽ trở lại. Võ công của ông đã mất, hết đường chống đỡ. Ông tự biết mình bất nghĩa phụ tình, không muốn hạ mình cầu xin người khác, đành niêm phong cửa động, vào trong nằm chờ chết. Còn Hà Hồng Dược thì tưởng ông niêm phong cửa động rồi rời khỏi đó.

Bỗng nghe Hà Hồng Dược giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hừ, thì ra hắn đã tạo ra con nghiệt chủng này. Cha ngươi đang ở đâu? Vết thương của hắn có lành được không? Bây giờ hắn có vợ hay không? Ai đang chăm sóc hắn?”

Thanh Thanh đáp: “Ông ấy không có vợ, cũng không có ai chăm sóc, chỉ có một mình. Thật đáng thương!”

Hà Hồng Dược ủ rũ hỏi: “Hắn ở đâu? Ta phải đi tìm hắn.”

Hà Thiết Thủ khuyên ngăn: “Cô cô! Chúng ta còn nhiều đại sự, cô cô đừng vì ân oán riêng mình mà gây chuyện khắp nơi. Chuyện kết oán với Tiên Đô Phái, không phải do cô cô gây ra hay sao?”

Hà Hồng Dược nói: “Ai bảo lão giặc già Hoàng Mộc cứ khoe khoang bừa bãi, nói là quen biết Kim Xà Lang Quân? Ta nghe vậy, đương nhiên phải bắt về tra hỏi tung tích gã bạc tình kia.”

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô đã giam Hoàng Mộc đạo nhân nhiều năm như vậy, sử dụng vô số độc hình, thế mà đến nay ông ấy vẫn không nói, chắc là không biết thật. Chẳng lẽ cô cô định nhốt ông ấy tới chết hay sao?”

Thừa Chí và Uyển Nhi đều khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra chuyện xích mích giữa Tiên Đô Phái và Ngũ Độc Giáo xuất phát từ đây. Vậy là Hoàng Mộc đạo nhân chưa chết, chỉ bị nhốt thôi.”

Hà Hồng Dược đột nhiên la lớn: “Thằng lỏi họ Viên đang dùng Kim Xà Kiếm, lại dùng Kim Xà Truy phóng chết lũ chó. Thế thì tấm bản đồ chắc chắn cũng lọt vào tay hắn rồi. Nhất định chúng ta phải đoạt lại tam bảo từ con bé họ Hạ và thằng lỏi họ Viên. Thế thì ta dù chết cũng trả được món nợ cho liệt tổ liệt tông Ngũ Độc Giáo. Cô là giáo chủ, càng phải lo lập đại công cho bản giáo, không thì mọi người trong giáo sẽ phản lại cô. Gần đây họ đã đồn đại lung tung, ra vẻ không phục. Đây chính là cơ hội tốt để lấy lại uy tín.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười, không đáp. Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ ra đây, ta có chuyện cần nói với giáo chủ.”

Hà Thiết Thủ bảo: “Nói ở đây cũng vậy thôi.”

Hà Hồng Dược nói: “Không, chúng ta ra khỏi phòng đã.”

*

*   *

Hai người ra khỏi phòng, tiếng bước chân xa dần. Lúc đó Viên Thừa Chí và Uyển Nhi mới chui từ dưới gầm giường ra.

Thanh Thanh giận dữ nhìn Uyển Nhi, thấy đầu tóc bù xù, mặt dính đầy bụi. Nàng “hừ” một tiếng rồi hỏi: “Hai người nằm dưới đó làm trò gì vậy?”

Uyển Nhi ngơ ngác, hai má đỏ ửng lên, không nói được tiếng nào.

Viên Thừa Chí giục: “Thanh đệ đứng dậy nhanh lên, chúng ta mau mau trốn đi. Ở đây nguy hiểm lắm.”

Thanh Thanh giận dỗi nói: “Nguy hiểm cũng được, ta không đi.”

Viên Thừa Chí lo lắng hỏi: “Có gì thì khi về sẽ từ từ nói, sao lại mù quáng gây chuyện lúc này?”

Thanh Thanh giận dữ nói: “Đứa mù quáng này đang muốn gây chuyện đây.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cô này không hiểu lý lẽ. Tình thế vô cùng nguy cấp, chần chừ thì không những hết cách thoát thân, mà trong hoàng cung còn xảy ra đại biến.”

Chàng bèn dỗ: “Thanh đệ! Thanh đệ sao rồi?”, vừa dỗ dành vừa đưa tay kéo nàng dậy.

Thanh Thanh liếc qua một cái, thấy thần sắc Uyển Nhi có phần khó chịu. Nàng nghĩ, vừa rồi cô ấy nằm dưới gầm giường với Viên Thừa Chí lâu như thế, không biết thân mật đến mức nào rồi. Lại nghĩ, khi mình không ở bên Viên Thừa Chí, không biết hai người đã tâm sự những gì. Càng nghĩ càng tức, nàng đưa tay trái túm chặt tay Viên Thừa Chí kéo lại, tay phải cào cấu như điên.

Viên Thừa Chí không đề phòng, lưng bàn tay lập tức bị móng tay của nàng cào rướm bốn đường máu. Chàng giật tay về, ngạc nhiên hỏi: “Muội làm gì thế?”

Thanh Thanh la lên: “Ta làm như vậy đó!”

Nói xong, nàng kéo chăn trùm kín đầu. Viên Thừa Chí vừa bực mình vừa lo lắng, nhưng chỉ còn cách đứng đó giậm chân.

Uyển Nhi bỗng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công ở đây bảo vệ Hạ cô nương, tiểu muội ra ngoài một chút sẽ quay lại ngay.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Lúc này cô còn muốn đi đâu?”

Uyển Nhi không trả lời, đẩy cửa sổ nhảy ra ngoài. Viên Thừa Chí ngồi lên giường, khẽ kéo Thanh Thanh một cái. Nàng xoay phắt lưng lại, quay mặt vào trong tường. Viên Thừa Chí không biết làm gì, cũng không dám bỏ đi vì sợ nàng gặp nguy hiểm, đành vỗ nhẹ lên lưng Thanh Thanh an ủi.

Đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng động. Uyển Nhi và La Lập Như trước sau nhảy vào phòng. Thanh Thanh nằm trong chăn thò đầu ra, sắc mặt vẫn hầm hầm.

Uyển Nhi nghiêm trang nói với Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! May có tướng công giúp đỡ, muội đã trả được đại thù. Sáng sớm mai, muội sẽ trở về Mã Cốc Sơn. Phụ thân muội lúc sinh tiền rất khâm phục tướng công. Tướng công đã truyền độc tí đao pháp cho La sư ca, coi như sư phụ của huynh ấy. Vì thế hai người bọn muội có việc cầu xin tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Những chuyện này không gấp, chúng ta ra khỏi cung rồi nói tiếp.”

Uyển Nhi nói: “Không được! Ngay bây giờ bọn muội muốn nhờ tướng công làm chủ hôn, tác hợp cho muội và La sư ca thành phu phụ.”

Câu này vừa nói ra, chẳng những Viên Thừa Chí và Thanh Thanh giật mình, La Lập Như còn kinh ngạc hơn nhiều. Y ấp úng: “Sư… sư muội… sư muội nói gì?”

Uyển Nhi hỏi: “Sư ca không thích muội ư?”

Mặt La Lập Như đỏ hẳn lên, lại ấp úng: “Ta… ta… thích…”

Thanh Thanh vô cùng hoan hỉ, bao nhiêu bực dọc nghi ngờ lúc nãy trôi sạch, mỉm cười nói: “Hay lắm! Chúc mừng hai vị.”

Viên Thừa Chí biết Uyển Nhi đành lòng chịu lấy vị sư ca cụt tay là để tỏ ra hoàn toàn không nghĩ đến mình, phải vội vã như vậy là để lúc này Thanh Thanh khỏi nghi ngờ. Đây cũng là một hành động báo ân, chàng bất giác nảy lòng cảm kích.

Bây giờ Thanh Thanh mới hiểu ra dụng ý. Nàng cảm thấy áy náy, nắm tay Uyển Nhi mà nói: “Muội muội! Ta vô lễ rồi, muội đừng trách nhé.”

Uyển Nhi rơi nước mắt nói: “Làm sao muội dám trách tỉ tỉ?”

Nghĩ đến sự hy sinh mình vừa phải chịu, bất giác nàng nhìn sang Viên Thừa Chí một cái, lệ chảy thành dòng. Nước mắt Thanh Thanh cũng ứa ra.

Đột nhiên ngoài cửa lại có tiếng bước chân vọng tới, lần này phải bảy tám người. Viên Thừa Chí dùng tay ra hiệu, La Lập Như khẽ đẩy cửa sổ ra. Viên Thừa Chí vẫy tay bảo ba người thoát nhanh ra khỏi cung. La Lập Như lập tức nhảy qua cửa sổ, Uyển Nhi và Thanh Thanh nhảy theo sau.

Nghe giọng Hà Thiết Thủ hét lên: “Không ai được phép vào trong đó.”

“Bình” một tiếng, Hà Hồng Dược đã đá bật cửa phòng, nhảy xổ vào trong. Viên Thừa Chí bèn nhún chân một cái, nhảy ra ngoài cửa sổ. Hà Hồng Dược thoáng thấy lưng chàng, kêu lớn: “Nhanh lên, nhanh lên! Con bé kia chạy thoát rồi.”

Hà Thiết Thủ chạy vào trong phòng, thấy cửa sổ mở toang, trên giường trống rỗng, lập tức nhảy theo ra cửa sổ. Nàng nhìn kịp bóng người chạy vào lùm cây phía trước, liền chạy theo vào. Thật ra nàng đuổi theo là để hộ tống Thanh Thanh khỏi cung, sợ Thanh Thanh trúng độc thủ của thuộc hạ mình hay bị thị vệ đả thương thì mình có lỗi với Viên Thừa Chí, chuyện bái sư chắc chắn không được như ý muốn.

Hà Hồng Dược và đám giáo đồ Ngũ Độc Giáo còn lại cũng đuổi theo. Mọi người đuổi rất gắt, nhưng không lên tiếng hò hét vì sợ làm kinh động cấm cung. Lúc này Sấm quân gần tới kinh thành, trong kinh đã đại loạn. Thị vệ và thái giám đã chạy trốn không ít, số thái giám còn ở lại đều không giữ đúng chức phận nữa. Hoàng đế không thể làm chủ tình hình, tuy vẫn đưa ra những hiệu lệnh khoa trương, nhưng cung cấm không còn uy nghiêm như lúc bình thường. Mọi người rượt đuổi nhau trong cung, thế mà không ai phát giác.

Viên Thừa Chí thấy Hà Thiết Thủ dẫn thuộc hạ đuổi theo không chịu thả, nghĩ bụng: “Lúc này ba người Thanh Thanh chạy chưa xa lắm.” Vì thế chàng cứ không nhanh không chậm, dụ mọi người đuổi theo mình mấy vòng trong ngự hoa viên. Lát sau chàng cho rằng ba người Thanh Thanh đã rời khỏi hoàng cung, thấy trước mắt có một tòa cung điện, bèn lập tức chuồn vào bên trong. Vừa vào trong cửa đã cảm thấy hương thơm ập vào mũi. Chàng tiện tay đẩy một cánh cửa ra, nép vào sau cửa.

*

*   *

Định thần nhìn lại căn phòng này, bất giác Viên Thừa Chí đỏ mặt lên. Ở đây mùng màn chăn gối đều bằng gấm thêu đẹp đẽ, rèm châu mềm mại, sàn trải thảm màu vàng lông ngỗng có thêu một đóa hồng rất lớn. Trên bàn đặt bên cửa sổ có để rất nhiều thứ trang điểm thiếu nữ thường dùng, cách bài trí chỗ nào cũng tinh xảo. Xem ra đây là phòng ngủ của một vị phi tần.

Chàng biết trốn ở đây không ổn, đang muốn lùi ra đột nhiên nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân nhè nhẹ, rồi giọng thiếu nữ cười nói. Chàng nghĩ bụng: “Bây giờ mà chạy ra ngoài, nhất định sẽ bị bắt gặp. Nếu họ kêu cứu thì trong cung đại loạn, Tào Hóa Thuần sẽ tạm gác gian mưu lại, không chừng sẽ có mưu đồ gì khác mà mình không thể biết.” Chàng bèn nép mình nấp sau một tấm bình phong có vẽ một bức mỹ nhân đồ.

Cửa mở ra, bốn cung nữ đưa một cô gái vào phòng. Một cung nữ hỏi: “Công chúa nghỉ ngơi, hay đọc sách một lát nữa?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra đây là tẩm cung của công chúa. Chỉ mong nàng ngủ cho nhanh, đừng đọc sách gì hết.”

Công chúa ừ một tiếng, rồi ngồi lên giường. Thanh âm nàng phát ra thật là dịu dàng. Một cung nữ nói: “Đốt hương lên nhé?”

Công chúa lại ừ một tiếng. Chẳng bao lâu, làn khói mỏng nhẹ bay lên, hương thơm ngào ngạt khắp phòng. Viên Thừa Chí cảm thấy sảng khoái, nhưng lại có phần mệt mỏi.

Công chúa lên tiếng: “Đem bút mực ra đây, rồi các ngươi ra ngoài đi.”

Viên Thừa Chí hơi kinh ngạc, nghĩ thầm: “Giọng nói này quen thuộc, hình như là A Cửu. Ôi! Sao ta mãi tơ tưởng đến nàng chi vậy? Mỗi ngày mười bảy mười tám lần vẫn chưa đủ, thật quá hồ đồ.” Chàng bắt đầu sốt ruột, nghĩ: “Nếu bây giờ công chúa vẽ tranh, thì không biết đến bao giờ mới vẽ xong?”

Bọn cung nữ bày xong bút mực đan thanh, vấn an công chúa rồi thi lễ lùi ra hết. Lúc này trong phòng hoàn toàn im lặng, không có tiếng nói, chỉ có tiếng lách tách của gỗ đàn hương cháy trong lư. Thừa Chí lại càng không dám động đậy.

Bỗng nghe công chúa thở ra một hơi, rồi cất giọng ngâm thơ khe khẽ:

“Thanh thanh tử câm; Du du ngã tâm; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất tự âm.

Thanh thanh tử bội; Du du ngã tư; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai.

Thao hề, đạt hề; Tại thành khuyết hề; Nhất nhật bất kiến; Như tam nguyệt hề”

(Xanh xanh màu áo chàng ơi

Lòng em man mác nhớ hoài người thương

Em không đến được cùng chàng

Lẽ nào chẳng gởi tin sang một lời

Xanh xanh là mũ chàng rồi

Lòng em thương nhớ bời bời khó nguôi

Em chẳng đến được chàng ơi

Sao chàng chẳng tự đến nơi tỏ tình

Bước lui bước tới một mình

Chỉ em vò võ trong thành buồn sao

Một ngày chẳng được gặp nhau

Dài như ba tháng âu sầu nhớ nhung)

Thanh âm của công chúa vô cùng uyển chuyển dịu dàng, dĩ nhiên là một thiếu nữ còn rất trẻ. Viên Thừa Chí không hiểu hết, nhưng nghe qua “Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai… Nhất nhật bất kiến, Như tam nguyệt hề”, cũng biết bài cổ thi này diễn tả mối tương tư ở trong lòng. Càng nghe chàng càng cảm thấy giọng nói này quen thuộc. Ngẫm nghĩ một hồi, chàng bỗng thấy tự buồn cười: “Mình là một tên giang hồ thảo mãng, cả đời chưa vào tới kinh sư, đâu thể quen biết một công chúa kim chi ngọc diệp? Chỉ vì mình thường xuyên nghĩ đến A Cửu, nên gặp ai cũng tưởng là A Cửu.”

Công chúa bước đến chiếc bàn. Lát sau nghe tiếng giấy sột soạt và tiếng mài màu vẽ, tiếng bút lướt trên giấy.

Viên Thừa Chí cảm thấy bực bội. Chàng nhìn kỹ chung quanh, cửa phòng đã đóng, lại đối diện với công chúa. Cửa sổ thì màn châu đã buông xuống, muốn ra ngoài chỉ có một cách là xông bừa ra. Hồi lâu, nghe công chúa ngáp một tiếng dài, sau đó lẩm bẩm tự nói với mình: “Thiếp thì thần hồn điên đảo, ngày nào cũng nghĩ đến tướng công. Còn tướng công có lúc nào nhớ đến thiếp chăng?”

Nghe tiếng nàng đứng dậy, rồi tiếng sột soạt cất bức tranh. Cuối cùng là tiếng ghế xê dịch, rồi thanh âm uyển chuyển lại vang lên: “Tướng công ở đây với thiếp nhé.” Cuối cùng là tiếng cởi bỏ y phục, nàng lên giường.

Viên Thừa Chí hiếu kỳ, muốn xem công chúa vẽ người trong mộng ra sao, bèn thò đầu ra nhìn. Chàng không nén nổi giật mình kinh hãi.

Hình vẽ trong tranh giống hệt chàng. Định thần nhìn kỹ lại, chàng thấy người trong tranh khoác trường bào màu xanh dương, ngang lưng thắt sợi dây xanh, miệng đang mỉm cười, mày đậm, mắt to, cằm hơi nhọn, không phải chàng thì còn ai nữa? Người trong tranh tuấn tú hơn chàng rất nhiều, một tay giang hồ thảo mãng đã hóa thân thành một chàng trai mặt ngọc môi hồng. Nhưng dung mạo chẳng khác gì nhau, nhất là thắt lưng đeo một thanh kiếm lượn cong như con rắn, kiếm quang xán lạn, mũi kiếm chẻ đôi. Trên thiên hạ chỉ có một thanh kiếm như thế, dứt khoát không có thanh thứ hai.

Viên Thừa Chí không sao ngờ được người mà công chúa vẽ chính là mình. Chàng kinh ngạc tới mức không kìm nổi buột miệng một tiếng.

Công chúa nghe sau lưng có tiếng người, liền đưa tay rút cây ngọc trâm trên đầu, không quay người lại mà phóng ngay tới chỗ phát ra âm thanh. Viên Thừa Chí thấy ngọc trâm bắn đến mặt mình, lập tức đưa tay chụp lấy. Lúc này công chúa mới quay mặt lại. Hai người nhìn thấy nhau, đều ngẩn mặt ra.

Thì ra cô công chúa này không phải ai xa lạ, chính là A Cửu, đồ đệ của Trình Thanh Trúc. Thừa Chí từng thấy nàng có tùy tùng là thị vệ, đã biết nàng không phải tầm thường, nhưng không ngờ nổi nàng là công chúa.

A Cửu đột ngột nhìn thấy Viên Thừa Chí, mặt tái mét ngay, đưa tay vịn vào ghế như suýt té ngã. Nhưng chỉ chốc lát là nàng hai má đỏ hồng, định thần lại rồi lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công… tại sao… tại sao tướng công ở đây?”

Viên Thừa Chí thi lễ rồi nói: “Tiểu nhân lạc bước vào tẩm cung của công chúa điện hạ, tội đáng chết.”

Mặt A Cửu đỏ bừng lên. Nàng bảo: “Ngồi xuống rồi hãy nói chuyện.” Đột nhiên nàng nhìn thấy tấm áo mình vừa cởi ra khi nãy, lập tức nhảy lên giường, kéo chăn phủ lên thân dưới.

Bọn cung nữ ở ngoài gõ cửa, hỏi: “Công chúa vừa gọi phải không?”

A Cửu đáp: “Không… không có. Ta đang xem sách. Các ngươi đi nghỉ đi, không cần thị phụng ta nữa.”

Cung nữ nói: “Vâng! Công chúa nghỉ sớm nhé.”

A Cửu dùng tay ra hiệu với Viên Thừa Chí, khẽ mỉm cười. Thấy chàng cứ nhìn chòng chọc vào bức tranh đặt trên ghế, nàng không nén nổi hổ thẹn, liền đưa tay đẩy cái ghế qua một bên. Hồi lâu hai người không ai nói tiếng nào, bốn mắt nhìn nhau. Sau đó A Cửu cúi đầu xuống.

Ruột gan Viên Thừa Chí sôi sục hẳn lên. Từ ngày gặp ở Sơn Đông, về sau chẳng có ngày nào chàng không tơ tưởng đến A Cửu, lúc nào trong lòng cũng hiển hiện hình ảnh diễm lệ chẳng ai sánh được của A Cửu. Lúc này được gặp, chàng mừng rỡ đến điên cuồng, cả người nóng rực, nhất thời không nghĩ được gì để nói.

Lát sau Viên Thừa Chí mới khẽ hỏi: “Công chúa biết Ngũ Độc Giáo chứ?”

A Cửu gật đầu đáp: “Tào công công nói Lý Sấm đã phái rất nhiều thích khách đến kinh sư quấy nhiễu, nên công công mời một số cao thủ vào cung hộ giá, có cả Ngũ Độc Giáo.”

Viên Thừa Chí nói: “Sư phụ của công chúa, Trình lão phu tử đã bị họ đả thương. Công chúa có biết không?”

A Cửu biến sắc, nói: “Họ dám đả thương sư phụ của ta ư? Ông ấy bị thương có nặng không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không nguy hiểm lắm.” Chàng đứng dậy rồi nói: “Đêm hôm khuya khoắt không tiện nhiều lời. Bọn tại hạ đang ở hẻm Chính Điện Tử. Ngày mai công chúa có thể đến thăm sư phụ hay không?”

A Cửu đáp: “Được.” Nàng trầm tư một chút, mặt lại đỏ lên, nói: “Tướng công mạo hiểm vào cung để thăm ta, ta… ta rất cảm kích…”

Thần sắc nàng càng lúc càng bối rối, thanh âm càng lúc càng không rõ: “Bây giờ tướng công đã thấy bức tranh ta vẽ. Thế thì tâm sự… tâm sự của ta… tướng công… tướng công đã hiểu rồi…”

Những tiếng sau cùng nhỏ xíu như tiếng muỗi vo ve, hầu như không thể nghe thấy.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Hỏng bét! Công chúa vẽ chân dung mình, chắc đã có tình ý rồi, bây giờ lại hiểu lầm mình vào trong cung là để thăm nàng. Chuyện này phải nói rõ ràng mới được.”

Lại nghe công chúa nói: “Từ ngày gặp gỡ ở Sơn Đông, tướng công ngăn cản Chử Hồng Liễu làm hại ta, ta vẫn thường nhớ đến ân đức của tướng công… Tướng công xem bức tranh này vẽ có giống không?”

Viên Thừa Chí đi đến bên giường, khẽ nói: “Công chúa! Tại hạ vào cung là để…”

A Cửu ngắt lời chàng, dịu dàng nói: “Huynh đừng gọi ta là công chúa điện hạ, mà ta cũng không gọi huynh là Viên tướng công nữa. Ngày đầu quen biết, ta là A Cửu, thế thì vĩnh viễn ta là A Cửu. Ta từng nghe Thanh tỉ gọi huynh là đại ca, trong lòng vẫn nghĩ, giá có một ngày ta cũng có thể gọi như thế thì hay biết mấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô nương gọi ta là đại ca, không chừng ta sẽ mừng rỡ đến mức vỡ tim mà chết.”

Chàng đột nhiên nghĩ đến lúc cùng Thanh Thanh nghe hai người ca nữ hát bài Quải Chi Nhi trên sông Tần Hoài, có câu: Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương. Mặt chàng cũng đỏ bừng lên.

A Cửu cúi đầu xuống, dịu dàng gọi: “Đại ca!” Nàng đưa tay ra, nắm chặt đôi tay Viên Thừa Chí. Chàng khẽ gọi lại: “A Cửu!”

A Cửu nói: “Muội vừa sinh ra, khâm thiên giám đã đoán số mạng, nói rằng nếu muội được chiều chuộng trong hoàng cung sẽ chết yểu, nên phụ vương mới cho muội ra ngoài.”

Viên Thừa Chí nói: “Chẳng trách muội theo Trình lão phu tử để học võ công, lại theo ông ấy bôn tẩu giang hồ.”

A Cửu nói: “Muội ra ngoài thêm phần kiến thức, biết dân chúng thật là khổ sở. Tuy muội vẫn thường lấy tiền bạc trong cung ra bố thí cho họ, nhưng làm sao nuôi được cả thiên hạ?”

Thấy nàng cũng hiểu dân gian khổ ải, Viên Thừa Chí bèn nói: “Thế thì muội nên khuyên hoàng thượng thi hành nhân chính. Nếu bá tính no cơm ấm áo, thiên hạ đương nhiên sẽ được thái bình.”

A Cửu thở dài rồi nói: “Nếu phụ vương chịu nghe lời trình tấu thì hay quá. Phụ vương bị bọn gian thần xu nịnh, cứ tưởng mình làm chuyện gì cũng đúng. Ông ấy trách móc văn võ bá quan không chịu ra sức diệt bọn lưu khấu. Muội từng nói với phụ hoàng: Lưu khấu cũng là bá tính. Nếu có cơm ăn, cuộc sống chấp nhận được, thì lưu khấu sẽ trở thành bá tính. Không thì bá tính sẽ bị ép thành lưu khấu. Tiểu muội lại nói: Phụ vương không thể giết hết bá tính trong thiên hạ được. Ông ấy lập tức nổi giận, kêu trời rồi quát tháo: Ai cũng phản ta, ngay cả đứa con gái ruột cũng phản ta.”

Viên Thừa Chí khen: “Muội thật là người hiểu biết, kiến thức còn hơn hoàng thượng…” Chàng bỗng nghĩ: “Có nên nói cho nàng biết gian mưu của Tào Hóa Thuần không?”

A Cửu đột nhiên hỏi: “Trình lão phu tử có nhắc đến thân thế của muội không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không. Ông ấy nói là đã lập lời trọng thệ, quyết không tiết lộ thân thế của muội. Lúc đó ta cứ tưởng là việc liên quan đến ân oán hay bí mật gì đó trên giang hồ, không sao ngờ nổi muội là công chúa.”

A Cửu nói: “Trình sư phụ vốn là thị vệ của phụ vương. Hồi nhỏ tiểu muội ham vui, từng học võ với ông ấy. Không biết ông ấy phạm phải tội gì mà phụ vương sai người bắt trói, định giết. Tiểu muội chờ đêm tối, lén thả ông ấy ra. Sau này tiểu muội ra ngoài cung săn bắn, gặp lại thì ông ấy đã là bang chủ Thanh Trúc Bang rồi.”

Viên Thừa Chí gật đầu, thầm nghĩ: “Trình lão phu tử từng kể, hành thích hoàng đế bị bắt rồi được người khác cứu, thì ra là cô ấy.”

A Cửu hỏi: “Không hiểu sao ông ấy gây thù với Ngũ Độc Giáo?”

Viên Thừa Chí định nói: “Ngũ Độc Giáo muốn hại phụ thân muội. Chắc chắn họ thám thính được mối liên quan giữa muội với Trình lão phu tử, sợ họ Trình phá hỏng đại sự, nên ra tay trừ khử trước”. Đột nhiên chàng thấy ngọn nến đã ngắn đi một khúc, bèn nghĩ: “Thời gian cấp bách, mình nói chuyện với nàng lâu quá rồi.”

Chàng lập tức đứng dậy, lên tiếng: “Ngày mai chúng ta nói chuyện tiếp nhé!”

A Cửu ửng đôi gò má e lệ, từ từ gật đầu, hai tay vẫn nắm chặt lấy tay chàng không nỡ buông ra.

Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa gấp rút. Mấy người đồng thời hô hoán: “Công chúa điện hạ mau mau mở cửa.”

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.