Phi Hồ ngoại truyện

Chương 12: Bọn cướp cổ quái

trước
tiếp

Sau khi khóc lóc một hồi, mối uất ức phiền muộn trong lòng đã vơi đi nhiều. Chàng thấy trời tờ mờ sáng, có thể lên đường được rồi. Nhưng vừa đứng dậy, Hồ Phỉ bỗng la lên một tiếng:

– Hỏng rồi!

Nguyên tâm thần chàng bị kích động, từ nhà Miêu Nhân Phụng chạy đi ngay, bỏ lại cái bọc đeo bên mình. Chàng không biết làm sao quay lại lấy vì không muốn chạm mặt Miêu Nhân Phụng nữa.

Trình Linh Tố cất giọng buồn buồn nói:

– Cái gì mất cũng được nhưng chẳng thể để mất tấm ngọc phụng hoàng kia.

Hồ Phỉ bị cô nói trúng tâm sự, bất giác đỏ mặt lên nói:

– Cô hãy chờ ở đây một chút. Tại hạ quay lại lấy cái bọc không thì ngay bữa cơm tối nay cũng chẳng có tiền trả.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội có bạc rồi, cả vàng cũng có nữa.

Cô lấy trong bọc ra hai đỉnh vàng nhỏ.

Hồ Phỉ lại nói:

– Điều trọng yếu nhất là cuốn “Quyền kinh đao phổ” gia truyền quyết không thể mất được.

Trình Linh Tố lại thò tay vào bọc đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” ra, hờ hững hỏi:

– Có phải cuốn này không?

Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, đáp:

– Cô nương thật là tinh tế, việc gì cũng trông nom giúp tại hạ.

Trình Linh Tố nói:

– Chỉ đáng tiếc là tấm ngọc phụng hoàng bị tiểu muội đánh rơi dọc đường, thật là áy náy.

Hồ Phỉ thấy cô vẻ mặt trịnh trọng, tựa hồ không phải đùa giỡn mình thì trong lòng nóng nảy, vội đáp:

– Để tại hạ quay lại tìm, có khi thấy được cũng nên.

Dứt lời, chàng quay người toan đi thì Trình Linh Tố vội la lên:

– Ô hay! Cái gì lấp loáng thế kia?

Cô thò tay vào trong đám cỏ xanh lượm lên một vật trang sức sáng lấp loáng. Chính là con ngọc phụng.

Hồ Phỉ cả mừng, cười nói:

– Cô nương quả là Nữ Gia Cát, Tiểu Trương Lương, tiểu nhân đành cam bái hạ phong.

Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca thấy con ngọc phụng mà hí hửng quá chừng. Tiểu muội trả cho đây.

Cô liền đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” và con ngọc phụng cho chàng rồi nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta hẹn ngày tái ngộ!

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Cô nương giận rồi ư?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Tiểu muội tức giận ai được cơ chứ?

Cô nói vậy nhưng mắt đỏ hoe, hai dòng nước mắt muốn trào ra, phải quay đầu đi.

Hồ Phỉ ấp úng:

– Cô… cô nương đi đâu bây giờ?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội cũng không biết.

Hồ Phỉ hỏi:

– Sao lại không biết?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội đã không cha không mẹ, sư phụ lại chết rồi, cũng chẳng ai cho ngọc phụng hoàng hay ngọc kỳ lân gì gì cả, thì tiểu… tiểu muội còn biết đi đâu bây giờ?

Cô nói đến đây, đôi dòng lệ chảy ròng ròng trên má. Hồ Phỉ từ ngày gặp cô, thấy tâm tư cô rất thân mật, chỗ nào cô cũng chiếm thượng phong hơn người, gặp việc khó khăn gì cô cũng giải quyết được. Thế mà bây giờ thấy cô đứng lặng yên trong làn gió sớm, dưới ánh trăng tàn chênh chếch chiếu, chiếc lưng hơi rung động, chàng không khỏi sinh lòng thương xót, liền nói:

– Linh cô nương. Tại hạ đưa cô một đoạn đường.

Trình Linh Tố vẫn đứng xoay lưng lại, kéo áo lên lau nước mắt, đáp:

– Tiểu muội đã không biết đi về đâu thì đại ca tiễn cái gì? Đại ca bảo tiểu muội đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, tiểu muội đã làm xong rồi.

Hồ Phỉ muốn làm cho cô vui lên, liền nói:

– Nhưng còn một việc cô nương chưa làm.

Trình Linh Tố quay lại hỏi:

– Việc gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Lúc tại hạ cầu cô nương chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, cô bảo cũng yêu cầu tại hạ một việc. Việc đó là việc gì, cô nương vẫn chưa nói.

Trình Linh Tố dù sao cũng là cô gái nhỏ tuổi, mặt cô đang đầm đìa nước mắt, đột nhiên lại phá lên cười, hỏi:

– Đại ca không nhắc thì tiểu muội quên mất. Cái đó gọi là tự mình làm nên tội nghiệt tất không sống nổi. Được rồi, tiểu muội yêu cầu việc gì đại ca cũng làm theo phải không?

Hồ Phỉ quả thực tâm tình nguyện làm cho cô bất cứ việc gì, liền ngang nhiên đáp:

– Chỉ cần sức tại hạ làm được thì bất luận việc gì cũng xin tuân lệnh.

Trình Linh Tố xòe tay ra nói:

– Hay lắm! Đại ca cho tiểu muội con ngọc phụng đó.

Hồ Phỉ ngẩn người, trong lòng lấy làm khó nghĩ, nhưng chàng là người biết giữ lời hứa liền đưa ngọc phụng ra.

Trình Linh Tố không đón lấy lại nói:

– Tiểu muội lấy cái này làm gì? Chỉ yêu cầu đại ca đập nát nó ra.

Việc này cả ngàn vạn lần Hồ Phỉ không sao làm được. Chàng đứng thộn mặt ra tại chỗ, hết đăm đăm nhìn Trình Linh Tố rồi lại nhìn con ngọc phụng hoàng trong tay, không biết phải làm thế nào. Hình ảnh kiều diễm của Viên Tử Y chính trong sát na đó đột nhiên hiện ra vương vấn trong lòng Hồ Phỉ.

Trình Linh Tố từ từ bước lại gần, cầm lấy con ngọc phụng nhét vào bọc cho chàng, rồi mỉm cười nói:

– Từ nay về sau đại ca đừng hứa với người khác một cách khinh suất. Trên đời rất nhiều việc miệng đã hứa hẹn mà vô phương thực hiện. Thôi, được rồi, bây giờ chúng ta lên đường!

Trong lòng Hồ Phỉ thấy ngậm ngùi bâng khuâng khôn tả. Chàng bưng chậu “Thất tâm hải đường” đi theo Trình Linh Tố.

Đến trưa thì hai người tới một thị trấn lớn. Hồ Phỉ hỏi:

– Chúng ta hãy tìm phạn điếm ăn cơm rồi hãy đi mua đôi ngựa.

Chàng chưa dứt lời đột nhiên một hán tử trung niên mặc áo trường bào bằng gấm đoạn ra vẻ là một thương gia, tiến lại chắp tay hỏi:

– Phải chăng đây là Hồ gia?

Hồ Phỉ chưa từng gặp người này, chàng thi lễ đáp:

– Không dám! Chính là tại hạ. Xin hỏi quý tính đại danh của huynh đài? Sao huynh đài lại biết tại hạ?

Người kia mỉm cười đáp:

– Tiểu nhân vâng lệnh gia chủ chờ Hồ gia ở đây đã lâu. Mời Hồ gia qua bàn này dùng sơ qua bữa điểm tâm.

Hán tử nói rồi cung kính dẫn hai người vào một tòa tửu lâu. Trong tửu lâu, bọn tiểu nhị không chờ người kia sai bảo đã bày ngay rượu thịt ra, tuy người nói bữa điểm tâm sơ sài nhưng thực là là một bữa tiệc thịnh soạn. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều cảm thấy kỳ quái nhưng gã thương gia kia ngồi xuống tiếp khách mà không nhắc gì tới ai là người đón mời. Hai người cũng không hỏi lại, cứ ung dung ngồi ăn uống.

Cơm rượu xong, thương gia kia nói:

– Mời hai vị qua bên này nghỉ ngơi.

Mấy người xuống lầu đã thấy gia nhân dắt tới ba con ngựa cao lớn. Cả ba người lên ngựa, gã thương gia đi trước dẫn đường, ruổi ngựa ra ngoài thị trấn. Đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một đại trang viện. Quanh trang viện trông toàn thùy dương, tường quét trắng, cửa sơn đen, khí thế không phải nhỏ.

Trước cửa trang viện có sáu, bảy tên gia đinh đứng đó. Chúng vừa thấy gã thương gia tới liền thõng tay đứng nghiêm. Gã thương gia mời Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vào đại sảnh dùng trà. Trên bàn bày đầy trái cây rất đẹp mắt.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Nếu ta có hỏi y sao lại tiếp đãi thế này, thì chưa chắc y đã chịu nói. Vậy cứ để y giở đủ hết mọi trò ra rồi ta sẽ tùy cơ ứng biến là xong.

Chàng liền cùng Linh Tố nói chuyện phong cảnh dọc đường, không đoái hoài gì đến người kia. Gã thương gia chỉ kính cẩn mời mọc chứ không xen vào câu chuyện giữa hai người.

Dùng điểm tâm xong, gã thương gia lại nói:

– Hồ gia và cô nương đi đường mệt nhọc, xin vào nhà trong tắm rửa thay áo.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Nghe giọng lưỡi y dường như y chưa hiểu lai lịch Linh cô nương. Như vậy càng hay. Nếu y quả dám hạ độc đệ tử của Độc Thủ Dược Vương thì chính là tự rước khổ vào mình.

Chàng liền theo gia đinh vào nội đường Trình Linh Tố đã có bọn bộc phụ đưa vào lầu sau tắm gội. Hai người tắm rửa nghỉ ngơi xong, lại quay ra nhà đại sảnh. Người nọ nhìn người kia đều thay đổi y phục mới tinh. Trình Linh Tố mỉm cười khẽ nói:

– Hồ đại ca, sang năm mới rồi chăng? Ăn mặc thế này quả thật chỉnh tề!

Hồ Phỉ thấy mặt cô thoa một lớp phấn mỏng, con người đã thanh tú lại thêm phần kiều diễm, chàng cười nói:

– Cô nương có vẻ một vị tân nương tử.

Trình Linh Tố đỏ mặt lên quay đầu ra chỗ khác, chẳng lý gì tới. Hồ Phỉ ngấm ngầm hối hận vì đã lỡ lời. Nhưng chàng liếc trộm thấy cô không có vẻ gì là giận dữ, trong khóe mắt lại lộ vẻ tinh quái, lại ra chiều e thẹn.

Lúc này trên nhà khách lại bày tiệc rượu. Gã thương gia mời Hồ Phỉ ba chung rồi quay vào nhà trong bưng ra một cái khay. Trên khay đặt một gói vải đỏ. Y mở gói ra thấy một cuốn số viền chỉ vàng, ngoài bìa đề hàng chữ “Kính trình Hồ đại gia thu nạp”.

Gã thương gia hai tay nâng quyển sổ đưa tới trước mặt Hồ Phỉ, nói:

– Tiểu nhân phụng mệnh chủ nhân dâng Hồ đại gia chút lễ mọn này,

Hồ Phỉ không đón lấy cuốn sổ, hỏi lại:

– Quý chủ nhân là ai? Cớ sao lại tặng lễ vật cho tại hạ?

Gã thương gia đáp:

– Chủ nhân căn dặn không được nhắc đến danh tự người. Sau này, tự nhiên Hồ gia sẽ hiểu.

Hồ Phỉ rất lấy làm lạ, đón lấy quyển sổ bọc gấm, mở ra coi thì thấy trên trang đầu viết “Thượng đẳng điền bốn trăm mười lăm mẫu bảy phân”. Phía dưới ghi chú vị trí ruộng tiếp giáp thế nào, tọa lạc ở đâu, tá điền là ai, mỗi năm đóng thóc tô bao nhiêu…

Hồ Phỉ càng ngạc nhiên tự hỏi:

– Ta lấy bốn trăm mẫu ruộng này làm gì?

Chàng lật qua trang thứ hai thấy viết “Một tòa trang viện gồm năm lớp trên lầu có mười hai phòng, dưới đất bảy mươi ba phòng”. Phía dưới chú thích bằng chữ nhỏ đông tây tứ cận cùng tên các căn phòng, nào là vườn hoa, sảnh đường, sương phòng; cả đến nhà bếp, phòng chứa củi, tàu ngựa… cũng đều ghi rất rõ ràng. Chàng lại lật xuống thấy ghi tên các tỳ bộc trong trang viện, cùng những thứ nhật dụng, kim ngân, lương thực, súc vật, xe kiệu, đồ dùng, quần áo, chẳng thiếu thứ gì.

Hồ Phỉ coi qua một lượt rất đỗi hoang mang, cầm cuốn sổ đưa lại cho Trình Linh Tố, bảo:

– Cô nương coi đi.

Trình Linh Tố coi qua một lượt cũng không đoán ra được họ có dụng ý gì. Cô cười, nói:

– Cung hỷ phát tài! Cung hỷ phát tài!

Gã thương gia kia nói:

– Trong lúc thảng thốt, chủ nhân chuẩn bị không được chu đáo, thật chưa đủ lòng thành kính.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Lát nữa tiểu nhân đưa Hồ đại gia đi coi các phòng xá.

Hồ Phỉ hỏi:

– Quý tính huynh đài là gì?

Gã thương gia kia đáp:

– Tiểu nhân họ Trương. Những ruộng đất cùng nhà cửa này tạm thời tiểu nhân cai quản thay cho Hồ đại gia. Hồ đại gia thấy có điều chi không ổn, xin cứ dạy bảo. Bao nhiêu văn tự khế ước của ruộng nương cùng phòng ốc hậu cứ đều ở trong này. Xin Hồ đại gia thu nhận cho.

Y nói rồi lại trình lên rất nhiều giấy tờ khế ước. Hồ Phỉ đáp:

– Ông bạn hãy thu cất. Người ta thường nói: “Vô công bất thụ lộc”, chưa có công lao thì không được hưởng lộc. Món hậu lễ này tại hạ không thể tiếp nhận được.

Gã thương gia kia nói:

– Hồ đại gia khiêm nhượng quá. Tệ chủ nhân đã nói món lễ mọn này không đáng gì nên trong lòng lấy làm áy náy.

Hồ Phỉ từ nhỏ đã phiêu bạt giang hồ, những chuyện kỳ lạ, quái dị đã từng nghe thấy không phải là ít, nhưng đột nhiên được nhận hậu lễ thế này, người tặng lại tránh không chịu ra mặt thì việc này quả chưa từng gặp qua. Cử chỉ của quản gia họ Trương nhất định là không hiểu võ công, mà lời ăn tiếng nói cũng chẳng giống nhân vật võ lâm chút nào. Xem ra hắn chỉ làm theo lệnh của người khác chứ không hiểu rõ nội tình.

Cơm nước xong, Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố vào thư phòng nghỉ ngơi. Trên bốn bức vách thư phòng, treo toàn tranh vẽ. Trên giá bày dao cầm, bàn cờ, trông rất thanh nhã. Một tên thư đồng đưa trà vào rồi lui ra ngay. Trong thư phòng chỉ có Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.

Trình Linh Tố cười hỏi:

– Hồ viên ngoại! Không ngờ đại ca trở nên lão gia rồi.

Hồ Phỉ nghe nói không khỏi bật cười. Nhưng rồi chàng lại chau mày hỏi:

– Tại hạ xem ra người tặng lễ nhất định có chuyện mưu đồ mà nghĩ mãi không ra người này là ai? Hành động của họ không hiểu có dụng ý gì?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Phải chăng là Miêu Nhân Phụng?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tuy tại hạ và y có mối thù bất cộng đái thiên, nhưng tại hạ nhận thấy y là một hán tử chân chính, hành động quang minh lỗi lạc, quyết chẳng chịu làm chuyện úp mở giấu giếm thế này.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca giúp y đánh lui kẻ dịch. Y tặng phần hậu lễ này, một cách để tạ ơn, hai là mong hóa giải mối cừu hận, thì e rằng đây cũng là một mỹ ý.

Hồ Phỉ đáp:

– Hồ mỗ há phải kẻ coi trọng tiền bạc ruộng đất mà quên mối thù của song thân? Không! Không phải đâu! Miêu Nhân Phụng chẳng khi nào coi thường tại hạ đến thế.

Trình Linh Tố thè lưỡi ra, nói:

– Thế ra tiểu muội coi thường đại ca rồi.

Hai người bàn tán hàng nửa ngày mà vẫn chẳng tìm ra chút manh mối nào, quyết ý ngủ ở đây một đêm để thám thính xem có tìm ra được điều gì không? Đến tối Hồ Phỉ nghỉ trong phòng lớn tại hậu đường. Phòng của Trình Linh Tố bố trí ở trên lầu cạnh vườn hoa. Hồ Phỉ suốt đời chưa từng được trong căn nhà to lớn tráng lệ như thế này, mà lại là nhà của mình, quả là điều ngoài sức tưởng tượng.

Chàng ngủ tới canh hai rồi khẽ mở cửa sổ chuồn ra nhảy lên mái nhà, cúi mình nhìn thấy ở hậu viện phía tây còn ánh đèn sáng. Chàng liền thi triển khinh công chạy về phía đó. Chàng móc chân vào mái hiên thi triển thân pháp “Đảo quyền châu liêm”, nhìn qua khe cửa sổ vào trong nhà thấy gã Trương đang gảy bàn toán lách cách để tính số. Bên cạnh y là một lão bộc già. Họ Trương viết mấy chữ và nói với lão kia mấy câu toàn là chuyện bếp núc trong nhà.

Hồ Phỉ nghe hồi lâu mà chẳng ra manh mối gì toan trở gót về phòng, bỗng thấy trên nóc nhà phía đông có tiếng động nhẹ. Chàng uốn lộn người đứng thẳng, tay nắm đốc đao, nhưng người tiến lại là Trình Linh Tố. Cô giơ tay ra hiệu, Hồ Phỉ tung mình vọt lại.

Trình Linh Tố khẽ hỏi:

– Tiểu muội đã xem kỹ trước sau mà không thấy có điều chi khác lạ. Đại ca có phát hiện ra điều gì không?

Hồ Phỉ lắc đầu. Hai người chia tay về phòng. Suốt đêm cả hai cùng đề phòng nên cứ trằn trọc lo nghĩ, không sao ngủ yên được. Sáng sớm hôm sau, đứa đồng bộc bưng thang yến sào vào, tiếp theo đưa bánh điểm tâm tới, phần Hồ Phỉ còn có thêm một hồ rượu Trạng nguyên hồng.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Có Linh cô nương bầu bạn trò chuyện cũng đỡ tịch mịch. Ở đây lại không phải lo nghĩ gì, yên hưởng tiêu dao khoái lạc.

Nhưng chàng chợt nghĩ:

– Tên ác bá họ Phụng đã thảm sát cả nhà Chung A Tứ, ta không rửa được mối oan này cho họ thì còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa?

Chàng nghĩ tới đây, bầu máu nóng trào lên, liền nhìn Trình Linh Tố hỏi:

– Chúng ta đi thôi chứ?

Trình Linh Tố không hỏi đi đâu, nhưng cũng đáp:

– Phải rồi! Lên đường là vừa.

Hai người vào phòng thay đổi y phục, mặc quần áo cũ vào. Hồ Phỉ bảo gã quản gia họ Trương:

– Chúng ta đi đây!

Dứt lời chàng rảo bước đi luôn.

Gã quản gia họ Trương vô cùng kinh ngạc, lắp bắp nói:

– Sao… sao Hồ đại gia lại lên đường vội thế? Hồ đại… Hồ đại gia để tiểu nhân chuẩn bị hành trình cùng tiền lộ phí.

Chờ đến khi gã bưng ra một mâm bạc lớn thì Hồ, Trình hai người đã đi xa rồi. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố rảo bước tiến về phía bắc. Khoảng giờ ngọ thì đến một thị trấn, hỏi thăm mới biết đêm qua ngủ ở Nghĩa Đường trấn. Hồ Phỉ liền lấy tiền mua đôi ngựa. Hai người ngồi trên lưng ngựa bàn tán không ngớt những chuyện kỳ dị đêm qua.

Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta đã ăn không uống không, cả ngủ trọ cũng chẳng mất nửa xu, mà xem ra chủ nhân dường như cũng chẳng có lòng dạ gì đen tối.

Hồ Phỉ đáp:

– Nhưng tại hạ cảm thấy vụ này có điều chi quái dị, có vẻ như tà môn.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Tiểu muội lại thích gặp tà môn kiểu này, dọc đường chỗ nào cũng gặp chuyện quái dị như thế thì hay quá! Này, Hồ đại gia! Đại gia định đâu đấy

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Tại hạ muốn lên Bắc Kinh. Cô nương cùng đi để thưởng ngoạn phong cảnh, có được không?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Được thì được rồi, nhưng e có điều bất tiện.

Hồ Phỉ hỏi:

– Có gì mà bất tiện?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Hồ đại gia đi thăm vị cô nương tặng ngọc phụng còn muốn đem con nha đầu này đi theo bên mình làm chi?

Hồ Phỉ nghiêm nghị nói:

– Không phải. Tại hạ đang truy sát một kẻ thù. Người này tuy võ công không cao thâm lắm nhưng rất nhiều tai mắt, lại giảo quyệt đa đoan. Mong cô nương giúp tại hạ một tay.

Chàng liền đem việc Phụng Thiên Nam thảm sát toàn gia Chung A Tứ ở trấn Phật Sơn ra sao, rồi khi vào tòa cổ miếu để nấp mưa gặp lại hắn, rồi hắn trốn thoát ra sao, nhất nhất kể lại cho cô nghe.

Trình Linh Tố nghe nói đến cuộc gặp gỡ trong tòa cổ miếu, lúc Phụng Thiên Nam nhân đêm tối tẩu thoát có vẻ chưa hết sự thực, liền hỏi:

– Vị cô nương tặng đại ca ngọc phụng cũng ở trong tòa cổ miếu phải không?

Hồ Phỉ sửng sốt, thấy cô thông minh tuyệt đỉnh, nhưng nghĩ lại trong lòng chẳng có gì mờ ám nên không cần giấu giếm cô nữa. Chàng bèn đem chuyện gặp Viên Tử Y trong trường hợp nào, nàng đoạt chức chưởng môn của ba phái ra sao, rồi lại tương trợ Phụng Thiên Nam như thế nào để thuật lại từ đầu đến cuối.

Trình Linh Tố lại hỏi:

– Viên cô nương đẹp lắm phải không?

Hồ Phỉ hơi ngẩn người, mặt đỏ lên, đáp:

– Kể cũng khá đẹp.

Trình Linh Tố hỏi:

– So với con xú nha đầu là tiểu muội thì Viên cô nương đẹp hơn nhiều, có phải không?

Hồ Phỉ không ngờ cô hỏi thẳng thừng câu này, bất giác cảm thấy bẽn lẽn, bèn đáp:

– Ai bảo cô là xú nha đầu? Viên cô nương hơn cô mấy tuổi, dĩ nhiên là y cao lớn hơn.

Trình Linh Tố cười nói:

– Năm tiểu muội tám tuổi, lấy gương của má má soi. Tỷ tỷ của tiểu muội liền bảo: “Xú bát quái! Đừng soi nữa. Soi lui soi tới vẫn là xú nha đầu”. Hừ! Tiểu muội chẳng thèm để ý gì đến y. Về sau ra làm sao đại ca thử đoán được không?

Hồ Phỉ sợ run lên nghĩ thầm:

– Chỉ mong cô đừng hạ độc tỷ tỷ là may lắm rồi.

Rồi chàng đáp:

– Tại hạ không biết.

Trình Linh Tố nghe giọng Hồ Phỉ hơi run, dường như đoán được ý nghĩ của chàng. Cô hỏi:

– Đại ca sợ tiểu muội hạ độc tỷ tỷ phải không? Hồi ấy tiểu muội mới có tám tuổi mà. Hừ! Hôm sau trong nhà không còn thấy một cái gương nào nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái đó mới là kỳ!

Trình Linh Tố cười đáp:

– Chẳng có chi mà kỳ. Tiểu muội ném xuống giếng cả rồi.

Cô ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Nhưng tiểu muội bỏ hết gương đi rồi lại hiểu ngày mình sinh ra vốn đã là xú nha đầu thì dù không còn gương soi nữa cũng vẫn xấu. Mặt nước dưới giếng tròn phẳng như một tấm gương, tiểu muội soi xuống thấy chân tướng mình rõ ràng. Lúc đó tiểu muội muốn đâm đầu xuống giếng mà chết đi cho rồi.

Cô nói tới đây đột nhiên quất roi tới tấp vào mông ngựa cho nó lao nhanh về phía trước. Hồ Phỉ phóng ngựa rượt theo. Hai người chạy liền một hơi hơn mười dặm đường, Trình Linh Tố mới chịu dừng cương ngựa.

Hồ Phỉ thấy có vành mắt đỏ hoe, hiển nhiên cô vừa mới khóc. Chàng không dám nhìn cô nhiều, bụng bảo dạ:

– Linh cô nương tuy không đẹp bằng Viên Tử Y, nhưng quyết chẳng phải xú nha đầu. Huống chi con người ta nhân phẩm là thứ nhất, tài trí là thứ nhị còn tướng mạo đẹp hay xấu là do trời sinh, hà tất phải thương tâm? Việc gì cô cũng tỏ ra thông minh rất mực, mà sao không hiểu ra được điểm này?

Chàng trông con người cô mảnh dẻ ốm yếu, trong lòng thấy thương cảm, cất tiếng hỏi:

– Tại hạ có điều yêu cầu, chẳng hiểu cô nương có ưng thuận chăng, cũng không hiểu tại hạ có với cao quá chăng?

Trình Linh Tố toàn thân chấn động, cất giọng run run hỏi:

– Đại ca… đại ca bảo sao?

Hồ Phỉ từ đằng sau nhìn tới thấy cô mặt đỏ đến mang tai. Chàng hỏi:

– Cô nương cũng như tại hạ đều không cha mẹ thân thích. Tại hạ muốn cùng cô kết bái huynh muội, cô bảo có nên chăng?

Trình Linh Tố trong chớp mắt nét mặt biến thành xanh mướt, lớn tiếng cười, đáp:

– Hay lắm! Sao lại không được? Tiểu muội có vị huynh trưởng như đại ca cầu còn không được nữa là.

Hồ Phỉ nghe giọng nói cô có vẻ trào phúng thì không khỏi bối rối, liền nói:

– Đó là tấm chân tình của tại hạ.

Trình Linh Tố hỏi:

– Chẳng lẽ tiểu muội lại giả ý ư?

Dứt lời, cô liền xuống ngựa, dùng đất bên đường nắn thành hương, chân quỳ xuống. Hồ Phỉ thấy cô mau lẹ cũng quỳ xuống theo, ngửng đầu lên trời lạy mấy lạy rồi cả hai cùng dập đầu hành lễ. Trình Linh Tố nói:

– Người ta đều nói kết nghĩa chi lan là bát bái chi giao. Vậy chúng ta cũng phải dập đầu cho đủ tám cái. Nào, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám… Ồ! Tiểu muội là em phải lạy thêm hai lạy.

Quả nhiên cô dập đầu thêm hai cái nữa rồi đứng lên. Hồ Phỉ thấy hành động và lời nói của cô đột nhiên đâm ra phóng túng nên chàng cũng không giữ được, liền nói:

– Từ giờ trở đi tại hạ gọi cô nương là nhị muội.

Trình Linh Tố đáp:

– Phải, tiểu muội kêu lại bằng đại ca. Sao chúng ta lại không uống máu ăn thề, rồi nói có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia gì gì đó…

Hồ Phỉ đáp:

– Kết nghĩa cốt quý ở lời thề trong lòng, có nói hay không cũng vậy thôi.

Trình Linh Tố nói:

– À, té ra là vậy.

Nói rồi cô nhảy lên ngựa. Từ lúc đó cho đến chiều tối, thủy chung cô không nói với Hồ Phỉ một câu nào.

Chiều hôm ấy, hai người đến An Lục. Vừa cưỡi ngựa vào thị trấn, một tên điếm tiểu nhị đã ra đón đầu ngựa nói:

– Vị này là Hồ đại gia phải không? Xin mời đại gia vào tiểu điếm nghỉ ngơi.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi:

– Sao ngươi lại biết ta?

 Điếm tiểu nhị cười đáp:

– Tiểu nhân chờ ở đây đã nửa ngày rồi.

Đoạn gã đi trước dẫn đường, mời hai người vào một khách điếm, loại phòng tốt đã dành sẵn một phòng, bây giờ lại lấy thêm một phòng nữa. Trà nước, cơm rượu không cần gọi mà cứ tự nhiên đưa ra tới tấp.

Hồ Phỉ hỏi điếm tiểu nhị:

– Ai bảo ngươi đón chờ ta?

Điếm tiểu nhị cười đáp:

– Hồ đại gia ở Nghĩa Đường trấn, ai lại không biết?

Sáng sớm hôm sau, Hồ Phỉ tính tiền phòng, chưởng quỹ chỉ khom lưng kính cẩn nói là đã tính toán xong xuôi đâu vào đấy cả rồi. Hắn chỉ nhận mấy đồng tiền thưởng cho tiểu nhị mà thôi. Mấy ngày liền đều như vậy, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tuy là những người cực kỳ thông minh cơ trí nhưng chưa đủ lịch duyệt, nên vẫn chưa nhìn ra những âm mưu trong chốn giang hồ. Đến ngày thứ tư lên đường rồi, Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Mấy bữa nay tiểu muội rất lưu tâm chú ý nhưng vẫn không thấy có ai đi sau theo dõi chúng ta. Tất có người chạy trước nói tướng mạo của đại ca để người ta chờ đón. Vậy chúng ta hãy thay hình đổi dạng để dò xét, không chừng tìm ra được chân tướng vụ này.

Hồ Phỉ cả mừng khen:

– Quả là diệu kế!

Hai người liền vào thị trấn mua mấy bộ quần áo, giày mũ rồi tìm một khu rừng vắng để cải trang. Trình Linh Tố cắt tóc làm râu giả gắn trên cằm Hồ Phỉ để chàng hóa trang thành hán tử trung niên lối bốn mươi tuổi. Phần cô cũng mặc áo trường bào, đầu đội mão nhỏ biến thành một gã thiếu niên gầy ốm. Hai người trông nhau cả cười. Vừa đến trước thị trấn, hai người lại đổi ngựa cưỡi lừa. Hồ Phỉ giấu đơn đao vào bọc, lại mua một cái dọc tẩu hút thuốc. Chàng hút thuốc nhả khói tự nhiên, dù là người tinh mắt cũng không nhận ra được.

Chiều tối hôm ấy, hai người đến Quảng Thủy thấy hai tên điếm tiểu nhị đang giương cổ dòm đông ngó tây. Hồ Phỉ biết bọn chúng đang chờ mình, không khỏi cười thầm, bèn đi thẳng vào trong điếm. Chưởng qũy thấy hai người ăn mặc nghèo nàn, chẳng thèm chào hỏi, rồi cho hai cái phòng bên. Hai tên điếm tiểu nhị chờ cho đến lúc trời tối mịt mới trở về. Hồ Phỉ gọi một tên vào muốn dò la tin tức. Chàng vừa nói mấy câu vớ vẩn bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mà không phải chỉ có một người.

Điếm tiểu nhị lộ vẻ vui mừng nói:

– Hồ đại gia đến rồi.

Dứt lời y chạy lẹ ra ngoài cửa điếm. Hồ Phỉ thầm nhủ:

– Hồ đại gia đã đến từ sớm và nói chuyện với ngươi mà ngươi vẫn chưa hay.

Chàng liền ra ngoài phòng lớn để coi nhiệt náo thì thấy tiếng người huyên náo. Gã điếm tiểu nhị nọ lớn tiếng bảo:

– Không phải Hồ đại gia. Đây là Đạt quan gia ở tiêu cục.

Tiếp theo một tên chạy cờ cầm tiêu kỳ cắm ở trước khách điếm. Hồ Phỉ nhìn tiêu kỳ không khỏi ngạc nhiên, vì lá cờ nền vàng viền đen có thêu một con tuấn mã cánh mọc trên lưng. Ngày trước ở Thương gia bảo chàng đã nhìn thấy tiêu kỳ này một lần, là cờ hiệu của Phi Mã tiêu cục. Chàng nhớ lại chủ nhân tiêu cục này là Bách thắng thần quyền Mã Hành Không đã chết cháy tại Thương gia bảo, không hiểu bây giờ do ai làm tổng tiêu đầu. Chàng coi lại thấy lá cờ đã rách mướp, hiển nhiên lâu ngày chưa thay đổi. Người chạy cờ là một lão già ốm yếu, chẳng có vẻ tinh lanh chút nào, tựa hồ như gần đây Phi Mã tiêu cục không còn hưng thịnh nữa.

Tiếp theo tiêu đầu tiến vào. Đó là một hán tử khí phách hiên ngang, nhưng trên mặt chằng chịt những vết sẹo. Hồ Phỉ nhận ra hắn là Từ Tranh, đồ đệ Mã Hành Không. Đi sau hắn là một thiếu phụ mặc võ phục, hai tay dắt hai đứa con trai nhỏ tuổi. Thiếu phụ này chính là Mã Xuân Hoa, con gái Mã Hành Không. Hồ Phỉ cùng nàng lâu năm không gặp, hiện nay tuy rằng nàng còn xinh đẹp, nhưng trên khuôn mặt không che giấu nổi vẻ phong sương tiều tụy. Hai đứa con nhỏ ước chừng bốn tuổi, nước da trắng trẻo coi rất khả ái, tướng mạo lại giống hệt nhau. Hiển nhiên là hai anh em sinh đôi.

Bỗng nghe một đứa nhỏ nói:

– Má má, hài nhi đói rồi, cho hài nhi ăn mì đi nhé!

Mã Xuân Hoa cúi xuống bảo nó:

– Được rồi! Chờ gia gia rửa mặt xong rồi cả nhà ta cùng ăn một thể.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Té ra sư huynh sư muội bọn họ đã thành thân và sinh hạ được hai đứa nhỏ này.

Ngày trước chàng ở Thương gia bảo bị Thương lão thái bắt và Thương Bảo Chấn đánh nhừ đòn. Mã Xuân Hoa từng ra sức năn nỉ gã tha cho chàng. Việc này chàng luôn ghi nhớ trong lòng. Bữa nay gặp nhau ở chốn tha hương nếu chàng không muốn để cho người ta nhận ra chân tướng thì đã lại chào hỏi rồi.

Những khách điếm xưa nay không dám đắc tội với tiêu cục, tuy họ thấy Phi Mã tiêu cục chỉ có một xe tiêu và mọi người ăn mặc quần áo cũ mèm, chắc chẳng xơ múi được gì mấy, nhưng chưởng quỹ cũng ra tiếp đãi ân cần. Từ Tranh nghe nói phòng tốt đã hết rồi không khỏi chau mày, muốn nói mấy câu thì người chạy cờ ở phía trong đi ra hỏi:

– Hai gian phòng tốt ở phía nam rõ ràng chẳng phải còn trống đó ư? Sao lại bảo hết rồi?

Chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:

– Đạt quan gia lượng thứ cho. Hai gian phòng này người ta đã đưa tiền đặt từ hôm trước, nói là đêm nay sẽ dùng tới.

Mấy năm nay Từ Tranh thời vận xui xẻo, nghề bảo tiêu thường thua lỗ, vì thế mà gã đành chịu ủy khuất. Gã nghe chướng quỹ nói vậy, bèn vỗ tay xuống quầy đánh “chát” một tiếng, toan phát tác. Mã Xuân Hoa vội kéo tay áo gã, nói:

– Thôi mà! Ngủ tạm cho qua một đêm, thế nào cũng được.

Từ Tranh nghe lời vợ, nhưng còn hằm hằm nhìn chưởng quỹ một lần nữa rồi mới bỏ đi vào căn phòng nhỏ ở hướng tây.

Mã Xuân Hoa dắt hai thằng nhỏ đi theo, khẽ nói:

– Món tiêu này thù lao kém quá, nếu không khéo tính thì lại lỗ vốn. Không ở phòng tốt thì bớt được chút tiền càng hay.

Từ Tranh đáp:

– Nàng nói thế cũng phải, nhưng ta thấy bọn chó má khinh người không khỏi tức mình.

Nguyên sau khi Mã Hành Không chết rồi, chẳng bao lâu Từ Tranh cùng Mã Xuân Hoa thành hôn. Hai người kế nghiệp làm chưởng quản Phi Mã tiêu cục, nhưng võ công cùng uy danh của Từ Tranh dĩ nhiên không bằng sư phụ, tính tình lại nóng nảy thẳng thắn, ít kết giao được với bằng hữu trên giang hồ. Ba bốn năm liền gặp phải mấy phen xiểng liểng, mỗi lần như vậy may mà có Mã Xuân Hoa khéo léo mới đắp điếm được phần nào. Có điều từ đấy công việc kinh doanh của Phi Mã tiêu cục như rớt xuống hố sâu muôn trượng, không sao vực lên được nữa.

Chuyến này một thương gia buôn muối yêu cầu đưa món hàng lên bắc tới phủ Bao Định, tỉnh Trực Lệ. Tổng số chỉ có chín ngàn lạng. Các tiêu cục lớn chê thù lao ít quá mới nhường cho Phi Mã tiêu cục. Vợ chồng Từ Tranh trước nay vẫn đi bảo tiêu. Mã Xuân Hoa ở nhà chẳng có thân nhân nhờ cậy được, nàng không yên tâm gởi hai đứa nhỏ nên phải đưa đi theo. Ai nấy đều nghĩ rằng món tiêu ngân chỉ vọn vẹn có chín ngàn lạng bạc thì trên đường cũng chẳng gặp nguy hiểm gì.

Hồ Phỉ liếc mắt nhìn xe tiêu rồi chạy vào phòng Trình Linh Tố nói:

– Nhị muội! Vợ chồng tiêu đầu này là chỗ quen biết cũ của tiểu huynh.

Hồ Phỉ liền thuật sơ lại việc chàng đã gặp bọn họ ở Thương gia bảo cho Trình Linh Tố nghe.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca có chịu nhìn nhận bọn họ không?

Hồ Phỉ đáp:

– Để sáng mai lên đường gặp chỗ vắng vẻ không người sẽ nhìn nhận nhau.

Trình Linh Tố cười nói:

– Chỗ vắng vẻ không người ư? Cái đó không được rồi. Bọn họ thấy bộ râu của đại ca tất cho là cường đạo đến cướp tiêu.

Hồ Phỉ cũng cười đáp:

– Món hàng này không đáng để Hồ đại trại chủ ra tay. Trình nhị trại chủ! Nhị trại chủ thấy thế nào?

Trình Linh Tố cười nói:

– Xem ra bọn tiêu khách trong mình không có tiền, rất đỗi nghèo nàn. Anh em ta làm cường đạo cũng phải có đạo lý. Đâu phải cứ cưỡi ngựa tới tặng vàng là xong đâu.

Hồ Phỉ cười hà hà. Quả thực chàng có ý tặng vợ chồng họ một ít vàng bạc nhưng chưa biết tính cách nào cho ổn thỏa, làm sao lúc tặng vàng khỏi mất đi sự tương kính.

Hai người ăn cơm tối xong, Hồ Phỉ vào phòng mình nằm ngủ. Đến nửa đêm bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng động rất khẽ. Tuy chàng đang lúc mơ ngủ nhưng vẫn giật mình tỉnh giấc. Chàng xoay mình ngồi dậy bước xuống nghe thấy trên nóc nhà có hai người. Hai người kia khẽ vỗ tay một tiếng rồi nhảy xuống.

Hồ Phỉ đứng trước cửa sổ, tự hỏi:

– Hai người này là hạng người nào mà dám lớn mật, không xem ai ra gì như vậy?

Chàng dùng ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn ra ngoài thấy chúng đều mặc trường bào, tay không cầm binh khí, đẩy cửa gian phòng hướng nam tiến vào.

Tiếp theo ánh lửa thấp thoáng, họ đã châm đèn lên. Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Té ra hai người này quen với chủ quán chứ không phải hạng trộm cướp.

Chàng vừa trở về giường nằm lại nghe tiếng giày lạo xạo. Gã điếm tiểu nhị tới cửa phòng lớn tiếng quát hỏi:

– Ai đó? Sao canh khuya không đi cửa lớn mà lại mò vào đây?

Gã vừa hô hoán vừa chạy đến cửa phòng. Chân gã vừa bước lên đã la một tiếng “úi chao”. Tiếp theo nghe “huỵch” một tiếng, rồi có tiếng la:

– Con mẹ nó, nó đánh chết người ta rồi!

Thì ra gã bị người ta hất văng ra, té nhào xuống sân một cái rõ đau. Trận huyên náo này khiến cho bao nhiêu người trong điếm đều tỉnh giấc.

Một trong hai người khách mặc trường bào đứng cửa phòng lớn tiếng hô:

– Chúng ta vâng mệnh Vương đại trại chủ ở núi Kế Công đêm nay đến cướp tiêu, chỉ tìm kiếm Từ tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục. Còn người ngoài không có liên can, hãy mau trở về phòng ngủ đi, để khỏi uổng mạng.

Từ Tranh và Mã Xuân Hoa đã tỉnh giấc rồi, nghe hắn hô vậy bất giác vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm:

– Dù quân cường đạo có lợi hại đến đâu đi nữa cũng không thể ngang nhiên sấn vào khách điếm, Quang Thủy này chẳng phải là địa phương nhỏ bé, mà sao lại có hạng vô pháp vô thiên đến thế? Thật là điều chưa từng thấy.

Từ Tranh lớn tiếng đáp:

– Từ mỗ ở đây. Xin hai vị để tính danh lại.

Người kia cười hô hố đáp:

– Ngươi đem chín ngàn lạng bạc, một cây tiêu kỳ, hai tay dâng cho đại gia là xong, còn hỏi tên họ của đại gia làm gì? Bọn ta đang chờ ngươi phía trước đó.

Dứt lời hắn vỗ tay bốp bốp hai tiếng. Hai người liền phi thân vọt lên nóc nhà. Từ Tranh vung tay phải ném hai mũi cương tiêu lên. Người kia xoay tay lại bắt lấy rồi ném xuống, nghe “bộp” một tiếng, cách mình Từ Tranh chừng một thước, hỏa quang bắn tứ tung. Hai mũi cương tiêu đều cắm vào phiến đá xanh trong sân, kình lực đã mãnh liệt, thủ pháp lại chuẩn đích, Từ Tranh không thể bì kịp. Hai người trên nóc nhà cười hô hố, tiếp theo tiếng vó ngựa vang lên chạy về hướng bắc.

Chủ quán và khách trọ trong điếm chờ cho hai người kia đi rồi mới bàn tán nhao nhao cả lên. Người thì bảo đi báo quan, người thì khuyên Từ Tranh nên đi đường vòng là hơn. Từ Tranh lẳng lặng không nói gì, nhổ hai mũi cương tiêu trở về phòng. Vợ chồng khẽ thương nghị với nhau, đều nhìn nhận hai người kia võ công quả thật bất phàm, nhất định là nhân vật nổi danh trong võ lâm, mà sao lại dòm ngó món tiêu ngân nhỏ này? Tuy hai người biết con đường trước mặt chẳng được yên lành, nhưng theo quy củ thì một khi xe tiêu ra khỏi cửa chỉ tiến chứ chẳng thể quay về, bằng không thì coi như là tự mình hạ chiêu bài dẹp tiệm.

Từ Tranh phẫn hận nói:

– Bọn hắc đạo càng ngày càng khinh người quá lắm. Từ nay chén cơm của chúng ta có còn giữ nổi không? Ta có liều cái mạng này cũng chẳng cần gì nhưng còn hai đứa con…

Mã Xuân Hoa ngắt lời:

– Bọn mình vốn không có thù oán với phe hắc đạo, quá lắm thì chỉ mất bạc là cùng, chứ chưa can hệ gì đến tính mạng, có đưa cả hai đứa nhỏ đi cũng không sao.

Tuy miệng nàng nói vậy mà lòng rất hối hận, vì hiểu rằng không nên cho con nhỏ theo cha mẹ dấn thân vào trường phong ba nguy hiểm trên chốn giang hồ.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đứng cạnh cửa sổ đã nhìn rõ hết, trong lòng rất lấy làm lạ và nhận thấy có nhiều điều mình chưa hiểu được. Hai ngươi đã tưởng sau khi hóa trang là tránh khỏi cuộc truy tung, ngờ đâu ngay ngày đầu tiên đã gặp vụ kỳ quái này của Phi Mã tiêu cục.

Sáng sớm hôm sau, xe tiêu của Phi Mã tiêu cục lên đường. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố lập tức đi theo sau. Từ Tranh thấy hai người thủy chung cứ bám mãi theo xe tiêu liền cho rằng càng đi tới là càng có nhiều điều bất lợi. Gã tưởng hai người này cùng phe với bọn cướp, nên thỉnh thoảng cứ quay lại giương cặp mắt tức giận lên nhìn hai người. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vẫn lờ đi như chẳng thấy.

Đến trưa hai người ăn cơm cùng một quán với bọn Phi Mã tiêu cục. Đi đến lúc xế chiều, còn cách ải Võ Thắng chừng bốn chục dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, có hai người cưỡi ngựa từ phía trước mặt lao tới. Khách kỵ mã mặc trường bào màu xám lướt qua cạnh xe tiêu, đi thẳng đến bên Hồ Phỉ và Trình Linh Tố, sóng vai đi song song với nhau rồi cùng nổi lên tràng cười ha hả, đúng là thanh âm của hai tên bạo khách đêm qua.

Hồ Phỉ nói:

– Cứ chờ cho chúng quay lại rượt theo được vài dặm rồi hãy động thủ.

Chàng chưa dứt lời, lại nghe tiếng vó ngựa phía trước vang lên. Lại hai người cưỡi ngựa lướt qua. Những người trên ngựa đều vũ dũng hiên ngang rõ ràng là các nhân vật võ lâm.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Kỳ quái thật!

Đi chưa được vài dặm, bỗng thấy có hai người cưỡi ngựa chạy ngược chiều đi lướt qua, rồi tiếp theo lại có hai người nữa.

Từ Tranh thấy khí thế cường địch rất mạnh, gã đâm liều, không giận mà lại cười khanh khách nói:

– Sư muội! Ta nghe sư phụ thường nói những đại trại chủ hạng nhất trong lục lâm một khi đã lao sư động chúng là cướp hàng hạng nhất, mà cũng chỉ phái sáu tay hảo thủ đi do thám. Bữa nay cả trước sau có đến tám vị cao nhân, bên cạnh còn có hai âm hồn bất tán bám theo nữa, thì e rằng chuyến bảo tiêu của chúng ta không phải chín ngàn lạng mà là chín trăm vạn hay chín ngàn vạn lạng.

Mã Xuân Hóa không sao đoán được vì lẽ gì địch nhân lại mở cờ giong trống để đối phó với chuyến hàng nhỏ mọn chẳng có chi đáng kể này. Vì càng không hiểu nên lại càng lo lắng, nàng nhìn Từ Tranh và lão chạy cờ nói:

– Lát nữa mà liệu tình thế không ổn thì chúng ta bồng hai đứa nhỏ chạy trốn là việc khẩn yếu. Chín ngàn lạng tiêu ngân cũng chẳng lấy chi làm lớn, mình cứ dành dụm rồi bồi thường sau cũng được.

Từ Tranh ngang nhiên đáp:

– Sư phụ một đời nổi tiếng anh hùng mà để thanh danh tiêu tan trong tay đứa đệ tử bất tài này được ư?

Mã Xuân Hoa buôn rầu đáp:

– Mình cần giữ lấy hai thằng nhỏ đã rồi từ nay quay về làm ruộng, ăn miếng cơm cực nhọc cũng được, chứ không phải động đến đao kiếm và liều mạng thế này.

Nàng nói tới đây bỗng nghe phía sau có tiếng vó ngựa dồn dập, liền quay đầu nhìn thì thấy tám tên kỵ mã từ phía sau lao ngựa tới. Nghe “vù” một tiếng, một mũi tên bay qua đỉnh đầu. Tiếp theo phía trước mặt cũng có tám con ngựa nữa chạy tới.

Hồ Phỉ nói:

– Coi tình thế này thì dường như bọn chúng vì chúng ta mà kéo tới.

Trình Linh Tố gật đầu đáp:

– Bọn Điền Quy Nông!

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta cải trang cũng không xong nên bị nhận ra rồi.

Lúc này phía trước có tám người cưỡi ngựa, phía sau cũng có tám người đồng thời dừng cương đứng lại, bao vây cả tiêu xa lẫn Hồ, Trình vào giữa.

Từ Tranh tung người nhảy xuống ngựa, rút đơn đao ra, chắp tay nói:

– Tại hạ là Từ…

Gã mới nói được mấy tiếng thì một lão già trong tám người kỵ mã phía trước đột nhiên nhảy xuống ngựa, lao thẳng tới, trong tay cầm một thứ binh khí hình thù quái dị, chẳng nói chẳng rằng đánh ngay vào mặt Từ Tranh. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố dừng ngựa đứng bên thấy trong tay lão cầm một thứ binh khí rất cổ quái. Phía trước là một cái đòn ngang uốn cong như con rắn, sau đòn ngang là cán tay cầm hình chữ đinh, hai đầu đòn ngang đều nhọn hoắt giống như cái cày hình mỏ hạc biến dạng ra.

Hồ Phỉ không biết là thứ gì, bèn hỏi Trình Linh Tố:

– Cái đó là cái gì?

Trình Linh Tố chưa kịp đáp thì một tên đại đạo ở phía sau cười rộ, đáp:

– Lão tiểu tử, để ta dạy khôn cho, cái đó gọi là “Lôi chấn đáng”.

Trình Linh Tố nói ngay:

– Lôi chấn đáng mà không dùng chung với thiểm điện chùy thì võ công cũng chỉ bình thường.

Tên đại đạo kia ngẩn người ra không nói năng gì, liếc mắt nhìn Trình Linh Tố bụng bảo dạ:

– Thằng nhỏ ốm tong này mà cũng biết đến thiểm điện chùy ư?

Nguyên lão già sử dụng lôi chấn đáng là sư huynh của tên đại đạo này, còn gã sử dụng thiểm điện chùy. Sư phụ của hai người này tay phải sử thiểm điện chùy, tay trái sử lôi chấn đáng, một tay công một tay thủ, biến hóa vô cùng kỳ điệu. Hai cây binh khí này một ngắn một dài, lúc sử dụng hai tay cùng hỗ trợ, uy lực cực kỳ mãnh liệt, nhưng sử như vậy rất khó khăn nên sư huynh sư đệ gã được sư phụ chia ra truyền thụ cho mỗi người một ngón, thủy chung họ không sử dụng được cả hai cây cùng lúc.

Hai người này ở ngoài quan ải từ thuở nhỏ, vào đến Trung nguyên chưa được bao lâu. Cây thiểm điện chùy gã lại giấu trong tay áo chưa lấy ra, không ngờ Trình Linh Tố nói rõ lai lịch khiến gã không giấu được vẻ kinh ngạc. Gã có ngờ đâu Vô Sân đại sư, sư phụ của Trình Linh Tố kiến văn rất quảng bác. Ngày thường ông hay giảng cho cô tiểu đồ đệ yêu về võ công các gia phái, nên cô dù chưa thấy cây lôi chấn đáng nhưng vừa nghe tên đã biết ngay phải có cây thiểm điện chùy đi theo.

Lão già kia vung binh khí cho bật lên những tiếng ầm ầm như sấm nổ, quả nhiên uy thế kinh người. Đao pháp của Từ Tranh tuy không đến nỗi yếu kém, nhưng gã bị cây lôi chấn đáng khống chế, dần dần không còn có thể triển khai bản lĩnh được nữa.

Bỗng nghe mười lăm tên đại đạo cả mặt trước mặt sau, mỗi người nói một câu, cùng lên tiếng chế nhạo:

– Cái gì mà Phi Mã tiêu cục? Ngày trước Mã lão tiêu đầu đi bảo tiêu mới dùng đến hai chữ “Phi Mã”, chứ đến tay gã họ Từ kia thì nên đổi thành “Cẩu Ba tiêu cục” là hơn!

– Thằng lỏi này học được mấy miếng võ mèo quào sao không ở nhà ẵm con, còn đi giương mặt ra với đời làm gì?

– Này, gã họ Từ kia! Mau chạy lại dập đầu ba cái thì bọn đại ca chúng ta sẽ tha cho cái mạng chó của ngươi.

– Bảo tiêu gì mà ngu xuẩn thế, có chín ngàn bạc cũng lãnh. Sao bằng đi bán đậu hũ còn hay hơn!

– Thần quyền vô địch Mã lão tiêu đầu ngày trước oai danh lừng lẫy trong võ lâm chẳng ai là không kính phục, không ngờ thằng lỏi bị thịt này không bì nổi sư phụ.

– Ta coi vợ gã còn giỏi hơn gã gấp mười lần. Thật là bông hoa lài cắm bãi phân trâu, khiến người ta nhìn vào phải nổi nóng!

Hồ Phỉ nghe bọn chúng mồm năm miệng mười, nhao nhao thóa mạ cảm thấy bọn cường đạo này biết rất rõ gốc gác của Từ Tranh. Chẳng những chúng hiểu rõ cả lai lịch sư thừa mà còn biết gã lãnh món hàng bao nhiêu bạc nữa. Chúng nhục mạ Từ Tranh bằng những lời lẽ cực kỳ khắc bạc, nhưng lại không hề mảy may xúc phạm tới Mã Xuân Hoa cùng phụ thân quá cố của nàng, thậm chí chúng còn tỏ ra rất tôn kính nữa.

Hồ Phỉ dù chưa hề biết tới lôi chấn đáng, nhưng thấy lão già kia công lực rất thâm hậu mà ra tay vừa tàn độc lại vừa chuẩn xác, bất giác tự nhủ:

– Lão này tuy chưa thể là hạng nhất lưu cao thủ trên chốn giang hồ, nhưng võ công của lão như vậy thì nhất định là một nhân vật thành danh. Xem hành động của bọn này thì chắc chắn không phải vì món tiêu ngân chín ngàn lượng nhỏ xíu này. Nhưng nếu bọn chúng do Điền Quy Nông phái tới để làm khó dễ cho ta, thì việc gì phải hao phí sức lực để đối phó với Từ Tranh?

Mã Xuân Hoa đứng bên, trong lòng rất đỗi bồn chồn. Nàng đã sớm biết chồng mình không phải là đối thủ của bọn kia, nhưng nàng có xông vào trợ lực thì giỏi lắm cũng chỉ đẩy lui được một tên địch, chẳng những không ích gì cho cuộc đấu, mà để hai đứa con không người chiếu cố tất lọt vào tay bọn cướp. Nàng đành giương mắt nhìn thấy chồng mỗi lúc một đi dần vào chỗ nguy khốn.

Đột nhiên lão già kia phóng nhanh binh khí hình con rắn về phía trước rồi xoay một vòng khiến thanh đơn đao của Từ Tranh tuột khỏi tay bay lên, Mã Xuân Hoa liền la hoảng lên một tiếng. Lão già đưa chân quét ngang một cái, Từ Tranh vội nhảy lên né tránh. Giữa lúc ấy thanh đơn đao từ trên không rớt xuống. Một tên trong bọn cướp cưỡi ngựa vung thanh trường kiếm chém một cái. Thanh cương đao lập tức đứt làm hai đoạn. Thân thủ hắn rất mau lẹ, lại khoa kiếm quét hai nhát, hai đoạn đao gãy chưa kịp rơi xuống đất đã bị chặt gãy thành bốn đoạn. Chẳng những thanh bảo kiếm trong tay hắn cực kỳ sắc bén mà hắn ra tay vô cùng thần tốc khiến người nhìn thấy phải lóa mắt. Bọn cường đạo hoan hô ầm ĩ cả lên.

Xem tình thế lúc này thì việc đối phó với Từ Tranh để chặn đường cướp tiêu chỉ là một trò đùa. Chỉ một tên đại đạo tay cầm trường kiếm cũng thừa sức đánh bại hai vợ chồng Từ Tranh, huống chi cả bọn mười sáu người có vẻ đều là cao thủ? Bọn chúng tên nào cũng cười nói ung dung, chẳng khác gì mười sáu con mèo lớn nhằm bắt bốn con chuột nhắt, chúng muốn giỡn chơi rồi mới chia nhau ăn thịt.

Từ Tranh cặp mắt đỏ ngầu, hai tay vung lên, thi triển toàn những chiêu quyền thí mạng, nhưng thanh lôi chấn đáng của lão già kia dài hơn bốn thước thì gã làm sao sấn vào gần được? Sau mấy chiêu bỗng nghe đánh “toạc” một tiếng. Mũi lôi chấn đáng đã xả rách ống quần của Từ Tranh. Máu tươi ở đùi chảy ra lênh láng, Tiếp theo lại nghe đánh “binh” một tiếng, vai trái của Từ Tranh lại bị trúng cây lôi chấn đáng. Lão già liền phóng cước đá Từ Tranh ngã lăn xuống đất.

Lão giẫm chân lên người Từ Tranh cười nhạt nói:

– Ta không cần giết ngươi mà chỉ cần phế bỏ mấy chiêu thức vừa rồi của ngươi, để phạt ngươi cái tội có mắt không tròng, hồ đồ quá đáng.

Từ Tranh vừa khiếp sợ lại vừa phẫn nộ, uất khí xông lên nghẹn cổ không nói ra lời.

Mã Xuân Hoa la lên:

– Các bạn hữu muốn lấy tiêu thì lấy đi là xong. Giữa chúng ta cùng các vị ngày trước chẳng có oán, gần đây cũng không có thù, hà tất phải đuổi cùng giết tận?

Tên đại đạo sử dụng trường kiếm đáp:

– Mã cô nương, cô nương là người tốt, bất tất can thiệp vào việc không đâu này.

Mã Xuân Hoa hỏi:

– Sao lại bảo can thiệp vào việc không đâu? Y là chồng của tiện thiếp mà.

Lão già sử lôi chấn đáng đáp:

– Bọn lão phu nhận thấy gã không xứng đáng chút nào. Một người tài mạo song toàn như Mã cô nương mà phải chịu ủy khuất, khiến bọn tại hạ phải bôn ba từ xa xôi vạn dặm tới đây. Cái đó gọi là ôm mối bất bình mà không giải tỏa là không được!

Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố càng nghe càng lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Quân đại đạo này xen vào việc vợ chồng nhà người ta mà lại bảo can thiệp vào chuyện bất bình, quả thật buồn cười.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, khoé mắt đều có ý cười thầm. Giữa lúc ấy lão già vung cây lôi chấn đáng lên đâm vào mặt Từ Tranh. Mã Xuân Hoa la lên một tiếng, chạy lại trợ lực. Bỗng nghe “vèo” một tiếng, một tên đại đạo phóng cây hoa thương từ trên cao đâm xuống để ngăn nàng lại.

Hai đứa nhỏ la hoảng:

– Gia gia!

Rồi chúng chạy đến bên Từ Tranh.

Đột nhiên bóng xám thấp thoáng, lão già kia thấy cổ tay tê chồn, vội xoay cây lôi chấn đáng nghinh địch, nhưng bỗng thấy cánh tay nhẹ hẫng, té ra binh khí trong tay không hiểu đã biến đi đằng nào. Lão vừa giận vừa sợ ngửng đầu lên nhìn thì bóng xám đã nhảy lên mình ngựa. Binh khí độc môn của lão là cây lôi chấn đáng người kia đã đoạt mất và đang múa thành những vòng bạch quang lấp loáng. Người xông tới chớp nhoáng, và chỉ trong nháy mắt đã lên ngựa xuống ngựa, lại tay không đoạt lấy cây lôi chấn đáng của lão chính là Hồ Phỉ.

Quần đạo nhìn nhau kinh hãi. Chỉ trong khoảnh khác, tất cả đều yên lặng như tờ, chẳng ai nói một câu. Diễn biến trước mắt khiến mọi người ngẩn cả người ra. Sau một lúc mới nghe tiếng quần đạo hô hoán vung đao chống trượng chạy về chỗ Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ quát lớn:

– Trên tờ giấy là chữ “cáp” phải không? Gió gấp lên, hãy xé toang ra, cửa hoa mau vào lọ cổ, con thỏ ba đao hãy đến đây, râu tóc hãy xổ tung ra. Tài thần Bồ Tát thượng sơn!

Bọn đạo tặc lại thêm một phen sửng sốt, nghe chàng đọc thần chú không ra thần chú, không hiểu bảo xé toang cái gì. Lão già bị đoạt lôi chấn đáng cả giận hỏi:

– Bằng hữu! Bằng hữu ở phe phái nào? Dấn thân vào chỗ nước đục này làm chi?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ chuyên làm nghề buôn bán không vốn, thấy chín ngàn lạng tiêu ngân của Phi Mã tiêu cục dễ ăn nên đi theo. Ai ngờ dọc đường lại chạm trán mười sáu vị Trình Giảo Kim. Các vị đòi chia phần, hỏi ai mà chẳng đau lòng?

Lão già cười lạt nói:

– Hừ! Bằng hữu đừng giả vờ nữa. Muốn tử tế thì hãy lưu danh tính lại.

Từ Tranh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, vội lại dắt hai đứa nhỏ. Mã Xuân Hoa đứng bên gã, dương cặp mắt nhìn sững Hồ Phỉ. Trong lúc nhất thời nàng chưa nhìn rõ trước mắt đã xảy ra chuyện gì. Nàng cứ ngỡ Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng là phường trộm cướp, ngờ đâu chàng lại sinh sự với lão già kia.

Bỗng thấy Hồ Phỉ đưa tay lên vuốt chòm râu trên mép, ngậm cây dọc tẩu, nói:

– Thần quyền vô địch Mã Hành Không là sư đệ ta. Đây là việc của sư điệt, lão nhân gia đây chẳng thể không can thiệp.

Hồ Phỉ vừa nói câu này, Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Vị sư bá này ở đâu ra? Ta chưa từng nghe gia gia nói đến bao giờ, vả lại người này nhỏ tuổi hơn gia gia nhiều, sao lại làm sư bá ta được?

Trình Linh Tố đứng một bên coi chàng làm bộ làm tịch không nhịn được phải bật cười. Có điều cô thấy chàng đứng trước mặt đại địch, thân bị hãm vào trùng vây mà vẫn cười nói tự nhiên thì không khỏi khâm phục chàng là một tay gan dạ.

Lão già kia bán tín bán nghi hừ một tiếng, rồi hỏi:

– Tôn giá là sư huynh của Mã lão tiêu đầu ư? Về tuổi tác thì dường như chẳng phải mà bọn tại hạ chưa từng nghe nói Mã lão tiêu đầu có vị sư huynh nào cả.

Hồ Phỉ đáp:

– Sư môn ta không kể tuổi nhiều tuổi ít, chỉ xét ai nhập môn trước mà thôi. Mã Hành Không là nhân vật cỡ nào mà ta phải mạo xưng làm sư huynh của y?

Trong võ lâm, nhiều môn phái có quy củ hễ ai nhập môn trước là sư huynh. Lão già kia liền đưa mắt nhìn Mã Xuân Hoa để dò xét thái độ của nàng, rồi quay lại hỏi Hồ Phỉ:

– Lão phu vẫn chưa thỉnh giáo tôn tính đại danh của tôn giá?

Hồ Phỉ ngửa mặt lên trời đáp:

– Sư đệ ta là Thần quyền vô địch Mã Hành Không, tại hạ là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền.

Câu này hiển nhiên là lời bịa đặt để nhạo người. Lão già thấy chàng tay không đoạt khí giới của mình nên mới đối đáp với chàng mấy câu, nếu không thì đã động thủ rồi. Bản tính lão cực kỳ nóng nảy, lại nghe bà chữ “Ngưu Canh Điền” thì không nhịn được nữa, liền gầm lên một tiếng, rồi xông tới Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ giật cương ngựa né tránh, cây lôi chấn đáng rung động, lão già trong tay đột nhiên có một vật, liền giơ lên nhìn, thì ra là cây lôi chấn đáng của mình. Vật về chủ cũ, đáng lẽ lão hân hoan mới đúng, nhưng đằng này không phải lão tự đoạt mà lại do đối phương nhét vào tay, khiến lão chưa nhìn rõ, binh khí đã trở về tay một cách lạ lùng.

Quần đạo đồng thanh hoan hô:

– Chử đại ca bản lãnh tuyệt diệu!

Chúng đều tưởng lão dùng công phu “Không thủ nhập bạch nhẫn” để đoạt lại binh khí. Lão họ Chử tự biết rõ sự việc khác nào nuốt phải bồ hòn miệng ngậm đắng mà không nói ra dược.

Lão sửng sốt hỏi:

– Tôn giá can thiệp vào vụ này rốt cuộc để làm gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Lão huynh đây đã nói rồi. Vợ chồng tệ sư điệt đang sống êm ấm, việc gì các vị lại phải can thiệp vào chuyện bất bình?

Lão già họ Chử nói:

– Can thiệp vào chuyện không đâu chẳng lợi ích gì cho tôn giá. Tại hạ có lời khuyên tôn giá nên đường ai nấy đi là hơn!

Quần đạo rất đỗi ngạc nhiên tự hỏi:

– Chử đại ca bình nhật nóng như lửa mà sao bữa nay lại đằm tính thế?

Hồ Phỉ cười khanh khách đáp:

– Các hạ nói đúng lắm. Dính dáng vào việc người là điều vô ích. Chúng ta cứ ai đi đường nấy. Xin mời!

Lão già họ Chử lùi lại ba bước quát:

– Tôn giá đã không chịu nghe lời nói phải, có phải muốn bắt buộc tại hạ phải lãnh giáo mấy cao chiêu?

Lão nói rồi đưa cây lôi chấn đáng che trước ngực.

Hồ Phỉ nói:

– Đơn đả độc đấu thì có gì là thú vị? Nhưng nhiều người quá cũng rối beng bất tiện. Bây giờ thế này, một mình Ngưu Canh Điền đấu với ba vị.

Dứt lời chàng cầm cái dọc tẩu trỏ vào hán tử cầm trường kiếm, lại trỏ vào tên sư đệ của lão già.

Hán tử sử kiếm tướng mạo hiên ngang, thái độ ngạo mạn, ngửa mặt lên trời, cười nói:

– Lão tiểu tử kia thật là cuồng vọng.

Nhưng lão họ Chử đã biết Hồ Phỉ không phải hạng dễ ăn. Nếu đơn đả độc đấu với chàng thì không nắm chắc được phần thắng. Nay chàng đã tự nguyện khiêu chiến với cả ba người là một điều mong còn không được, lão liền hô:

– Nhiếp hiền đệ! Thượng Quan sư đệ! Y đã tự chuốc lấy cái chết thì không oán ai được nữa. Vậy ba chúng ta cùng bỡn với y một phen.

Hán tử họ Nhiếp không thích, đáp:

– Xem chừng lão tiểu tử kia đâu phải là đối thủ của Chử đại ca? Đâu cần phải đến hai huynh đệ của đại ca cùng ra tay, hãy để anh em chiêm ngưỡng tuyệt kỹ “Lôi điện giao tác” ngoài quan ải.

Quần đạo hoan hô như sấm dậy.

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Hạng người ít tuổi thành ra nhỏ mật. Đáng tiếc ơi là đáng tiếc!

Hán tử họ Nhiếp giương cặp mày dài, nhảy xuống ngựa, khẽ nói:

– Xin Chử đại ca hãy lùi lại, để một mình tiểu đệ cho tên cuồng đồ này một bài học.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Ngươi muốn cho Oa quyền vô địch Ngưu Canh Điền ta một bài học cũng được, nhưng ta cần nói trước: Nếu ta thua ngươi, thì ngươi muốn giết muốn mổ thế nào tùy ý, nhưng nếu tiểu huynh đệ lỡ tay thất bại thì làm thế nào?

Hán tử họ Nhiếp cười lạt đáp:

– Đó là ngươi cuồng tâm vọng tưởng, mơ mộng hão huyền.

Hồ Phỉ mỉm cười nói:

– Biết đâu nhờ trời giúp đỡ, tiểu huynh đệ nhà ngươi có mệnh hệ gì thì làm thế nào?

Hán tử họ Nhiếp quát lên:

– Ai thèm nói nhăng nói cuội với ngươi? Nếu ta thua thì để tùy lão tiểu tử ngươi xử trí.

Hồ Phỉ nói:

– Tùy ý xử trí thì không dám, tại hạ chỉ xin các vị khoan hồng đại lượng đừng xen vào việc nhà của vợ chồng tệ sư điệt, còn mối bất bình đó, bọn ta đừng để tâm tới nữa là xong!

Gã họ Nhiếp không nhẫn nại được nữa, hắn vung trường kiếm lên, hàn quang lấp lánh, quát lớn:

– Cứ thế là được!

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn bọn cường đạo hỏi:

– Lời của Nhiếp gia tiểu huynh đệ đây có thể tin được chăng? Nếu y thua thì các vị có can thiệp vào chuyện bất bình này hay không?

Trình Linh Tố nghe tới đây không nhịn được nữa phải phì cười. Cô nghĩ đến Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi mà cứ mở miệng ra là gọi người ta một điều tiểu huynh đệ, hai điều tiểu huynh đệ, không cho bọn kia vì cái vụ “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” mà huy động đông người đến can thiệp, thì chuyện này thật tức cười, nhưng chàng lại nhúng tay vào vụ này một cách ngang ngược thì quả là điều ngoài sức tưởng tượng.

Quần đạo vốn biết hán tử họ Nhiếp kiếm thuật tinh kỳ, trong tay lại có bảo kiếm chặt sắt như cắt bùn. Nếu hắn ra tay đấu với lão già nhà quê lún phún râu trê kia thì nhất định sẽ thắng. Bọn chúng đi chuyến này chẳng qua là một cuộc mua vui, giữa đường lại gặp được trận đấu cực kỳ thú vị thế này thì đúng là cầu còn chẳng được, bèn nhao nhao lên đáp:

– Lão lún phún râu trê kia mà thắng y một chiêu nửa thức là bọn ta phủi đít đi ngay, cái chuyện bất bình này nhất định không can thiệp nữa!

Hồ Phỉ nói:

– Lời các vị toàn nói tiếng người thì nhớ giữ lấy lời. Còn việc có can thiệp vào chuyện bất bình được không thì hãy xem chút bản lĩnh của lão gia ta đây.

Đột nhiên chàng cầm dọc tẩu cài vào cổ áo, tung mình xuống ngựa lóng cóng suýt té. Quần đạo nghe chàng hô “Coi chiêu đây!”, lại thấy chàng vung dọc tẩu lên đều tưởng chàng dùng nó làm binh khí, không ngờ chàng lại cắm vào cổ áo, rồi thấy chàng nhảy xuống ngựa, thân pháp rất vụng về khiến mười lăm tên đại đạo đứng coi thì mười ba tên phải cười ồ lên.

Hán tử họ Nhiếp quát hỏi:

– Lão tiểu tử kia dùng binh khí gì sao không lấy ra?

Hồ Phỉ đáp:

– Trâu cày ruộng chỉ quen dùng lưỡi cày! Chử đại trại chủ! Vật đại trại chủ cầm trong tay cũng có cái đó giống cái lưỡi cày, hãy cho tại hạ mượn đỡ.

Chàng vừa nói vừa xòe tay về phía lão già họ Chử để mượn cây lôi chấn đáng. Lão già vẫn có lòng úy kỵ Hồ Phỉ, vội lùi lại hai bước, tức giận đáp:

– Không được! Xem chừng tôn giá không biết sử dụng:

Hồ Phỉ vẫn xòe bàn tay phải giữ nguyên tư thế xin đồ vật, hỏi tiếp:

– Cho mượn một chút thì đã hề gì?

Đột nhiên chàng vươn tay trái ra, lão già kia vung cây đáng lên đỡ, không hiểu tại sao chỉ còn tay không. Cây lôi chấn đáng đã lọt vào tay Hồ Phỉ rồi.

Lão già cả kinh nhảy lùi lại hơn trượng, da mặt co rúm như người thấy quỷ mị. Nên biết công phu “Không thủ đoạt bạch nhận” của Hồ Phỉ là một tuyệt kỹ mà viễn tổ chàng là Phi Thiên Hồ Ly đã dày công nghiên cứu. Ngày trước Phi Thiên Hồ Ly phò tá Sấm vương Lý Tự Thành dấy binh đánh thiên hạ, nhờ bản lãnh này mà đã đoạt được không biết bao nhiêu binh khí trong tay các anh hùng hảo hán. Thật là một tuyệt kỹ biến ảo vô cùng, thần xuất quỷ nhập kỳ dị tuyệt luân. Bốn chữ “Phi Thiên Hồ Ly” quá nửa là từ đó mà ra.

Hán tử họ Nhiếp thấy Hồ Phỉ đã có binh khí trong tay, liền cầm kiếm đâm vào sau lưng chàng. Hồ Phỉ nghiêng mình tránh, cầm đáng xoay lại phản kích, từ mé tả đánh hất lên, cây lôi chấn đáng xoay một vòng rồi đâm ngang. Lão họ Chử nhìn thấy miệng há hốc ra không ngậm lại được.

Nguyên những chiêu số Hồ Phỉ sử dụng đúng là những chiêu thuộc về sáu mươi tư đường “Oanh thiên lôi chấn đáng pháp” mà lão đã được sư phụ đích thân truyền thụ, chẳng sai một chút nào. Sư đệ lão họ Thượng Quan lại càng kinh ngạc vì hắn nghe rõ Hồ Phỉ không hiểu cả cái tên lôi chấn đáng là gì, mà lúc sử đáng lại giống hệt sư ca.

Hai người đâu ngờ rằng Hồ Phỉ đã có một căn bản rất sâu xa về võ công, lại thông minh tuyệt đỉnh. Chàng vừa coi lão già đấu với Từ Tranh đã thuộc lòng mọi chiêu số. Huống chi những chiêu số chàng sử dụng tuy giống về hình thức, nhưng cách vận dụng kình lực và biến hóa bên trong lại hoàn toàn chẳng có liên can.

Hán tử họ Nhiếp không dám khinh thường nữa, đường kiếm nhẹ nhàng linh hoạt và thân thủ cũng di chuyển mau lẹ. Hồ Phỉ dùng binh khí đã không thuận tay, lại muốn làm lóa mắt mọi người, từng chiêu số sử dụng đúng như võ công của lão già họ Chử nên càng bị câu thúc. Chàng thấy thanh trường kiếm của đối phương phóng ra hàn quang lấp loáng, kiếm pháp cũng không phải tầm thường.

Hồ Phỉ vừa đánh vừa nghĩ:

– Xem chừng mười sáu địch nhân đều là tay chẳng vừa, nếu họ xông cả vào thì dù ta cùng nhị muội có thể thoát thân được, nhưng cả nhà Từ Tranh bốn người tất bị tai họa. Mình cần thắng gã này để bọn họ không động thủ được mới là thượng sách.

Đột nhiên trường kiếm của địch nhân bổ xuống, chàng biết là không ổn, đang nghĩ cách biến chiêu thì đã nghe “choang” một tiếng. Một đầu cây lôi chấn đáng bị lưỡi kiếm chặt đứt. Quần đạo thấy cử chỉ của Hồ Phỉ có vẻ tà môn, trong lòng không khỏi hồi hộp, đột nhiên thấy hán tử họ Nhiếp thắng lợi liền đồng thanh hoan hô. Hán tử họ Nhiếp phấn khởi tinh thần, tiến dần lên từng bước đánh rất rát.

Hồ Phỉ học được mấy chiêu vẻ đáng pháp cúa lão họ Chử đã sử hết rồi, liền thầm nghĩ nếu còn đánh thế này mãi tất bị lộ tẩy. Chàng thấy lôi chấn đáng bị hớt một đầu, trong lòng chợt nảy ra một ý, liền xoay đáng lại, đâm chênh chếch tới. Địch nhân chuyển trường kiếm một vòng. Lại một tiếng “choang” nữa vang lên. Đầu kia cây đáng bị hớt nốt.

Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm! Ngươi đã không nể mặt Chử đại gia, phá hủy cây binh khí đã thành đanh của y thì thật chẳng còn tình bằng hữu chi nữa!

Hán tử họ Nhiếp ngớ người vì hắn nghĩ lời nói của đối phương rất có lý.

Đột nhiên lại thêm một tiếng “choang” vang lên. Hồ Phỉ cầm nửa cây đáng gãy đập vào lưỡi kiếm. Trong tay chàng chỉ còn một khúc ngắn dài chừng hơn thước. Chàng lại hô lớn:

– Biết sử lôi chấn đáng mà không sử được thiểm điện chùy thì võ công cũng tầm thường thôi.

Chàng nói rồi cầm khúc đuôi cây đáng đâm ra như đang sử cây “phá giáp chùy”. Tên đại đạo họ Thượng Quan nghe chàng nói tới thiểm điện chùy thì không khỏi kinh hãi, nhưng thấy chàng đi mấy đường chùy quét ngang đâm thẳng hoàn toàn không đúng cách mới hơi yên dạ.

Gã cười ha hả, hỏi:

– Thiểm điện chùy đó thuộc môn phái nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Chùy pháp của các hạ không đúng, của tại hạ mới đúng.

Chàng nói rồi lại phóng cây đáng đâm liền mấy nhát. Kỳ thực ngoài thanh đơn đao ra chàng chẳng biết sử dụng một món binh khí nào khác. Chùy pháp chàng sử dụng chỉ là đồ giả, điểm lợi hại toàn nằm ở tay trái, khi đánh gần thì tay trái vung ra như lưỡi câu để khống chế đối phương. Cái đó đúng là “gần một tấc thì nguy hiểm một tấc”.

Gã họ Nhiếp tuy có lợi kiếm trong tay nhưng không cản trở được cây đáng, gã bị Hồ Phỉ tấn công phải lùi lại liên tục. Chợt gã rú lên một tiếng, cả hai người đồng thời nhảy lùi lại. Bỗng thấy trước mặt Hồ Phỉ ánh tinh quang lấp loáng, thanh bảo kiếm đã lọt vào tay chàng. Hồ Phỉ quỳ chân trái xuống lượm một tảng đá bên đường nặng chừng hai chục cân. Tay phải chàng cầm kiếm, mũi kiếm chấm đất, thân kiếm nằm chếch ngang, tay trái cầm tảng đá gơ cao lên cười nói:

– Lưỡi bảo kiếm này cực kỳ sắc bén, tại hạ thử đập mấy cái xem có gãy không?

Chàng nói rồi làm bộ như dùng tảng đá lớn đập vào thân kiếm. Kiếm trong thiên hạ dù có sắc bén đến đâu đi nữa, nhưng hễ dùng đá đập ngang vào thân thì tất nhiên phải gãy.

Hán tử họ Nhiếp quý thanh bảo kiếm này hơn cả tính mạng, nhìn thì tình trạng này cả kinh thất sắc, la lên:

– Tại hạ xin chịu thua là xong.

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ thấy thanh kiếm này rất tốt, đập một cái vị tất đã gãy?

Chàng nói xong, lại giơ cao tảng đá lên. Hán tử họ Nhiếp lớn tiếng la:

– Tôn giá có thích thì cứ lấy đi, đừng làm hư hại báu vật.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Gã này quả là người có tình. Chẳng thà để kiếm lọt vào tay địch chứ không muốn để kiếm gãy.

Rồi chàng cười hì hì, hai tay cầm bảo kiếm nâng lên đưa tới trước mặt nói:

– Tiểu đệ vô lễ, thật là đắc tội.

Hán tử họ Nhiếp hoàn toàn không ngờ tới điều này. Gã yên trí dù Hồ Phỉ không hủy thanh kiếm thì cũng lấy đi. Nên biết thanh lợi kiếm thế này là vật hiếm có trong đời, có được thanh kiếm này khác nào công phu được tăng thêm gấp bội, người trong võ lâm ai lại chẳng thích điều này? Gã liền đưa tay ra đón lấy nói:

– Đa tạ! Đa tạ!

Trong lúc thảng thốt, vẻ mặt gã không giấu được nỗi hớn hở vui mừng. Hồ Phỉ biết đêm dài lắm mộng, không nên chần chờ, liền xoay người nhảy lên mình ngựa, nhìn quần đạo, chắp tay nói:

– Đa tạ các vị huynh đài đã nương tay. Tiểu đệ xin có lời cảm tạ.

Chàng nói mấy câu đó cực kỳ thành khẩn, rồi quay sang Từ Tranh và Mã Xuân Hoa giục:

– Đi thôi!

Vợ chồng Từ Tranh chưa hết kinh hãi, vội chạy lại tiêu xa, tung mình lên ngựa đi ngay. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đi sau áp tải, không quay mặt nhìn vì sợ lại sinh chuyện, tai còn nghe quần đạo nói nhỏ thương nghị với nhau, nhưng chúng không phóng ngựa đuổi theo. Bốn người đi một mạch hơn mười dặm, thủy chung vẫn không thấy bọn cường đạo truy kích. Từ Tranh dừng ngựa lai nói:

– Tôn giá ra tay giải cứu, tại hạ vô cùng cảm kích, nhưng sao lại mạo nhận là sư bá của tại hạ?

Hồ Phỉ nghe giọng nói của gã có ý trách móc, liền mỉm cười đáp:

– Thuận miệng mà nói vậy thôi. Xin huynh đệ miễn trách.

Từ Tranh nói:

– Tôn giá dán hai chòm râu vào, rồi gặp ai cũng kêu huynh đệ, như vậy không khỏi mang tiếng là khinh thường thiên hạ.

Hồ Phỉ ngạc nhiên không ngờ con người lỗ măng như gã mà cũng nhận ra.

 Trình Linh Tố khẽ nói:

– Chắc vợ gã nhận ra chỗ sơ hở.

Hồ Phỉ gật đầu, chú ý nhìn Mã Xuân Hoa, thầm nghĩ:

– Nàng đã nhìn ra chòm râu giả, nhưng không hiểu đã nhận ra ta là ai chưa?

Từ Tranh thấy thái độ chàng như vậy liền cho là chàng thấy vợ gã xinh đệp nên cứ bám theo hoài, hẳn là có ý đồ bất chính. Gã bị quần đạo vũ nhục đủ điều, tâm trí thất thường, chỉ muốn chết cho xong, thấy ai cũng là thù nghịch bèn lớn tiếng quát:

– Các hạ võ nghệ cao thâm, có muốn giết ta thì hạ thủ đi!

Dứt lời gã cúi xuống, rút lấy thanh đơn đao đeo bên hông lão chạy cờ, dừng ngựa cầm ngang đao, ngạo nghễ nhìn Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không hiểu tâm tình toan giải thích, bỗng nghe sau lưng có tiếng vó ngựa dồn dập phi tới.

Một người cưỡi con khoái mã đang lao vun vút tới. Con ngựa này tuy không phải là loại thần tuấn như bạch mã của Viên Tử Y, nhưng cũng là một loại danh câu. Chỉ trong khoảnh khắc nó đã chạy lướt ngang bên đội xe tiêu. Hồ Phỉ nhanh mắt nhận ra người ngồi trên ngựa là một trong mười sáu tên đại đạo.

Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta đi thôi, chẳng hơi đâu mà can thiệp vào chuyện bất bình.

Không ngờ câu này làm xúc động lòng đố kỵ của Từ Tranh, mắt gã long lên sòng sọc, phóng ngựa tới toan liều mạng. Mã Xuân Hoa vội la lên:

– Sư ca! Sư ca hồ đồ nữa rồi!

Từ Tranh ngẩn người ra. Trình Linh Tố cầm roi quất vào mông ngựa của Hồ Phỉ, cả hai con vọt về hướng bắc.

Hồ Phỉ quay lại la lớn:

– Mã cô nương! Còn nhớ chuyện Thương gia bảo không?

Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, miệng lẩm bẩm:

– Thương gia bảo! Thương gia bảo! Sao ta lại không nhớ?

Nàng rúng động tâm thần, mơ màng nghĩ lại chuyện cũ. Nhưng trong đầu óc chẳng có chút gì hình ảnh Hồ Phỉ, mà chỉ tơ tưởng tới một người sang trọng thanh nhã khác là vị công tử gia…

Hồ, Trình hai người đi được ba, bốn dặm, Trình Linh Tố nói:

– Đại ca, bọn can thiệp chuyện bất bình lại rượt theo rồi.

Hồ Phỉ đã sớm nghe thấy tiếng ngựa dồn dập trên đường, cả thảy có đến mười mấy con. Chàng đáp:

– Nếu phải động thủ thật sự thì chúng ta ít người không địch nổi số đông, lại không hiểu bọn này lai lịch thế nào?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội coi bọn chúng chưa hẳn đã là cường đạo.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Vụ này có nhiều điểm rất cổ quái mà trong lúc nhất thời mình không nghĩ ra được.

Giữa lúc ấy một trận gió tây cuốn tới trên đường, trong tiếng gió nghe cả tiếng binh khí chạm nhau. Hồ Phỉ kinh hãi nói:

– Chúng đuổi tới nơi rồi.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội coi tâm ý bọn chúng thì Mã cô nương chắc không có điều gì đáng ngại. Bọn họ cũng không hại mạng Từ Tranh đâu, bất quá cũng chỉ để cho gã nếm mùi đau khổ.

Hồ Phỉ suy nghĩ nát óc, chau mày nói:

– Tiểu huynh thật không sao hiểu được.

Giữa lúc ấy nghe tiếng vó ngựa vang lên chạy chếch về hướng tây bắc chứ không phải trên đường lớn. Đồng thời văng vẳng có tiếng phụ nữ kêu gào vọng lại. Hồ Phỉ cho ngựa chạy lên cái gò nhỏ bên đường, đưa mắt nhìn ra xa thì thấy hai tên đại đạo cưỡi khoái mã, mỗi tên ôm một đứa nhỏ.

Mã Xuân Hoa chạy bộ rượt theo, đầu tóc rũ rượi, có vẻ như đang gào lên:

– Trả con cho ta! Trả con cho ta!

Vì cách xa quá nên nghe không rõ. Hai tên đại đạo giơ binh khí lên, đột nhiên chia ra chạy theo hai ngả. Mã Xuân Hoa đứng thộn mặt ra, cả hai đứa nhỏ đều là cốt nhục, nên nhất thời nàng không biết phải chạy theo hướng nào.

Hồ Phỉ thấy thế cả giận nghĩ thầm:

– Bọn cường đạo này ác độc quá chừng.

Chàng gọi lớn:

– Nhị muội! Chạy nhanh lên!

Chàng biết mình ít người không địch nổi số đông, nếu nhúng tay vào thì vụ này rất nguy hiểm. Nhưng đã thấy chuyện bất bình rồi thì chẳng thể không can thiệp. Chàng liền phóng ngựa rượt theo, có điều quãng cách quá xa mà ngựa chàng lại không chạy nhanh bằng hai con khoái mã của bọn đại đạo, nên khi chàng tới cạnh Mã Xuân Hoa thì hai tên đại đạo bồng hai đứa nhỏ chạy mất hút không biết về hướng nào.

Mã Xuân Hoa đứng ngây người, không khóc nổi nữa.

Hồ Phỉ la lên:

– Mã cô nương đừng nóng nảy. Tại hạ nhất định giúp cô nương đoạt hai đứa về cho.

Đúng ra phải gọi là “Từ phu nhân”, nhưng trong lòng Hồ Phỉ chỉ có ấn tượng về “Mã cô nương” nên cứ thuận miệng mà gọi như thế chứ không đổi được.

Mã Xuân Hoa nghe nói, tinh thần phấn khởi, muốn quỳ ngay xuống. Hồ Phỉ vội nói:

– Không cần phải đa tạ. Từ huynh đâu rồi?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiện thiếp rượt theo hài tử, y bị người ta bao vây.

Trình Linh Tố phóng ngựa chạy đến bên Hồ Phỉ, nói:

– Mặt bắc lại có địch nhân.

Hồ Phỉ hỏi:

– Có phải địch nhân không?

Chàng nhìn qua hướng bắc quả thấy cát bụi tung bay, lại tám, chín, ngựa chạy tới. Hồ Phỉ nói:

– Địch nhân cưỡi toàn ngựa tốt, chúng ta không tránh được, hãy tìm một chỗ ẩn thân trước đã.

Chàng đảo mắt nhìn ra bốn phía toàn đồng không mông quạnh, chẳng có chỗ nào ẩn nấp được, chỉ ở mé tây bắc có một rừng cây nhỏ.

Trình Linh Tố cầm roi ngựa trỏ về phía đó, nói:

– Qua bên kia!

Rồi cô hướng về Mã Xuân Hoa nói:

– Lên ngựa đi!

Mã Xuân Hoa nhìn cô đáp:

– Đa tạ cô nương.

Rồi nhảy lên lưng ngựa ngồi phía sau Trình Linh Tố. Trình Linh Tố cười nói:

– Nhãn quang của phu nhân hay quá. Trong lúc nguy cấp mà còn nhận ra được tiểu muội là gái giả trai.

Ba người cưỡi hai ngưa chạy về phía khu rừng. Mới chạy được một quãng thì quần đạo đã phát giác. Bỗng nghe những hồi còi nổi lên, mé nam hơn chục kỵ mã, mé bắc cũng tám, chín người, hai mặt đổ dồn lại. Hồ Phỉ phóng ngựa chạy trước, xông vào rừng cây, thấy phía sau rừng có bảy, tám gian nhà nhỏ. Chàng nghĩ rằng nếu mình còn tiếp tục chạy nữa tất bị đuổi kịp. Chỉ còn cách tạm lánh mình trong mấy gian nhà này. Chàng liền giục ngựa chạy tới, thấy ở khoảng giữa có một tòa thạch thất khá lớn, hai bên đều là nhà tranh.

Hồ Phỉ đưa tay đẩy cửa tòa thạch thất, thấy bên trong có một lão phu nhân bệnh nằm trên giường. Mụ nhìn thấy Hồ Phỉ khiếp sợ quá không nói nên lời, chỉ khẽ ú ớ mấy tiếng.

Trình Linh Tố thấy những gian nhà tranh đều là cửa phên đóng kín, bốn bức vách lại không cửa sổ, dường như không phải nhà ở. Cô đạp cửa mở ra, thấy bên trong chất đống củi khô cùng rơm cỏ, một gian khác chứa toàn đá, Trình Linh Tố lấy hỏa tập bật lửa lên, châm vào hai gian nhà tranh, đoạn kéo Mã Xuân Hoa vào thạch thất, rồi cài chặt cửa lại. Những gian nhà tranh cách thạch thất chừng ba, bốn trượng. Rơm củi cháy lên rồi, người trong thạch thất tuy bị nóng bức khó chịu nhưng cũng ngăn cản địch nhân được một lúc. Vả lại những gian nhà tranh bên cạnh thạch thất cháy hết rồi, địch nhân không còn chỗ ẩn nấp, muốn tấn công vào cũng không dễ. Mã Xuân Hoa thấy cô nhỏ tuổi mà xử trí tình hình mau lẹ, liền khen ngợi:

– Cô nương thật là thông minh!

Những gian nhà tranh vừa bốc lửa thì quần đạo đã tới tấp chạy vào rừng cây. Lũ ngựa nhìn thấy lửa không dám tới gần, chỉ đứng vây quanh. Mã Xuân Hoa vào thạch thất rồi vẫn còn kinh hãi, lại nghĩ tới con mình lọt vào tay cường đạo không hiểu sống chết thế nào. Dù có là con gái của một võ sư tiếng tăm lừng lẫy, từ thuở nhỏ đã theo phụ thân rong ruổi giang hồ, đã gặp không ít cảnh phong ba hung hiểm, nhưng lòng mẹ thương con vốn vô bờ bến, bất giác lệ chảy đoanh tròng.

Nàng lấy tay áo lau nước mắt, nhìn Trình Linh Tố nói:

– Muội tử! Ta cùng muội tử vốn chưa từng quen biết, sao lại mạo hiểm cứu nhau?

Nàng hỏi câu này quả là tình thật. Nên biết bọn đại đạo cướp tiêu đều là những tay võ nghệ cao cường, nhân số rất đông. Dù là phụ thân nàng Thần quyền vô địch Mã Hành Không gặp trường hợp này ắt cũng hiểu ngay không sao chống cự nổi. Hai người này không thân thích lại không quen biết mà tự chuốc lấy trách nhiệm vào mình thì có khác chi đi nạp mang? Còn Hồ Phỉ tự xưng là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền dĩ nhiên nàng biết là tên giả để trêu chọc quần đạo. Võ công của phụ thân nàng do tổ phụ truyền cho, lão chẳng có sư huynh sư đệ đồng môn nào hết.

Trình Linh Tố mỉm cười trỏ vào sau lưng Hồ Phỉ hỏi:

– Phu nhân có nhận ra được y không? Y đã nhận ra phu nhân rồi đó.

Hồ Phỉ đang ở trong thạch thất nhìn qua cửa sổ ra ngoài, nghe Trình Linh Tố nói vậy quay lại mỉm cười rồi xoay người, chìa tay qua cửa sổ đón lấy một mũi cương tiêu, một mũi suất thủ tiễn ném xuống đất, nói:

– Bọn ta không đem theo ám khí, đành mượn của địch nhân vậy. Một hai, ba, bốn… năm, sáu… mé nam có cả thảy sáu tên.

Chàng lại chuyển qua cửa sổ khác nhìn ra, nói:

– Một, hai, ba… phía bắc có bảy tên. Đáng tiếc hai phía đông tây không nhìn thấy được.

Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy trong góc thạch thất có một cái bếp đá. Chàng chợt nảy ra một ý, bèn cầm lấy cái chảo trên bếp, tay phải cầm lấy quai chảo, tay trái cầm nắp chảo rồi đột nhiên nhoài người thò đầu ra ngoài cửa để nhìn hết bên đông lại ngó bên tây, vì thế mà nửa người lộ ra để địch nhân  phóng ám khí tập kích. Cái chảo và cái nắp biến thành hai lá mộc che chắn hai bên. Một loạt âm thanh “bộp bộp, leng keng, cách cách” vang lên. Hồ Phỉ co người lại cười khanh khách. Chỉ thấy trên nắp chảo cắm năm mũi ám khí, trong lòng chảo cũng đựng năm mũi, nào là thiết liên tử, nào là tụ tiễn, nào là phi chùy, nào là táng môn đinh. Cái chảo đã mẻ một miếng lớn vì bị phi hoàng thạch ném trúng.

Hồ Phỉ nói:

– Cả trước sau và hai bên, tổng cộng có hai mươi mốt tên. Tại hạ không nhìn thấy Từ huynh và hai đứa nhỏ đâu, nghĩ lại mới nhớ ra còn hai người của chúng đối phó với Từ huynh và hai tên bồng hai đứa nhỏ đem đi. Như vậy đối phương cả thảy là hai mươi lăm tên.

Trình Linh Tố nói:

– Nếu hai mươi lăm tên đều là hạng tầm thường cả thì chẳng có chi đáng ngại, nhưng bọn này…

Hồ Phỉ ngắt lời, hỏi:

– Nhị muội! Nhị muội có biết lai lịch của tên sử dụng cây lôi chấn đáng không?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội có nghe sư phụ nhắc tới thứ binh khí ngoại môn này. Lão nhân gia còn bảo những người chuyên sử dụng lôi chấn đáng đều thuộc phái Bạch gia bảo ở Tái Bắc. Nhưng người sử kiếm thì hiển nhiên là kiếm thuật của Kỳ gia ở Triết Đông. Một tên ở Tái Bắc, một kẻ ở Triết Đông. Ồ! Đại ca! Đại ca có nghe rõ khẩu âm của chúng không?

Mã Xuân Hoa tiếp lời:

– Phải rồi! Có người nói tiếng Quảng Đông, có người nói tiếng Hồ Nam, Hồ Bắc lại có cả khẩu âm miền Sơn Đông, Sơn Tây nữa.

Trình Linh Tố nói:

– Trong thiên hạ quyết không có bọn cường đạo nào lại hội họp được nhiều hảo thủ từ bốn mặt tám phương để cướp tiêu ngân chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc.

Mã Xuân Hoa nghe nói tới “chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc” thì bất giác hơi đỏ mặt lên. Phi Mã tiêu cục từ ngày sáng lập đến nay, quả chưa bao giờ lãnh món hàng nhỏ như vậy.

Hồ Phỉ nói:

– Trước hết chúng ta cần điều tra cho rõ ý định của địch nhân, để xem chúng tới đây vì anh em tại hạ hay nhắm vào Mã cô nương.

Ban đầu chàng thấy thanh thế bên địch như vậy liền cho là phe Điền Quy Nông, nhưng hành vi của bọn cường đạo chỗ nào cũng nhằm vào vợ chồng Từ Tranh và Mã Xuân Hoa, hiển nhiên không liên quan gì đến Miêu Nhân Phụng và Điền Quy Nông.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Dĩ nhiên bọn chúng có ý đối phó với Phi Mã tiêu cục. Cho hỏi quý tính đại ca đây là gì? Xin lượng thứ tiện thiếp mắt kém không nhận ra.

Hồ Phỉ đưa tay lên gỡ tấm râu giả ra cười hỏi:

– Mã cô nương không nhận ra tại hạ ư?

Mã Xuân Hoa thấy trong vẻ tráng kiện của chàng gương mặt hãy còn non choẹt, nhưng không nhớ ra đã gặp chàng ở đâu. Hồ Phỉ cười nói:

– Thương thiếu gia! Xin thiếu gia tha mạng cho A Phỉ đừng làm khó dễ gì gã.

Mã Xuân Hoa sửng sốt, mấp máy môi nhưng không nói. Hồ Phỉ lại nói tiếp:

– A Phỉ bị thiếu gia treo lên thật là đáng thương. Thiếu gia hãy tha cho gã trước rồi tiểu muội sẽ để thiếu gia nắm tay được không?

Ngày trước Hồ Phỉ bị Thương Bảo Chấn cột lại treo lên xà nhà đánh đập cực kỳ thảm khốc. Mã Xuân Hoa thấy vậy sinh lòng thương xót, khẩn cầu Thương Bảo Chấn tha cho chàng. Thương Bảo Chấn có cảm tình với nàng, nên tuy gã căm hận Hồ Phỉ mà vẫn ưng thuận, đáp lại hắn sẽ được nàng cho cầm tay. Mã Xuân Hoa cũng đồng ý. Tuy lúc ấy Hồ Phỉ đã tự mình thoát khỏi dây trói, nhưng khi nấp trên cây chàng đã nghe rõ từng lời Mã Xuân Hoa năn nỉ cho mình, nên vô cùng cảm kích. Mãi cho đến giờ phút này, Hồ Phỉ vẫn không lúc nào quên.

Nay để đền đáp mối ân tình ngày trước, dẫu có bỏ mạng, Hồ Phỉ chẳng từ nan. Hiện giờ chàng đang ở nơi hiểm địa mà trong lòng lại rất cao hứng, thuở nhỏ đã từng có một cô nương nài nỉ giùm mình trong cơn khốn khó mà giờ đây chàng lại được tận tâm báo đáp nàng trong lúc nguy nan.

Mã Xuân Hoa nghe tới mấy câu đó liền đỏ mặt lên, miệng hô:

– Ủa! A Phỉ đấy ư? A Phỉ ở Thương gia bảo ngày trước?

Nàng dừng lại một chút rồi nói:

– Huynh đệ là con đại hiệp Hồ Nhất Đao, Hồ Phỉ huynh đệ!

Hồ Phỉ mỉm cười gật đầu, những nghe nàng nhắc tới tên của phụ thân, lòng chàng se lại. Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ! Huynh đệ… huynh đệ… cố cứu lấy hai đứa con nhỏ của tiện thiếp.

Hồ Phỉ đáp:

– Dĩ nhiên tiểu đệ phải tận lực.

Rồi chàng xoay người qua giới thiệu:

– Đây là Trình Linh Tố cô nương, cô em mới kết nghĩa của tiểu đệ.

Mã Xuân Hoa vừa cất tiếng gọi “Trình cô nương” thì đột nhiên nghe đánh “sầm” một tiếng. Cánh cửa nhà thạch thất bị một vật rất lớn ném trúng, bụi cát từ trên nóc nhà rớt xuống rào rào. May mà cánh cửa rất dày, then cửa cũng kiên cố nên chưa bị gãy toang ra. Hồ Phỉ nhoài người qua, nhìn thấy bốn tên đại đạo cưỡi trên lưng ngựa, dùng dây lôi một đoạn cây lớn từ phía xa chạy tới. Khi còn cách cánh cửa chừng hơn một trượng, bốn tên đồng thời vung tay phóng mạnh khúc cây vào cửa đánh sầm lên một tiếng.

Hồ Phỉ nghĩ thầm: “Nếu cửa lớn bị phá vỡ, bọn đại đạo kéo ùa cả vào thì mình không chống nổi”.

Tay chàng cầm một mũi táng môn đinh, một mũi suất thủ tiễn, chờ cho bốn tên đại đạo tung ngựa đi xa rồi quay đầu lại, mới lớn tiếng quát:

– Lão tiểu tử còn lưu tình, chỉ bắn chết ngựa chứ không bắn chết người.

Chàng thấy bốn con ngựa đã chạy ra ngoài đến ba, bốn trượng liền giơ tay phải lên, hai mũi ám khí veo véo bay ra nhanh như điện chớp, bắn trúng đầu hai con ngựa đứng trước khiến chúng hí lên một tiếng rồi ngã quay ra chết liền. Hai tên đại đạo ngồi trên lưng ngựa xoay mình nhảy xuống. Hai con ngựa đi sau vướng phải cành cây cũng té nhào. Hai tên cưỡi ngựa vội tung mình vọt lên nên không bị đè.

Bọn cường đạo bên ngoài đều bật tiếng la hoảng. Chúng chạy lại coi thì thấy hai mũi ám khí cắm sâu vào óc ngựa. Chỗ ám khí bắn vào chỉ còn một cái lỗ, cả chuôi tên cũng không lộ ra. Thủ kình kinh hồn này quả thật ít khi nhìn thấy. Quần đạo đều là những tay hảo thủ làm gì chẳng biết lão già râu kia ra tay còn lưu tình, nếu bắn trúng bất cứ chỗ nào trên đầu thì làm gì còn tính mạng? Bọn cường đạo còn đang sửng sốt, bỗng nghe hồi còi rít lên, liền lui ra xa hơn mười trượng. Chúng thấy ở chỗ này ám khi của đối phương không thể bắn tới, mới tụ tập lại thì thầm thương nghị.

Vừa rồi Hồ Phỉ trong lúc xuất kỳ bất ý, phóng ám khí ra, nếu nhắm vào thân thể của quần đạo thì ít ra cũng có ba bốn kẻ tử thương, cục diện có thể hòa hoãn được ngay, nhưng chàng không hiểu lai lịch đối phương không muốn giết người một cách khinh suất để kết mối thâm thù. Huống chi hai đứa con của Mã Xuân Hoa đã rơi vào tay địch, còn Từ Tranh chưa biết sống chết ra sao, nếu hai bên đi được đến chỗ điều đình ổn thỏa mới là thượng sách.

Quần đạo rút lui rồi, Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy cánh cửa đã bị nứt một kẽ lớn, thầm nghĩ nếu bọn cường đạo phá vỡ hai chỗ rồi xông vào tấn công thì không cách gì ngăn cản được.

Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ, Trình gia muội tử, hai vị tính sao đây?

Hồ Phỉ nhíu mày đáp:

– Cô nương có nhận ra ai trong bọn này không?

Mã Xuân Hoa lắc đầu đáp:

– Không biết.

Hồ Phỉ nói:

– Nếu bảo đây là cừu nhân của lệnh tôn thuở sinh tiền thì sao trong cách ăn nói, bọn chúng lại tỏ ra kính trọng lệnh tôn đến vậy? Còn nếu chúng muốn gây khó dễ cho cô nương nên bắt hai đứa nhỏ đi cũng không đúng, một là có nương chẳng biết một ai trong bọn chúng cả, hai là bọn chúng đối với cô nương chưa hề có nửa lời bất kính. Chỉ có đối với Từ đại ca là chúng tỏ ra mười phần vô lễ, nhưng nếu muốn đối phó với Từ đại ca thì việc gì bọn chúng phải huy động nhiều người đến thế?

Mã Xuân Hoa nói:

– Đúng vậy. Bọn chúng chẳng có một kẻ nào quen mặt, mà võ công người nào cũng cao hơn sư ca của tiện thiếp, chỉ cần một người ra tay cũng đủ rồi.

Hồ Phỉ nói:

 – Vụ này thật cổ quái, nhưng Mã cô nương đừng có quá lo lắng. Tại hạ xem hành vi của bọn này hoàn toàn chẳng có ý muốn gây thương tổn đến mạng người, mà tựa hồ chỉ muốn bỡn cợt Từ đại ca thôi.

Mã Xuân Hoa chợt nhớ đến câu “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” bất giác đỏ mắt lên. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì Trình Linh Tố đến an ủi vỗ về bà già nằm bệnh trong thạch thất, rồi cô nhóm lửa nấu cơm. Ba người ăn uống xong, lại theo khe cửa nhìn ra ngoài, chỉ thấy người qua lại lăng xăng, nhưng vì bị cây che khuất nên không hiểu bọn họ đang làm gì.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố khẽ thì thầm bàn bạc một hồi mà vẫn chưa tìm ra cách gì. Trình Linh Tố nói:

– Vụ này liệu có liên can gì đến tài chủ họ Hồ ở Nghĩa Đường trấn không?

Hồ Phỉ đáp:

– Quả tình tiểu huynh không hiểu một chút gì.

Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– Ta cứ ngồi trong xó tối này mà lo lắng thì chi bằng cứ để lộ chân tướng cho họ biết. Nếu hai việc có liên quan với nhau tất chúng ta sẽ có cách ứng phó, để cho gia đình Mã cô nương khỏi phải vô can mà chuốc lấy tại họa.

Trình Linh Tố gật đầu. Hai người liền mở rộng cửa. Bọn cường đạo thấy có người ra, sợ vòng vây bị phá, mười mấy người cưỡi ngựa ở bốn phía lập tức cùng tiến gần tới trước căn thạch thất.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Nếu các vị vì Hồ mỗ mà tới đây thì Hồ mỗ cùng nghĩa muội Trình Linh Tố ở cả trong này, các vị không nên làm liên lụy đến người ngoài!

Đoạn chàng bẻ dọc tẩu đánh “rắc” một tiếng gãy làm hai đoạn, lại bỏ hết bộ râu giả cùng đồ hóa trang trên mặt đi. Trình Linh Tố cũng lôi mũ ra để rủ mái tóc đen nhánh cho lộ hết bộ mặt con gái. Bọn cường đạo ai nấy đều lộ vẻ kinh dị. Chúng không thể tưởng nổi con người võ công phi thường như thế lại là chàng thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi. Bọn cường đạo ngơ ngác nhìn nhau, trong lúc nhất thời chưa tìm ra chủ ý.

Đột nhiên một người tiến ra, dáng người cao mặt trắng, chính là gã đại đạo họ Nhiếp sử trường kiếm. Gã nhìn Hồ Phỉ chắp tay nói:

– Tôn giá có ơn trả kiếm, tại hạ vĩnh viễn không quên. Công việc của bọn tại hạ tuyệt không liên quan gì đến hai vị. Xin hai vị tùy tiện, tại hạ kính cẩn đưa chân.

Dứt lời gã nhảy xuống ngựa, khẽ vỗ vào mông nó một cái. Con ngựa chạy đến trước mặt Hồ Phỉ rồi dừng lại. Xem ra tên đại đạo cũng nhường cả ngựa cưỡi cho chàng. Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ hỏi:

– Còn Mã có nương thì sao? Các vị đã ưng thuận không can thiệp vào chuyện bất bình nữa kia mà?

Gã họ Nhiếp đáp:

– Can thiệp chuyện bất bình thì không dám. Anh em tại hạ chỉ mời Mã cô nương lên phương bắc một chuyến, quyết chẳng dám đụng đến một chân lông sợi tóc.

Hồ Phỉ cười nói:

– Nếu đã có hảo ý mời khách thì hà tất phải làm náo loạn như vậy?

Chàng quay lại nói lớn:

– Mã cô nương! Người ta mời cô làm tân khách, cô nương có đi không?

Mã Xuân Hoa bước tới cửa, nói:

– Tiện thiếp cùng các vị vốn chưa từng quen biết thì các vị mời đi làm chi?

Trong quần đạo có tên cười đáp:

– Dĩ nhiên anh em bọn tại hạ không biết Mã cô nương, nhưng có người quen biết.

Mã Xuân Hoa lớn tiếng:

– Còn những đứa con của tiện thiếp? Mau trả chúng lại cho!

Gã họ Nhiếp đáp:

– Hai vị lệnh lang bình yên vô sự. Xin Mã cô nương cứ yên dạ. Bọn tại hạ dốc toàn lực bảo vệ mà còn e có phần sơ suất, khi nào dám để hai vị thiên kim công tử phải sợ hãi?

Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Tên cường đạo này ăn nói mỗi lúc một khách khí. Từ Tranh bất quá chỉ là một gã tiêu đầu, thì con y làm gì mà xem là tiểu công tử đáng giá ngàn vàng?

Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, nói:

– Tiện thiếp không đi! Mau trả lại con cho tiện thiếp!

Nàng không chờ quần đạo trả lời đã trở gót đi vào thạch thất. Hồ Phỉ thấy hành động kỳ lạ của Mã Xuân Hoa càng sinh lòng ngờ vực, nói:

– Giữa Mã cô nương và tại hạ có mối giao tình sâu nặng, bất luận là việc gì, tại hạ quyết chẳng thể tụ thủ bàng quan.

Gã họ Nhiếp nói:

– Võ công của tôn giá tuy cao cường, nhưng song quyền nan địch bốn tay. Bọn tại hạ cả thảy hai mươi lăm người, đến chiều còn có thêm cường viện tới nữa.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Số lượng người gã này nói ra đúng với điều ta phỏng đoán, quả gã không lừa gạt ta. Không cần biết bọn cường viện là ai, ta há có thể bỏ Mã cô nương mà đi được? Nhưng không thể để nhị muội vô duyên vô cớ vì nàng mà uổng mạng.

Nghĩ vậy, chàng liền khẽ nói:

– Nhị muội! Nhị muội hãy cưỡi con ngựa đó mà phá vòng vây đi trước, một mình tiểu huynh chiếu cố cho Mã có nương ắt dễ hơn nhiều.

Trình Linh Tố biết chàng lo cho mình, liền hỏi lại:

– Lúc chúng ta kết bái thì thề với nhau là “có hoạn nạn cùng gánh vác” hay là “gặp hoạn nạn thì trốn đi trước”?

Hồ Phỉ đáp:

– Nhị muội với Mã cô nương chưa từng quen biết thì cần chi phải vì nàng mà mạo hiểm? Còn tiểu huynh thì không thể thế được.

Ánh mắt Trình Linh Tố thủy chung vẫn không nhìn chàng, mà hỏi lại:

– Đúng thế! Tiểu muội việc gì phải mạo hiểm vì Mã cô nương, những giữa tiểu muội và đại ca chẳng lẽ cũng chưa từng quen biết?

Hồ Phỉ trong lòng cảm kích. Suốt đời chàng, những người cam tâm cùng chết với mình thì có Bình tứ thúc và Triệu Bán Sơn, đến nay có thêm một cô nương trẻ tuổi đang bình thản đứng bên cạnh mình nữa. Chàng không ngần ngừ gì nữa, nói ngay:

– Vậy thì chúng ta sống cùng sống, chết cùng chết!

Gã họ Nhiếp chờ một lúc, liền nói tiếp:

– Bọn tại hạ quyết không dám làm tổn thương đến Mã cô nương một mảy may, hai vị chẳng còn phải lo gì nữa. Vậy thì hà tất hai vị phải vô cớ dấn thân vào nơi nguy hiểm? Tôn giá hành động rất quang minh lỗi lạc, bọn tại hạ khâm phục vô cùng. Ngày sau còn nhiều dịp gặp nhau, bữa nay nên tạm biệt ở đây chăng?

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Các hạ buông tha Mã cô nương hay không?

Gã họ Nhiếp lắc đầu toan khuyên giải nữa, nhưng trong bọn cường đạo có mấy tên đã lớn tiếng quát tháo:

– Gã tiểu tử này không biết điều, Nhiếp đại ca việc gì phải phí lời với gã?

– Cái này gọi là “thiên đường có nẻo không chịu tới, địa ngục không đường lại sấn vào”.

– Ngốc tiểu tử! Ngươi có bản lãnh nghiêng trời hay sao mà một mình lại dám chống cự?

Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng. Một mũi ám khí bắn vút tới Hồ Phỉ. Tên đại đạo họ Nhiếp tung người lên nắm lấy, thì ra là một lưỡi phi đao.

Hồ Phỉ nói:

– Hảo ý của tôn giá, tại hạ xin tâm lãnh. Kể từ lúc này chúng ta không còn nợ nhau nữa.

Dứt lời, chàng nắm tay Trình Linh Tố xoay mình tiến vào thạch thất. Bỗng nghe sau lưng tiếng gió rít lên, mấy món ám khí bắn tới. Hồ Phỉ liền đóng cửa lớn lại. Mấy tiếng “bộp bộp” vang lên, những mũi ám khí đã cắm cả vào cánh cửa. Quần đạo lớn tiếng hô hoán, xông đến trước cửa.

Hồ Phỉ vội chạy đến bên cửa sổ, cầm mấy mũi cương tiêu để trên bàn nhắm tên đại đạo gần nhất phóng ra. Chàng không muốn hạ sát thủ nên chỉ nhắm bả vai của hắn phóng tới. Tên đại đạo kia “ối” lên một tiếng, vai bị trúng tiêu nhưng hắn vẫn cực kỳ hung hãn, không lùi lại, hô lớn:

– Các vị huynh đệ! Bữa nay không thu thập nổi một thằng lỏi thì chúng ta còn mặt mũi nào mà quay về?

Bọn cường đạo quát thét ầm ĩ, bốn mặt xông cả vào. Bỗng nghe tường đá mặt đông và mặt tây phát ra những tiếng đập phá ầm ầm. Do hai mặt này không có cửa sổ, quần đạo không sợ Hồ Phỉ bắn ám khí, nên dùng những vật nặng đập phá tường để xông vào. Hồ Phỉ liên tiếp phóng ám khí ra. Quần đạo ở hai mặt nam, bắc phải lùi lại, nhưng tiếng đập phá tường ở hai mặt đông tây vang lên không ngớt.

Trình Linh Tố lấy cây nến chế bằng “Thất tâm hải đường”. Cô lại đưa thuốc giải cho Hồ Phỉ và Mã Xuân Hoa cùng bà lão nằm trên giường bệnh, bảo mọi người ngậm vào miệng. Cô chờ địch nhân xông vào là đốt nến lên để đánh ngã cả bọn. Chất độc của cô đối phó với thiểu số địch nhân dĩ nhiên ứng nghiệm như thần, nhưng nếu địch nhân xông vào quá đông thì không khỏi nguy khốn. Cô chuẩn bị đốt nến cũng chỉ là làm cho hết sức mình, bớt được một tên là lực lượng địch nhân giảm đi một phần, còn chuyện có ra khỏi được trùng vậy hay không, cô chẳng nắm chắc chút nào.

Giữa lúc ấy, một tiếng “uỳnh” vang lên. Vách đá mặt tây bị phá một lỗ hổng, song quần đạo vẫn sợ Hồ Phỉ lợi hại, không ai dám tiến vào một mình. Nếu lỗ hổng bị phá lớn thêm thì chúng có thể kéo ùa cả vào. Hồ Phỉ thấy tình thế cấp bách, ám khí lại chẳng còn, liền đảo mắt nhìn quanh thạch thất xem còn vật gì có thể đả thương kẻ địch hay không.

Trình Linh Tố bỗng la lên:

– Đại ca! Cái này hay lắm đây.

Cô cúi xuống gầm giường của bà lão nằm bệnh, thò tay bốc ra hai nắm vôi trắng. Nguyên người dân quê ở đây làm vôi nên trong thạch thất có rất nhiều.

Hồ Phỉ cũng reo lên:

– Tuyệt lắm!

Chàng xé áo trường bào đánh “roạt” một tiếng, lấy một mảnh gói vôi lại, rồi co người theo lỗ hổng trên tường xông ra ngoài. Chàng nhắm mắt vung tay phải lên ném gói vôi bột về phía địch nhân, rồi chuồn vào ngay. Bọn cường đạo đang bàn định kế hoạch đánh vào nhà cách nào, làm sao để chui qua lỗ hổng mà không bị Hồ Phỉ đả thương. Chúng đâu ngờ nổi Hồ Phỉ lại lật ngược thế cờ, phản khách vi chủ, từ lỗ hổng chui ra tấn công đột ngột.

Gói vôi lớn tung ra bốn phía, bột trắng bay mù mịt. Ba tên đại đạo đứng gần nhất bị vôi ném trúng mắt, nước mắt lập tức chảy ra, đau rát không chịu nổi đều gào lên thất thanh.

Hồ Phỉ tập kích thành công, vừa xoay mình thì Trình Linh Tố đưa cho chàng hai gói vôi nữa. Chàng reo lên:

– Hay lắm!

Chàng bước lên phiến đá lớn trên bếp, giơ cao tay trái tung mình nhảy lên. Nghe “bình” một tiếng, nóc nhà bị thủng một lỗ lớn. Lần này Hồ Phỉ chuồn qua lỗ hổng nóc nhà, ném hai gói vôi bột ra. Bọn cường đạo bật tiếng la hoảng. Trình Linh Tố tiếp tục gói vôi bột, bỏ vào chảo sắt, đưa lên nóc nhà. Hồ Phỉ ném ra bốn mặt đông tây nam bắc. Bọn cường đạo lại kêu la chửi bới, rồi rút chạy cả vào trong rừng. Sáu, bảy tên cường đạo bị trọng thương.

Hai bên cứ giằng co như thế một hồi lâu. Bọn cường đạo không dám xông vào, mà bọn Hồ Phỉ cũng không dám xông ra, chỉ sợ mất căn thạch thất làm điểm tựa thì chẳng tài nào kháng cự được.

Hồ Phỉ và Trình Lình Tố còn có lúc nói cười. Hai người cùng nhau trải qua những cơn hoạn nạn nên ngày càng thêm thân mật. Mã Xuân Hoa thì cứ ngơ ngẩn xuất thần, cúi đầu lặng yên, suy nghĩ. Nàng không nhìn ra bọn địch nhân, mà đối với câu chuyện giữa Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nàng cũng tựa hồ chẳng nghe thấy gì.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta cố giữ đến đêm, hoặc giả có thể nhờ bóng tối để trốn thoát được. Nhược bằng đêm nay mà không trốn thoát là làm lụy đến tính mạng của nhị muội rồi, còn cái mạng già của Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền tiểu lão tử này thì… hà hà!

Chàng nói tới đây đưa tay lên trỏ vào mép, vừa cười vừa nói tiếp:

– Nếu biết sớm vụ này không liên quan gì đến gã họ Ngưu này thì đã chẳng bỏ chòm râu đi.

Trình Linh Tố mỉm cười khẽ hỏi:

– Đại ca! Nếu lát nữa chạy không thoát thì đại ca cứu tiểu muội hay cứu Mã cô nương?

Hồ Phỉ đáp:

– Cứu cả hai người.

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu muội hỏi trường hợp chỉ có thể cứu được một người, còn một người phải chết, thì đại ca cứu ai?

Hồ Phỉ trầm ngâm một lát rồi đáp:

– Tiểu huynh cứu Mã cô nương rồi cùng chết với nhị muội!

Trình Linh Tố quay lại khẽ hô:

– Đại ca!

Cô nắm lấy tay chàng, Hồ Phỉ trong lòng chấn động, nghe bên ngoài có tiếng chạy rầm rập liền dòm qua khe cửa, đột nhiên chàng la lên:

– Trời ơi! Không xong rồi!

Chàng thấy quần đạo từ trong rừng tới tấp nhảy ra, tên nào trên tay cũng kéo cành cây hoặc cỏ khô, không ngớt đem đến ném chung quanh thạch thất. Coi tình thế này hiển nhiên chúng định đánh hỏa công. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố tay cầm tay, đưa mắt nhìn nhau và cả hai cùng thầm hiểu tình thế đã đến lúc vô vọng.

Đột nhiên Mã Xuân Hoa đến bên cửa sổ, cất tiếng hỏi:

– Này! Thủ lãnh các ngươi là ai? Ta muốn nói mấy câu với y.

Một lão già nhỏ bé gầy nhom trong bọn cường đạo đáp:

– Mã cô nương có điều chi cần nói xin cứ dặn dò tiểu nhân là được!

Mã Xuân Hoa nói:

– Ta ra đó nói với lão, nhưng lão không được giữ ta lại!

Lão già đáp:

– Ai dám lớn mật ngăn giữ cô nương?

Mã Xuân Hoa nét mặt ửng hồng, khẽ nói:

– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Tiện thiếp ra nói với họ mấy câu rồi trở lại ngay.

Hồ Phỉ vội hỏi:

– Ồ, không được đâu! Bọn đạo tặc làm gì có tín nghĩa? Mã cô nương hành động như vậy có khác gì tự đưa mình vào miệng cọp.

Mã Xuân Hóa đáp:

– Cứ hãm mình ở đây mãi cũng không giải quyết được việc gì. Cao nghĩa của hai vị, tiện thiếp suốt đời không quên.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Mã cô nương muốn tự mình gánh lấy trách nhiệm để khỏi liên lụy ta và nhị muội, nhưng cô nương đi một mình dĩ nhiên lành ít dữ nhiều. Cứu người không cứu đến nơi đến chốn đâu phải là hành vi của bậc đại trượng phu?

Chàng thấy Mã Xuân Hoa lộ vẻ kiên quyết liền rút then cửa ra, nói:

– Để tại hạ đi theo cô nương.

Mã Xuân Hoa lại đỏ mặt lên, đáp:

– Không cần đâu.

Trình Linh Tố không sao đoán được vì lẽ gì Mã Xuân Hoa phải mấy phen đỏ mặt không lẽ nàng lại có tình ý với Hồ đại ca? Cô nghĩ đến đây bất giác cũng đỏ mặt lên, Hồ Phỉ nói:

– Được rồi! Đã thế thì tại hạ đi bắt một tên vô đây làm con tin.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Hồ huynh đệ, bất tất…

Nàng chưa dứt lời, Hồ Phỉ tay phải cầm đơn đao, tay trái đẩy cửa xông ra. Quần đạo đồng thanh la lên. Hồ Phỉ thi triển khinh công chạy thật nhanh. Quần đạo cùng hét ầm lên:

– Gã tiểu tử định chạy trốn kìa!

– Trong thạch thất còn có người, vây kín bốn mặt đi.

– Coi chừng! Phải đề phòng thằng lỏi con dùng ngụy kế.

Giữa những tiếng quát tháo ầm ĩ, thân hình Hồ Phỉ lướt nhẹ như sợi khói, xông vào giữa đám cường đạo. Hai tên đại đạo cầm đao xông lại cản đường. Hồ Phỉ cúi đầu xuống luồn qua giữa hai thanh đao, tay trái chàng móc lại toan nắm lấy cổ tay gã đứng bên phải. Không ngờ gã này thủ cước rất mau lẹ, gã vung đơn đao quét ngang một cái buộc Hồ Phỉ phải đưa đao lên gạt, thành thử không nắm được. Vừa chậm lại một chút, ba tên đại đạo nữa xông tới. Hai tên cầm cương tiên, một tên cầm liên tử thương vây Hồ Phỉ vào giữa.

Hồ Phỉ quát lên một tiếng, vung đao chém mạnh một nhát. Ba tiếng “choang choang” vang lên, hai cây cương tiên rớt xuống, còn cây liên tử thương bị đứt làm hai đoạn. Ba nhát đao này, Hồ Phỉ đã vận kình lực cực kỳ cương mãnh nên tuy đánh rớt binh khí bên địch, nhưng lưỡi đơn đao của chàng cũng bị quăn lại, không dùng được nữa.

Quần đạo thấy chàng thần dũng phi thường, không tự chủ được phải dạt ra hai bên. Lão già lớn tiếng quát:

– Để ta tiếp vị anh hùng hảo hán!

Vừa dứt lời, lão đã cong người lạng tới, hai tay không cầm binh khí.

Hồ Phí kinh hãi nghĩ thầm:

– Thân thủ lão này trầm ổn, đúng là một tay kình địch.

Chàng giơ tay trái lên miệng hô:

– Xem tiêu đây!

Lão già dừng chân, ngưng thần chờ kim tiêu ném tới. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ ra hư chiêu, chân trái chàng điểm xuống, bất ngờ tung người lên vượt qua đầu hai tên đại đạo, tay phải vươn ra lôi một tên xuống ngựa. Chàng chụp vào huyệt “Mạch môn” của gã rồi tung mình lên ngựa, từ giữa đám đông cưỡi ngựa xông ra. Con ngựa bị Hồ Phỉ đá vào bụng, đau không chịu nổi bèn lao tới trước.

Quần đạo la ó quát mắng om sòm. Kẻ cưỡi ngựa, người đi bộ rượt theo. Con ngựa chạy được vài trượng, Hồ Phỉ nghe phía sau có tiếng gió vội cúi đầu xuống. Hai cây thiết chùy bay qua đỉnh đầu, thế đi rất mạnh. Người phóng thiết chùy đúng là một tay cao thủ.

Hồ Phỉ ngồi trên lưng ngựa xoay mình lại, chàng đặt tên đại đạo trước ngực làm lá chắn, miệng hô:

– Phóng ám khí đi, càng nhiều càng tốt!

Tên đại đạo bị giữ huyệt “Mạch môn”, toàn thân nhũn ra không nhúc nhích được. Hồ Phỉ cười ha hả, thúc ngược chân vào bụng ngựa. Mới thúc chân một cái, con ngựa đã ngã quay ra. Nguyên trước khi chàng xoay mình, mông ngựa đã trúng một mũi thiết chùy xuyên vào bụng. Hồ Phỉ tung mình nhảy xuống xách ngang người tên đại đạo, đi giật lùi từng bước trở về thạch thất.

Quần đạo sợ chàng gia hại đồng bạn không dám sấn tới. Hơn hai chục tay hảo thủ mà chịu để một mình Hồ Phỉ xông xáo dọc ngang, đã không đả thương chàng được một mảy chân lông mà còn bị bắt mất người. Chúng nhìn nhau vẻ mặt buồn rầu, trong lòng cố nhiên phẫn nộ nhưng vẫn ngấm ngầm bội phục chàng.

Mã Xuân Hoa reo lên:

– Hảo thân thủ! Hảo bản sự!

Nàng từ từ đi vào đám quần đạo, tay không binh khí. Quần đạo thấy nàng tiến lại gần liền tới tấp xuống ngựa nhường lối. Mã Xuân Hoa tiếp tục tiến về phía trước. Khi đến ven rừng cách xa thạch thất chừng hai chục trượng, nàng mới dừng lại. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn qua cửa sổ, thấy Mã Xuân Hoa xoay lưng về phía thạch thất nói chuyện với lão già. Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca! Đại ca thử nói tại sao Mã cô nương lại đi xa thế? Nếu xảy ra chuyện bất trắc thì làm sao cứu viện?

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố hỏi vậy mà thực ra trong thâm tâm cô đã tìm ra đáp án.

Quả nhiên cô nói tiếp:

– Chắc y muốn nói gì với tay thủ lĩnh đó mà không muốn để chúng ta nghe thấy.

Hồ Phỉ lại “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố đã đoán đúng nhưng không hiểu rồi còn làm gì nữa? Hồ Phỉ và Trình Linh Tố không nghe Mã Xuân Hoa cùng tên thủ lĩnh nói gì, chỉ nhìn qua khe cửa sổ mà thấy loáng thoáng thái độ của hai người.

Trình Linh Tố lại nói:

– Đại ca! Tên thủ lĩnh nói năng với Mã cô nương thái độ rất kính cẩn tuyệt không dám lên mặt chút nào.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Lão thủ lĩnh này dày công phu hàm dưỡng, quả là tay kình địch.

Trình Linh Tố nói:

– Tiểu muội coi chừng không phải vì lão dày công phu hàm dưỡng, mà thái độ tựa hồ kẻ tôi đòi bẩm báo việc gì với chủ nhân.

Hồ Phỉ đã nhận thấy điều này, trong lòng chàng cảm thấy có điều uẩn khúc, nhưng nghĩ vụ này thật bẽ bàng nên không muốn tự miệng mình, nói ra.

Trình Linh Tố nhìn một lúc lại nói:

– Mã cô nương lắc đầu không chịu đi theo tên thủ lĩnh, nhưng sao cô lại…

Đột nhiên cô quay lại nhìn mặt Hồ Phỉ, dường như trong lòng cảm nhận điều gì, cô lại quay ra ngoài cửa sổ.

Hồ Phỉ hỏi:

– Nhị muội muốn hỏi gì, sao chưa nói hết câu đã dừng lại?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội không hiểu có nên hỏi đại ca hay thôi. Chỉ sợ câu hỏi này làm đại ca phải nổi nóng.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị muội! Ta cùng nhị muội tại nơi đây đồng sinh cộng tử thì giữa chúng ta có gì mà không nói được? Bất cứ điều gì ta cũng không giấu nhị muội.

Trình Linh Tố hỏi:

– Hay lắm! Tại sao lúc Mã cô nương nói với tên thủ lĩnh không có vẻ tức giận, mà lại đỏ mặt lên? Cái đó cũng chưa lạ, lạ ở chỗ tại sao đại ca cũng đỏ mặt nữa?

Hồ Phỉ đáp:

– Trong lòng tiểu huynh nghi ngờ một điều nhưng không có chứng cớ, hiện giờ chưa tiện nói rõ. Nhị muội, đại ca của nhị muội là người quang minh lỗi lạc, quyết chẳng có điều gì lại không dám đối diện cùng người. Nhị muội có tin được tiểu huynh không?

Trình Linh Tố thấy vẻ mặt chàng rất thành khẩn thì trong lòng vô cùng cao hứng. Cô mỉm cười nói:

– Vậy đại ca thẹn thay cho Mã cô nương. Chuyện của người ta, tiểu muội không tiện dính vào. Chỉ cần đại ca tử tế là hay lắm rồi.

Hồ Phỉ nói:

 – Lúc ta mới biết Mã cô nương chỉ là thằng nhỏ mười ba, mười bốn tuổi vắt mũi còn chưa sạch. Nàng thấy tình trạng ta đáng thương nên mới năn nỉ giùm…

Chàng nói tới đây ngửng đầu trông ra ngơ ngẩn xuất thần, thấy bên trời ráng chiều đỏ ối, khẽ nói:

– Có phải thế hay không thì đại ca không rõ, nhưng ta vẫn tin cô là người tốt. Lương tâm cô rất tốt.

Giữa lúc ấy, đột nhiên tên đại đạo khẽ rên lên một tiếng. Hiển nhiên những huyệt đạo bị điểm lên cơn đau đớn không chịu nổi. Hồ Phỉ quay lại khai huyệt “Chương môn” và huyệt “Thiên trì” cho gã rồi nói:

– Vì sự bất đắc dĩ mà phải đắc tội, xin miễn trách. Cao tính đại danh tôn giả là gì?

Tên đại đạo mày rậm mắt to, thân hình cao lớn. Gã trừng mắt nhìn Hồ Phỉ lớn tiếng:

– Ta học nghệ chưa tinh bị ngươi bắt được. Ngươi muốn giết muốn mổ thế nào thì cứ việc động thủ đi, lắm lời làm gì?

Hồ Phỉ thấy gã cứng cỏi lại khâm phục là một trang hán tử, liền cười đáp:

– Giữa tại hạ và tôn giá đã không quen biết, lại không oán không thù, thì há có ý hại nhau? Có điều câu chuyện bữa nay lắm chỗ kỳ quái tại hạ không sao hiểu được, lão huynh có thể cho biết rõ hơn được chăng?

Tên đại đạo lại quát:

– Ngươi tưởng Uông Thiết Ngạc này là kẻ tiểu nhân đê hèn chăng? Dù ngươi có hoa ngôn xảo ngữ thế nào cũng đừng hòng hỏi ta được nửa câu.

Trình Linh Tố thè lưỡi ra cười nói:

– Ngươi không chịu xưng danh sao lại còn nói ra? Té ra là Uông Thiết Ngạc lão gia, vãn bối ngưỡng mộ từ lâu.

Uông Thiết Ngạc “hừ” một tiếng, rồi thóa mạ:

– Con tiểu nha đầu tóc vàng kia! Ngươi thì biết cái gì?

Trình Linh Tố không để ý đến hắn, nhìn Hồ Phỉ nói:

– Đại ca! Người này ngây ngô không hiểu, nhưng các vị tiền bối của Ưng trảo nhạn hành môn đối với tiểu muội lại có chút giao tình. Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu đối với tiểu muội rất cung kính. Đại ca đừng làm khó dễ cho y.

Cô nói rồi nheo mắt nhìn Hồ Phỉ.

Uông Thiết Ngạc rất lấy làm lạ, hỏi:

– Cô biết đại sư huynh cùng nhị sư huynh của tại hạ ư?

Giọng gã lập tức biến đổi.

Trình Linh Tố đáp:

– Sao lại không biết? Vãn bối thấy hai môn Ưng trảo công và Nhạn hành công của lão gia học chưa đến nơi đến chốn.

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Phải!

Hắn cúi đầu xuống ra chiều xấu hổ.

Nguyên Ưng trảo nhạn hành môn là đại môn phái trong võ học ở phương bắc. Đại đệ tử Chu Thiết Tiêu, nhị đệ tử Tăng Thiết Âu nổi tiếng giang hồ đã lâu. Trình Linh Tố từng được nghe sư phụ nói tới, biết bọn đệ tử đời thứ nhất ở môn phái này phần nhiều đều lấy tên có chữ “Điểu” một bên. Khi Uông Thiết Ngạc báo danh, cô lại thấy hắn sử thanh Nhạn linh đao nên đoán đúng ngay. Còn võ công của Uông Thiết Ngạc học chưa đến nơi khỏi phải nói nhiều, vì nếu bản lãnh hắn cao thâm thì sao lại để Hồ Phỉ bắt được?

Uông Thiết Ngạc tính vốn ngây ngô, nghe Trình Linh Tố nói câu này, lập tức tin ngay. Trình Linh Tố hỏi:

– Hai vị sư ca của lão gia sao không cùng đi? Vãn bối chưa thấy các vị đó đâu?

Thực ra cô chưa từng biết mặt Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu, nhưng cô đoán uy danh hai người này khá lớn, nếu họ ở trong đám này tất phải là nhân vật đầu não, mà lão già kia cùng mấy tên trưởng toán khác đều không sử đao, nên cô đoán chắc hai lão Chu, Tăng đều không có ở đó.

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Chu sư ca cùng Tăng sư ca đều ở lại Bắc Kinh. Chút việc nhỏ mọn này làm gì phải phiền đến đại giá hai vị đó?

Gã nói câu này ra chiều đắc ý.

Trình Linh Tố nghĩ thầm:

– Hai người kia ở lại Bắc Kinh, không lẽ bọn cường đạo này đều từ Bắc Kinh tới đây cả hay sao? Ta phải loè hắn một phen nữa mới được.

Cô liền nói một câu thật hờ hững:

– Cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ chẳng bao lâu nữa sẽ khai diễn, Ưng trảo nhạn hành môn nhất định phải có mặt. Chắc lão gia cũng sẽ về Bắc Kinh để xem náo nhiệt chứ?

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Cái đó còn phải nói! Xong vụ công cán này, bọn ta sẽ trở về Bắc Kinh hết.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều sửng sốt, tự hỏi:

– Công cán mà hắn nói là công cán gì?

Trình Linh Tố nói:

– Các vị đương gia tại quý trại chịu chiêu an về quy thuận triều đình vì Hoàng thượng ra sức, đó là việc làm hiển hách cho tổ tiên.

Không ngờ điểm này Trình Linh Tố đã đoán sai, cô cứ ngỡ bọn chúng là đạo tặc, nếu đi làm công vụ thì tất đã chịu chiêu an quy thuận triều đình.

Ngờ đâu Uông Thiết Ngạc đảo cặp mắt lên, hỏi:

– Chiêu an cái gì? Cô nương tưởng bọn ta là đạo tặc chắc?

Trình Linh Tố la thầm trong bụng:

– Hỏng bét!

Cô lại tủm tỉm cười, đáp:

– Các vị giả làm bằng hữu phe hắc đạo, trong lòng người nào cũng đều hiểu rõ, hà tất phải nói trắng ra?

Tuy cô rào trước đón sau, tựa hồ như không để lộ một mảy may sơ suất song Uông Thiết Ngạc sinh lòng ngờ vực, cô nói gì hắn cũng chỉ trợn mắt lên nhìn chứ không thốt nửa lời.

Hồ Phỉ bỗng lên tiếng:

– Nhị muội! Nhị muội đã quen biết các vị sư ca của Uông huynh, vậy chúng ta đừng làm khó dễ. Mời Uông huynh trở về cho!

Uông Thiết Ngạc ngạc nhiên cứ đứng sững ra đó. Hồ Phỉ mở cửa thạch thất nói tiếp:

– Xin đừng trách tội, hẹn ngày tái ngộ.

Uông Thiết Ngạc không hiểu chàng giở ngụy kế gì, vẫn không dám nhấc chân.

Trình Linh Tố kéo áo Hồ Phỉ đưa mắt ra hiệu. Hồ Phỉ cười nói:

– Tiểu đệ là Hồ Phỉ, nghĩa muội là Trình Linh Tố gửi lời vấn an hai võ sư Chu, Tăng.

Dứt lời chàng khẽ đẩy sau lưng Uông Thiết Ngạc một cái cho hắn ra ngoài cửa. Uông Thiết Ngạc vẫn ngơ ngác không hiểu, ngần ngại chưa chịu cất bước. Gã quay đầu nhìn lại thấy cửa đã đóng, mới đi được vài bước đã xoay người đi ngược vì sợ Hồ Phỉ phóng ám khí sau lưng. Gã đi được chừng năm, sáu trượng vẫn không thấy trong thạch thất có động tĩnh gì mới xoay người lại, chạy vào trong rừng.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Tiểu muội buột miệng nói bừa chứ có biết Chu Thiết Kê hay Tăng Thiết Áp gì đâu. Sao đại ca lại tin thực mà tha hắn?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh xem chừng bọn này quyết chẳng dám gia hại Mã cô nương. Hơn nữa Uông Thiết Ngạc là con người ngốc nghếch, bọn cường đạo chưa chắc đã coi trọng gã. Nếu thực tình muốn gây khó dễ cho Mã cô nương, thì bọn chúng chắc cũng chẳng thương tiếc gì gã phải đình thủ.

Trình Linh Tố khen:

– Đại ca nghĩ rất đúng…

Cô chưa dứt lời đã nhìn thấy Mã Xuân Hoa từ từ cất bước trở về. Quần đạo cung kính đưa đến ven rừng rồi dừng lại, để nàng đi một mình về thạch thất. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nàng, có ý muốn hỏi nhưng không lên tiếng.

Mã Xuân Hoa nói ngay:

– Bọn chúng đều khen võ công của Hồ huynh đệ rất cao thâm mà lòng đầy nhân nghĩa, thực là một vị thiếu niên anh hùng…

Hồ Phỉ nói mấy câu khiêm tốn. Chàng thấy Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần không nói thêm câu nào cũng không hỏi nữa.

Lát sau Mã Xuân Hoa mới nói:

– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Hai vị đi đi thôi. Câu chuyện của tiện thiếp… hai vị không giúp được đâu.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cô nương chưa thoát khỏi nơi hiểm địa thì tại hạ bỏ đi làm sao được?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiện thiếp ở đây không có gì nguy hiểm cả, bọn chúng không dám làm gì tiện thiếp đâu.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Cô nói hai câu này có lẽ đều đúng sự thực, nhưng để cô một mình ở đây thì ta yên tâm thế nào được?

Chàng thấy mặt Mã Xuân Hoa lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, có lúc lại ngần ngật nước mắt, có lúc bên môi lại hé nụ cười. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn nhau ngơ ngác. Cả trong lẫn ngoài nhà thạch thất đều im lặng như tờ.

Hồ Phỉ kéo áo Trình Linh Tố đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Chàng khẽ hỏi:

– Nhị muội, chúng ta làm gì bây giờ?

Trình Linh Tố khẽ đáp:

– Bậc thiếu niên anh hùng đại nhân đại nghĩa làm sao, thì con tiểu nha đầu tóc vàng này cũng làm thế.

Hồ Phỉ hạ thấp giọng xuống, nói:

– Tiểu huynh nghi ngờ một điều, bất luận thế nào cũng cần phải đích thân hỏi Mã cô nương, chứ cứ giằng co mãi thế này cũng không xong được.

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu muội thử đoán coi. Đại ca đã bảo năm xưa có gã họ Thương có ý với Mã cô nương phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Nhị muội thật thông minh. Tiểu huynh nghi ngờ bọn cường đạo này đã chịu lời ủy thác của Thương Bảo Chấn mà đến, nên chúng đối với Mã cô nương rất khách khí, mà đối với trượng phu của cô lại làm nhục đủ điều.

Trình Linh Tố nói:

– Xem ra Mã cô nương vẫn còn tình ý với gã họ Thương.

Hồ Phỉ nói:

– Vì thế nên tiểu huynh không biết mình làm thế nào cho phải.

Lúc hai người nói chuyện không nhìn nhau, chỉ thấy đôi môi mấp máy nên Mã Xuân Hoa ngồi trong góc nhà chẳng nghe được câu nào.

Ráng chiều đã nhạt dần, trời sắp tối rồi. Đột nhiên mé tây có tiếng còi rúc lên dồn dập. Lại có thêm mấy người nữa cưỡi ngựa tới. Trình Linh Tố nói:

– Viện thủ của địch nhân lại đến nữa rồi.

Hồ Phỉ lắng tai nghe rồi hỏi:

– Sao lại có một người đi bộ?

Quả nhiên lát sau có một người chạy thục mạng tới gần. Phía sau bốn người cưỡi ngựa đi thành hình cánh quạt rượt theo. Bốn người trên ngựa dường như có ý bỡn cợt nên không giục ngựa tới ngay, miệng chúng quát tháo, thổi còi, thủy chung vẫn cách xa người chạy bộ hai, ba trượng. Người chạy bộ đầu bù tóc rối chân bước loạng choạng, hiển nhiên đã kiệt sức.

Hồ Phỉ nhìn rõ mặt mũi người đó, la lên:

– Từ đại ca! Lại đây!

Dứt lời chàng mở cửa toan chạy ra tiếp ứng thì đã không kịp nữa rồi. Bốn con ngựa chạy vòng theo mé bên tiến lên trước cản đường Từ Tranh. Quần đạo ở trong rừng cùng đổ ra. Nếu Hồ Phỉ xông tới cứu viện thừa cơ sấn vào thạch thất, Trình Linh Tố và Mã Xuân Hoa sẽ bị nguy ngay. Chàng đành giương mắt lên nhìn quần đạo bao vây Từ Tranh.

Hồ Phỉ cất tiếng sang sảng, quát lớn:

– Ỷ đông thủ thắng đâu phải anh hùng hảo hán?

Hán tử cưỡi ngựa đuổi theo, một tên đáp:

– Không sai! Ta đang muốn đơn đả độc đấu với cao đồ của Thần quyền vô địch là Từ đại tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục.

Hồ Phỉ nghe thanh âm quen thuộc, chú ý nhìn lại bỗng la thất thanh:

– Gã là Thương Bảo Chấn!

Trình Linh Tố nói:

– Gã họ Thương quả nhiên đã đến rồi.

Cô thấy gã vẻ người đĩnh đạc, mặt mũi trắng trẻo, so với Từ Tranh mặt đầy sứt sẹo thì tỏ ra tuấn nhã gấp mười lần. Cô lại thấy gã xoay mình nhảy xuống ngựa, thân pháp rất ung dung tiêu sái, nghĩ thầm:

– Gã này quả xứng đôi với Mã cô nương, không trách gã nổi dạ bất bình nói những chuyện “bông hoa lài cắm bãi phân trâu” gì gì đó.

Dù sao cô cũng là một thiếu nữ nhỏ tuổi nên không nhịn được, liền la lên:

– Mã gia tỷ tỷ! Gã họ Thương đã tới rồi đó.

Mã Xuân Hoa chỉ ậm ừ tựa hồ không hiểu Trình Linh Tố nói gì. Lúc này quần đạo đã bao quanh Từ Tranh thành một vòng vây lớn, che mất nhãn quang của những người đứng từ trong cửa sổ nhìn ra.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Ở đây nhìn không thấy. Chúng ta lên nóc nhà coi.

Hồ Phỉ đáp:

– Phải rồi!

Hai người nhảy lên nóc nhà, nhìn thấy Từ Tranh cùng Thương Bảo Chấn quắc mắt nhìn nhau. Thương Bảo Chấn tay cầm đơn đao sống dày lưỡi mỏng còn Từ Tranh thì tay không.

Trình Linh Tố nói:

– Vụ này bất công rồi.

Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe Thương Bảo Chấn lớn tiếng nói:

– Từ gia! Thương mỗ động thủ với Từ gia đã không ỷ đông thủ thắng, mà cũng chẳng để Từ gia phải tay không. Bây giờ, Từ gia dùng đao còn tại hạ tay không, vậy là Từ gia không thua thiệt gì nữa.

Dứt lời gã cầm thanh đơn đao xoay chuôi lại nhắm Từ Tranh ném tới. Từ Tranh vươn tay ra đón lấy, miệng thở hồng hộc, nói:

– Khi còn ở Thương gia bảo, ngươi đối với sư muội ta như vậy, tưởng ta không có mắt ư? Bữa nay bọn ngươi vô cớ kéo cả bè lũ đến đây để làm gì, Từ mỗ bất tất phải nói nhiều. Thương Bảo Chấn! Ngươi lấy đao ra đi.

Thương bảo Chấn lớn tiếng đáp:

– Tại hạ dùng hai bàn tay không tỷ đấu với thanh đơn đao của Từ gia. Các vị đại ca! Nếu tiểu đệ có chết về lưỡi đao của gã cũng chỉ trách mình cuồng vọng tự đại, xin đừng ai vào trợ lực.

Trình Linh Tố hỏi:

– Sao gã lại to tiếng thế? Hiển nhiên gã có ý nói cho Mã cô nương nghe thấy. Gã tay không đấu đơn đao chẳng những muốn phô tương tài nghệ trước ý trung nhân, mà còn muốn làm cho nàng động tâm.

Hồ Phỉ buông tiếng thở dài.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca! Đại ca nói thử Mã cô nương muốn ai thắng?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tiểu huynh không biết.

Trình Linh Tố nói:

– Một bên là chồng, một bên là người ngoài, xem ra cả hai đều vì Mã cô nương mà liều mạng. Cô nấp trong xó nhà chẳng lý gì tới. Tiểu muội chỉ e rằng trong thâm tâm Mã cô nương lại mong cho Thương thiếu gia thắng đó.

Hồ Phỉ trong lòng cũng nghĩ như vậy nhưng chỉ lắc đầu, nói:

– Tiểu huynh không biết.

Từ Tranh thấy Thương Bảo Chấn nhất định không dùng binh khí, hắn liền cầm ngang thanh đơn đao, nói:

– Bữa nay Từ mỗ đã bị vây hãm trong trùng vi cũng không muốn sống để trở về nữa.

Hắn vung đao nhằm đỉnh đầu Thương Bảo Chấn chém xuống.

Võ công Thương Bảo Chấn cao hơn Từ Tranh nhiều. Năm xưa ở Thương gia bảo, gã yêu cầu Từ Tranh dạy quyền cước chỉ là giả vờ. Mấy năm nay gã theo hai vị sư bá, sư thúc là Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn khổ công rèn luyện “Bát Quái đao” và “Bát Quái chưởng”, công phu tiến bộ rất nhiều. Từ Tranh thua chạy hàng nửa ngày, sức cùng lực kiệt. Trong tay tuy có đơn đao, nhưng đấu với “Bát Quái chưởng” của Thương Bảo Chấn mới được mấy chiêu đã lâm vào thế hạ phong.

Hồ Phỉ chau mày nói:

– Gã họ Thương rất xảo quyệt.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca có muốn ra tay không?

Hồ Phỉ đáp:

– Ta vì muốn giúp Mã cô nương mà tới đây nhưng… nhưng… ta thật không hiểu ý cô ấy ra sao?

Trình Linh Tố ra chiều rất bất mãn với Mã Xuân Hoa, liền nói:

– Mã cô nương quyết không có sự gì nguy hiểm. Đại ca có lòng hảo tâm muốn giúp đỡ, chưa chắc cô đã chịu nghe. Chúng ta đi quách là hơn!

Hồ Phỉ thấy thanh đơn đao của Từ Tranh bị chưởng đạo của Thương Bảo Chấn kiềm chế phóng ra những chiêu lệch lạc, chẳng vào chưởng pháp nào hết, nhìn thấy cảnh tượng rất thê thảm. Chàng nói:

– Nhị muội! Nhị muội nói phải lắm. Vụ này chúng ta không nên can thiệp làm gì.

Chàng ở trên nóc nhà nhảy xuống, đi vào thạch thất nói:

– Mã cô nương! Từ đại ca không chống chọi được nữa rồi. E rằng gã họ Thương sắp hạ độc thủ.

Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần, ậm ừ một tiếng chứ không nói gì. Hồ Phỉ lửa giận bốc lên không thèm nói nữa, quay lại bảo Trình Linh Tố:

– Nhị muội! Chúng ta đi thôi.

Mã Xuân Hoa tựa hồ người trong mộng choàng tỉnh giấc, cất tiếng hỏi:

– Các vị đi ư? Đi đâu bây giờ?

Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:

– Mã cô nương! Ngày trước cô nương đã năn nỉ giùm tại hạ, tại hạ rất cảm kích. Nhưng cô nương đối với Từ đại ca như vậy…

Chàng chưa dứt lời bỗng nghe ngoài cửa xa vang lên một tiếng rú thê thảm, chính là thanh âm của Từ Tranh. Tiếp theo là tiếng cười ha hả của Thương Bảo Chấn, trong tiếng cười lộ vẻ cực kỳ đắc ý. Quần đạo cũng hoan hô vang dội:

– Hảo Bát Quái chưởng! Hảo Bát Quái chưởng!

Mã Xuân Hoa cả kinh, la lên:

– Sư ca!

Rồi nàng lao ra ngoài.

Hồ Phỉ hậm hực nói:

– Tình nhân đánh chết trượng phu là hợp ý lắm rồi còn gì.

Trình Linh Tố thấy chàng phẫn nộ quá chừng, liền cất giọng ôn nhu an ủi:

– Vụ này dù đại ca có bản lãnh nghiêng trời cũng chẳng có cách gì can thiệp được.

Hồ Phỉ nói:

– Nếu y không yêu sư ca, hà tất phải thành thân với gã?

Trình Linh Tố đáp:

– Chắc cô bị bắt buộc phải vâng lời phụ thân.

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Không phải. Phụ thân cô bị chết cháy ở Thương gia bảo từ trước rồi. Dù đã có hôn ước cũng nên hủy bỏ, còn hơn là đi đến nông nỗi này.

Bồng nghe có tiếng rên rỉ của Từ Tranh từ trong đám đông vọng ra.

Hồ Phỉ cả mừng nói:

– Từ đại ca chưa chết. Ta thử ra coi.

Chàng liền cầm tay Trình Linh Tố, rảo bước chen vào giữa đám quần đạo. Thật là lạ, trước đây chưa lâu, quần đạo cùng Hồ Phỉ bên công bên thủ, bày trận đánh nhau, nhưng hiện giờ chúng chỉ chú ý đến Mã Xuân Hoa, Thương Bảo Chấn và Từ Tranh, tuyệt không để ý gì đến Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.

Hồ Phỉ cúi xuống nhìn Từ Tranh thấy trước ngực hắn có vũng máu lớn, hơi thở đã yếu lắm. Hiển nhiên hắn bị chưởng lực của Thương Bảo Chấn làm chấn động nội tạng, chỉ trong khoảnh khắc là tắt thở. Mã Xuân Hoa đứng ngẩn người ra trước mặt Từ Tranh, không nói câu gì. Hồ Phỉ cúi xuống khẽ nói vào tai Từ Tranh:

– Từ đại ca! Đại ca còn việc gì chưa giải quyết, tiểu đệ sẽ giúp cho.

Từ Tranh hết nhìn vợ lại nhìn Thương Bảo Chấn, hắn cười rất đau khổ, khẽ đáp:

– Không có.

Hồ Phỉ nói:

– Tiểu đệ đi kiếm hai đứa con nhỏ để nuôi chúng thành người.

Giữa chàng và Từ Tranh chưa có mối giao tình gì, nhưng chàng thấy hắn đến nông nỗi này nên nổi lòng nghĩa phẫn, không nhịn được mà đứng ra gánh vác. Từ Tranh lại cười rất đau khổ, thều thào nói một câu nhưng tiếng nhỏ quá, Hồ Phỉ không nghe rõ. Chàng áp tai vào bên miệng hắn mới nghe được mấy tiếng nhát gừng:

– Con… con… trước khi… kết hôn… đã có con rồi… không phải là của tại hạ…

Hắn thở hắt ra rồi tuyệt khí chết liền.

Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ: “Hèn gì Mã cô nương lại thành thân với gã. Té ra sau khi Thương gia bảo bị thiêu rụi, gã họ Thương không biết đi đâu, mà cô lại mang thai, cô không lấy Từ Tranh cũng không được. Thảo nào hai thằng nhỏ trắng trẻo khả ái, chẳng giống tướng mạo Từ đại ca chút nào”.

Chàng vươn người đứng lên, không biết phải nói gì, bỗng tai lắng nghe tiếng vó ngựa vang lên. Lại có hai hán tử nữa phi ngựa tới. Mỗi hán tử đều ẵm một đứa con của Mã Xuân Hoa trong tay.

Mã Xuân Hoa hết nhìn Từ Tranh lại nhìn Thương Bảo Chấn, hỏi:

– Thương thiếu gia! Thiếu gia ra tay đánh chết trượng phu của tiểu muội rồi ư?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Đơn đao còn ở trong tay y, tại hạ không chiếm chút tiện nghi nào cả.

Mã Xuân Hoa khẽ gật đầu, rút thanh đơn đao ở trong tay Từ Tranh ra, nói:

– Đây là thanh Bát Quái đao gia truyền của thiếu gia. Khi tiểu muội ở Thương gia bảo đã từng thấy qua.

Thương Bảo Chấn mỉm cười nói:

– Cô nương còn nhớ là hay lắm. Tại hạ chỉ mong cô nương nhớ tới.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiểu muội sao lại không nhớ được? Chuyện cũ ở Thương gia bảo tựa hồ như còn hiện ra trước mắt.

Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ thấy mặt chàng đỏ bừng, ngực nhô lên hụp xuống không ngớt, đang dằn lửa giận để khỏi phát tác.

Mã Xuân Hoa cầm thanh Bát Quái đao giơ lên khen:

– Thanh đao tốt quá!

Nàng từ từ bước lại trước mặt Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn hé miệng mỉm cười, ánh mắt đầy tình tứ, đưa tay đón lấy. Mã Xuân Hoa xoay ngược mũi đao, có vẻ như muốn đưa chuôi đao lại cho gã. Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng, mũi đao xoay lại đâm vào hông của Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn rú lên một tiếng. Gã phóng chưởng đánh ra đẩy Mã Xuân Hoa lùi lại mấy bước, miệng lắp bắp:

– Ngươi… ngươi… ngươi… làm sao…

Gã chưa dứt lời đã té nhào xuống, chết ngay tức khắc. Diễn biến đột ngột này không một ai ngờ đến. Nguyên Thương Bảo Chấn đánh chết Từ Tranh, Mã Xuân Hoa phải trả thù chồng, đó là điều ai cũng nghĩ tới, nhưng đối với cái chết của Từ Tranh nàng chẳng lộ vẻ thương tâm chút nào, lại cùng đối đáp với Thương Bảo Chấn tựa hồ hân hoan muốn chắp lại tình xưa, vậy mà đao quang chợt nhoáng lên, mũi đao đã đâm gục kẻ địch.

Quần đạo còn đang ngơ ngác chưa kịp bật tiếng la thì Hồ Phỉ đã khẽ đẩy sau lưng Trình Linh Tố, tay dắt Mã Xuân Hoa hấp tấp lui vào thạch thất. Quần đạo hét ầm lên, toan ngăn cản thì đã chậm mất một bước. Sự việc xảy ra quá đột ngột, quần đạo hiển nhiên còn phải bàn bạc nên không tấn công vào thạch thất ngay mà lại lui ra mở rộng vòng vây.

Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa, vui vẻ nói:

– Lúc trước tiểu đệ đã trách lầm cô nương, nhưng cô nương không phải là hạng người như vậy.

Mã Xuân Hoa không đáp, một mình ngồi ngây người ra ở góc nhà. Trình Linh Tố bây giờ đối với nàng bằng thái độ khác hẳn. Cô ôn tồn an ủi nàng mấy câu, nhưng Mã Xuân Hoa chỉ nhìn thẳng về phía trước không nói nửa lời. Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu. Hai người sóng vai đứng trước cửa sổ.

Hồ Phỉ nói:

– Mã cô nương trả thù cho chồng, hạ sát địch nhân một cách bất ngờ khiến gã trở tay không kịp. Về điểm này ta càng không hiểu.

Trình Linh Tố cũng cảm thấy khó hiểu, từ lúc Thương Bảo Chấn xuất hiện thì tất cả sự việc đều hiện rõ chân tướng, nhưng tình hình lúc này lại diễn biến mười phần cổ quái. Mã Xuân Hoa tự tay hạ sát Thương Bảo Chấn, phải chăng vì nàng thấy trượng phu bị chết thảm mà đột nhiên thiện lương xuất hiện? Nếu quả bọn cường đạo đều do Thương Bảo Chấn mời đến, thì sau khi gã chết rồi bọn chúng tất nhiên phẫn nộ, la hét tấn công, nhưng sao chúng chỉ lộ vẻ kinh dị chứ không có hành động gì khác?

Hồ Phỉ ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Nhị muội! Trong vụ này còn nhiều chỗ khó hiểu. Hai chúng ta nếu cứ liều lĩnh can thiệp không chừng lại làm hại người tốt. Mã cô nương nhất định không chịu nói rồi. Ta đi hỏi tên thủ lãnh bọn cường đạo xem sao.

Trình Linh Tố nói:

– Chắc gì hắn đã chịu nói?

Hồ Phỉ đáp:

– Thì cứ để tiểu huynh thử xem sao!

Trình Linh Tố dặn:

– Đại ca phải thận trọng lắm mới được.

Hồ Phỉ nói:

– Tiểu huynh hiểu rồi.

Chàng mở cửa ra, từ từ đi về phía quần đạo. Quần đạo thấy chàng đi một mình, tay không cầm binh khí, đều lộ vẻ kinh dị. Hồ Phỉ còn cách quần đạo chừng sáu, bảy trượng dừng lại nói:

– Tại hạ có điều cơ mật muốn bàn với quý thủ lãnh.

Chàng nói rồi vỗ vào người mấy cái để chứng tỏ không mang binh khí. Một hán tử to lớn trong quần đạo lớn tiếng đáp:

– Bọn ta đây toàn là hảo huynh đệ, các hạ có điều chi cứ nói đừng ngại, hà tất phải lén lén lút lút.

Hồ Phỉ cười nói:

– Các vị đều là anh hùng hảo hán thì vị đầu lãnh dĩ nhiên là một nhân vật không phải tầm thường, chẳng lẽ lại không dám nói với tại hạ một câu?

Lão già gầy nhom xua tay đáp:

– Nhân vật phi thường thì không dám. Lão phu coi tiểu huynh đệ là một thiếu niên anh hùng, hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!

Lão đưa mấy lời khen ngợi Hồ Phỉ, nhưng vẻ mặt lại rất ngạo nghễ. Hồ Phỉ chắp tay hỏi:

– Lão gia tử! Xin lão gia ra ngoài một bước cho tiểu đệ thưa chuyện.

Chàng nói rồi đi về phía khu rừng trống. Lão già liếc mắt lên nhìn. Vụ Mã Xuân Hoa đâm chết Thương Bảo Chấn vừa rồi còn khiến mọi người ai cũng kinh ngạc, lão vẫn chưa yên tâm vì sợ Hồ Phỉ ngấm ngầm thi hành độc kế nên không dám đi ngay, nhưng không đi lại không khỏi tỏ ra khiếp nhược. Lão tập trung hết tinh thần để đề phòng rồi từng bước tiến gần đến Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ chắp tay nói:

– Vãn bối là Hồ Phỉ. Tôn tính lão gia là gì?

Lão già không trả lời mà hỏi lại:

– Tôn giá có điều chi muốn nói?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Cũng chẳng có chuyện gì. Vãn bối muốn thỉnh giáo mấy đường quyền cước.

Lão già không ngờ Hồ Phỉ kêu mình ra ngoài để nói câu này, đột nhiên biến sắc, xẵng giọng:

– Tiểu tử giỏi lắm! Ngươi gạt ta ra đây chỉ để nói câu này thôi ư?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Xin lão gia đừng giận. Vãn bối muốn đánh cuộc với lão gia một phen.

Lão già hừ một tiếng rồi xoay mình bước đi. Hồ Phỉ nói:

– Vãn bối đã tiên liệu lão gia không dám! Vãn bối có đứng bất động một chỗ, lão gia cũng không đánh nổi.

Lão già tức giận hỏi:

– Ngươi bảo sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Hai chân vãn bối ghim chặt xuống đất không di động nửa tấc, còn lão gia tha hồ chạy nhảy. Chúng ta tỷ đấu quyền cước như vậy, lão gia bảo ai được ai thua?

Lão già thấy chàng phô trương thân thủ đoạt lôi chấn đáng, bắt Uông Thiết Ngạc, đoạt kiếm trả kiếm, bắn liên tục ám khí, môn nào cũng làm người ta hoa cả mắt. Nếu đơn đả độc đấu thì quả lão có điều khiếp sợ, nhưng nghe chàng khoác lác là sẽ ghim chặt hai chân đứng yên bất động để đấu với mình, thì chuyện này chưa từng nghe trên chốn giang hồ. Lão là chưởng môn phái “Bát Cực quyền” ở phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam, tính người thận trọng, võ công lại cao cường, vì thế hơn ba chục người tới đây để lão làm thủ lĩnh. Lão nghĩ đối phương không di động hai chân thì mình ở vào thế không thể thua được, rồi dần dần sẽ chiếm thế thượng phong.

Lão nghĩ vậy nên không tức giận mà lại cảm thấy cao hứng, bèn cười nói:

– Tiểu huynh đệ đưa ra cách mới để khảo nghiệm lão phu. Hay lắm! Mấy rẻ xương già này có gãy về tay tiểu huynh đệ cũng được. Chúng ta có được dùng ám khí không?

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Đã tỷ võ giao hữu thì còn dùng ám khí làm gì?

Lão già nghĩ bụng:

– Ta nếu đánh không lại gã chỉ cần lùi lại ba bước, mà gã đã ghim chân xuống đất thì tay gã làm gì với tới được? Vậy có kém lắm cũng giữ được thế ngang ngửa.

Lão liền nói:

– Hay lắm!

Hồ Phỉ nói:

– Giữa vãn bối và lão gia vốn không quen biết. Lần này can thiệp vào chuyện không đâu thật là nhộn quá. Chỉ cần thua một chiêu nửa thức là vãn bối cùng nghĩa muội lập tức đi ngay.

Lão già bụng bảo dạ:

– Nếu gã cố tình bênh vực Mã cô nương thì vụ này cũng khó kết thúc. Còn mình ỷ số đông để tấn công tất làm hại nhiều mạng người, nếu như làm thương tổn Mã có nương lại càng không ổn, vậy dàn xếp cho êm thấm là hay hơn cả.

Lão liền đáp:

– Phải rồi! Vụ này tuyệt không liên can gì đến người ngoài. Từ nay Mã cô nương phú quý vinh hoa, địa vị cao ngất mây xanh, tiểu huynh đệ có mối giao tình với cô cũng nên mừng cho cô.

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Vãn bối có điều không hiểu. Nếu lão gia có ý nhường nhịn một chiêu, thì vãn bối xin lão gia cho biết rõ nguyên ủy bên trong.

Lão già trầm ngâm một chút rồi nói:

– Được rồi. Cứ như thế đi.

Lão thấy Hồ Phỉ hai chân đứng cách nhau một thước tám tấc, vững vàng như núi, trầm ổn tuyệt luân thì không khỏi động tâm, nghĩ thầm:

– Không chừng mình thua gã thực chứ chẳng chơi.

Lão nói tiếp:

– Chúng ta cần nói rõ trước. Lão phu mà thua sẽ nói rõ sự việc cho tiểu huynh đệ hay, nhưng tiểu huynh đệ nhất định không được nói với người thứ hai nào.

Hồ Phỉ nói:

– Vãn bối có thể nói với nghĩa muội được không?

Lão già thầm nghĩ:

– Người ta thường nói “Can sài liệt hỏa hảo chử phạn, Can huynh can muội hảo tố thân”. Hai người họ là anh em kết nghĩa thì thân mật biết là chừng nào? Bây giờ miệng gã ưng thuận không nói cho ai nhưng có lý nào gã lại không kể cho nghĩa muội gã hay?”

Lão nghĩ vậy bèn nói:

– Không được nói với bất kỳ người thứ ba nào.

Hồ Phỉ nói:

– Được! Cứ như vậy đi. Nhưng chắc đâu vãn bối thắng được lão nhân gia?

Lão già nhớm người lên, mỉm cười nói:

– Xin thất lễ!

Tay trái lão phóng chưởng đánh ra, tay mặt biến thành móc câu. Đó là “Thôi sơn thức” trong “Bát cực quyền”. Hồ Phỉ thuận tay đưa lên gạt, chàng cảm thấy chưởng lực của lão rất hùng hậu liền nói:

– Chưởng lực lão gia tuyệt lắm!

Quần đạo thấy hai người kéo nhau vào rừng động thủ liền tới tấp bu lại nhưng thấy hai người đều có vẻ tươi cười, nên chúng liền đứng ngoài để quan sát. Bát cực trong “Bát cực quyền” gồm có “Phiên Thủ”, “Điệp Uyển”, “Thốn Khẩn”, “Đẩu Triển” chia làm tám thức “Lâu, Đả, Đằng, Phong, Thích, Đẳng, Tảo, Quái”, đều chú trọng ở điểm thần tốc, linh hoạt. Lão già thi triển “Phiên Thủ” rất linh hoạt, “Điệp Uyển” rất xảo diệu, “Thốn Khẩn” rất tinh thuần, “Đẩu Triển” rất thần tốc, quả đúng là phong phạm của một danh gia cao thủ.

Quần đạo đứng xem đều ngấm ngầm bội phục, ai cũng nghĩ thầm.

– Y đem “Bát cực quyền” để dương uy ở hai vùng nam bắc sông Đại Hà nổi danh đã hơn ba mươi năm nay, quả có chân tài thực học chứ hoàn toàn không chỉ là hư danh.

Lão già tiến một bước thành ba vòng, ba bước thành chín lần chuyển mười hai bước thành thế liên hoàn, đại thức biến thành tiểu thức, tiểu thức biến thành trung bàn. Lão triển khai nào “Kỵ mã thức”, “Ngư lân thức”, “Cung bộ thức”, “Ma tất thức”, nhảy nhót tung hoành bên mình Hồ Phỉ, quyền cước mỗi lúc một mau lẹ.

Hồ Phỉ vẫn một mực giữ vững, thấy thức nào hóa giải thức ấy. Quả nhiên hai chân chàng không mảy may di động. Đấu nửa chừng, lão già cảm thấy quyền chưởng của mình dần dần trì trệ, tựa hồ như có một niêm lực cứ dính vào giữa quyền chưởng của mình. Lão la thầm:

– Hỏng rồi!

Lão toan nhẩy lùi lại, đối phương không thể nhảy theo truy kích thì không phân thắng bại. Ngờ đâu tay trái lão vừa thu về thì tay phải Hồ Phỉ chụp được nắm tay phải lão, đồng thời tay trái chàng nắm lại thành quyền khẽ đánh vào khuỷu tay phải lão một cái. Lão già cả kinh, vội vận kình lực giật tay ra nhưng không thoát được, lại e mình phải gãy mất cánh tay phải. Chính lúc lão đang hoang mang thì đột nhiên Hồ Phỉ buông tay, chân bước loạng choạng, nói:

– Chưởng lực của lão gia rất hùng hậu. Bội phục! Bội phục!

Lão già hiểu rõ trong lòng, cảm kích vô cùng, vì đối phương không những tha không đánh gãy tay lão lại cố ý chân bước loạng choạng giả vờ tạo thế quân bình, để lão khỏi mất thể diện trước mặt quần đạo, bảo toàn được uy danh một đời. Ơn đức này quả thực không nhỏ. Lão liền bước tới dắt tay Hồ Phỉ, cười nói:

– Tiểu huynh đệ thật là anh hùng lỗi lạc. Chúng ta qua bên này nói chuyện.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.