Thiên Long Bát Bộ

Hồi 41: Mười tám kỵ sĩ Yên Vân, khí thế thiên binh vạn mã

trước
tiếp

Đinh Xuân Thu đã sát hại hai vị cao tăng Huyền Thống, Huyền Nạn của phái Thiếu Lâm. Quần tăng chùa Thiếu Lâm xem hắn là kẻ đại thù, phải giết được hắn mới cam tâm. Mọi người nghe nói kẻ thù đã lên núi Thiếu Thất thì nhốn nháo cả lên. Huyền Sinh hô lớn: “Hôm nay mọi người phải cố gắng bắt Đinh Lão Quái để báo thù cho hai vị sư huynh Huyền Thống, Huyền Nạn.”

Huyền Từ dõng dạc nói: “Khách ở xa đến, mình phải tiên lễ hậu binh!”. Quần tăng đồng thanh “Vâng!” một tiếng. Huyền Từ lại nói: “Các vị sư huynh! Chư vị bằng hữu! Chúng ta cùng ra xem những cao chiêu của phái Tinh Tú cùng nhà Mộ Dung tỉ đấu, có nên chăng?”

Quần hùng vốn đang chờ đại sư nói câu này, nghe xong như được gãi đúng chỗ ngứa. Những thiếu niên anh hào tính tình nóng nảy nhưng địa vị chưa cao, tức thời chạy đi như ong vỡ tổ. Theo sau là tứ đại ác nhân, hảo hán các nơi, họ Đoàn nước Đại Lý, rồi đến cao tăng các chùa lục tục rảo bước đi ra. Tiếng khí giới chạm nhau vang lên loảng xoảng, thì ra là các nhà sư Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ đang lấy binh khí trao cho sư phụ và các vị sư thúc, sư bá.

Quần tăng Thiếu Lâm cả bốn đời Huyền Tuệ Hư Không đều cầm binh khí, xếp thành hàng ngũ kéo ra khỏi chùa. Mọi người vừa ra đến cửa sơn môn, một nhà sư chạy đến báo tin: “Phái Tinh Tú có đến hơn ngàn người, đang bao vây bọn Mộ Dung công tử ở sườn núi, ác đấu chưa ngừng.” Huyền Từ gật gật đầu, liền đứng trên một phiến đá nhìn xuống, chỉ thấy đầu người lố nhố đen ngòm.

Tiếng reo hò theo gió vang lên núi: “Hôm nay Tinh Tú Lão Tiên thân hành độc chiến, dĩ nhiên bách chiến bách thắng.” “Các ngươi chỉ là mấy tên yêu ma tiểu quỷ, dám ngang bướng chống đối thì to gan thật!” “Mau mau vứt binh khí mà xin Tinh Tú Lão Tiên tha mạng.” “Tinh Tú Lão Tiên lên núi Thiếu Thất, chỉ dùng ngón tay út điểm một cái cũng đủ làm cho chùa Thiếu Lâm phải sụp đổ.”

Bọn đệ tử mới của phái Tinh Tú chưa học võ công đã học cách nịnh sư phụ trước. Hơn ngàn người hoan nghênh nghe điếc cả tai, núi Thiếu Thất lại càng giống một nơi thánh địa để xưng tụng công đức. Cả ngàn năm nay, quần tăng Thiếu Lâm tụng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” trước Phật tượng, chưa bao giờ khí thế rầm rộ bằng bọn đệ tử phái Tinh Tú tụng niệm sư phụ lúc này. Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc ra chiều đắc ý, cặp mắt lim dim tựa như chếnh choáng hơi men.

Huyền Sinh vận khí vào đan điền, quát lớn: “Kết thành La Hán đại trận!” Năm trăm nhà sư Thiếu Lâm đồng thanh hô to: “Kết thành La Hán đại trận!” Những bóng áo đỏ, áo xám chuyển động loạn cả lên, năm trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm, phía đông một toán, phía tây một đội, tản ra khắp một vùng núi.

Quần hùng nghe danh La Hán đại trận của phái Thiếu Lâm đã lâu, nhưng cả trăm năm nay phái này chưa phải đại chiến với người ngoài nên chỉ trong phái mới biết, còn người ngoài chẳng ai hiểu. Lúc này họ thấy quần tăng y phục đủ màu đỏ xám vàng đen, khí giới cũng đủ loại đao kiếm trượng câu, người nào cũng chạy như bay, chỉ trong chớp mắt đã vây bọn phái Tinh Tú vào giữa.

Phái Tinh Tú đông người hơn tăng lữ chùa Thiếu Lâm, nhưng phần lớn là bọn mới gia nhập nên chỉ là một toán quân ô hợp, mạnh ai nấy đánh. Nếu quần tăng lập thành trận thế hợp lực tấn công thì bọn chúng dĩ nhiên chân tay lính quính, chẳng biết ứng phó cách nào. Bây giờ tiếng ca tụng lão tiên giảm bớt đi nhiều, cũng lắm tên im lặng không lên tiếng, trong lòng đã muốn đổi bài ca xưng tụng “Tinh Tú Lão Tiên…” thành “Thiếu Lâm Thánh Tăng…”

Huyền Từ phương trượng cất tiếng: “Đinh tiên sinh phái Tinh Tú giá lâm núi Thiếu Thất, chỉ vì muốn đối địch với phái Thiếu Lâm. Vậy xin các vị anh hùng cứ đứng ngoài mà xem phái Thiếu Lâm kháng cự với cao nhân phương Tây.”

Anh hùng các lộ Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng đều la ó: “Tinh Tú Lão Quái tàn hại võ lâm. Chúng ta phải coi hắn là kẻ thù chung, tru diệt cho hết.” Quần hùng đều rút binh khí ra, toan hợp sức với phái Thiếu Lâm giết địch.

Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên đã giết được hơn hai mươi tên môn đồ phái Tinh Tú, bây giờ thấy mọi người đến, đều lùi lại mấy trượng, tạm thời ngưng đấu, nhưng bọn thuộc hạ phái Tinh Tú cũng không tiến lên đuổi đánh.

Đoàn Dự hết lạng sang đông lại vòng sang tây, đã đến đứng bên Vương Ngữ Yên. Chàng nói: “Vương cô nương! Giả tỉ tình hình nguy hiểm thì tại hạ lại cõng cô nương chạy ra.” Vương Ngữ Yên đỏ mặt đáp: “Ta không bị thương mà cũng không bị điểm huyệt, ta… ta tự đi…” Nàng nhìn sang Mộ Dung Phục một cái rồi nói tiếp: “Biểu huynh ta võ nghệ cao cường, thừa sức bảo vệ cho ta. Đoàn công tử cứ tùy tiện ra đi.”

Đoàn Dự nghe vậy không khỏi đau lòng, nghĩ thầm: “Ta có bản lĩnh gì đâu, làm sao sánh với biểu huynh nàng võ công cao cường được?” Nhưng bảo chàng bỏ ra đi, thì làm sao chàng có thể ra đi? Chàng ngượng ngùng nói: “Cái đó… cái đó… À, Vương cô nương, gia gia tại hạ đã đến đây, đang ở ngoài kia.” Vương Ngữ Yên cùng Đoàn Dự đã trải qua bao cơn hoạn nạn, đã cùng đi biết mấy dặm đường, thời gian kề cận nhau không ít, nhưng trước nay Đoàn Dự chưa bao giờ nhắc đến chuyện gia đình, mà cũng chưa từng kể đến thân thế mình trước mặt nàng bao giờ. Đối với Đoàn Dự thì Vương Ngữ Yên là một vị thiên tiên, còn mình là kẻ phàm tục dưới trần gian. Trong con mắt của thiên tiên thì vương tôn công tử hay thứ dân đâu có khác gì nhau?

Vương Ngữ Yên biết rõ Đoàn Dự đối với mình một mối chân tình, nhưng chỉ đem lòng cảm kích vì thấy chàng mấy phen hi sinh để cứu mình, ngoài ra ở con người ấy chẳng có gì khiến nàng phải động tâm. Nàng biết chàng chỉ là một gã đồ gàn, tình cờ hiểu được một bộ pháp xảo diệu cùng với một môn kiếm khí lúc linh nghiệm lúc không, so với biểu ca nàng thì thật một trời một vực. Nhưng lúc này nàng nghe nói gia gia chàng đang ở đây thì cũng hơi hiếu kỳ, liền hỏi: “Phải chăng lệnh tôn từ Đại Lý đến đây? Công tử vừa gặp lệnh tôn rồi phải không?”

Đoàn Dự cả mừng đáp: “Phải rồi. Vương cô nương! Tại hạ dẫn cô nương đến gặp gia phụ, được chăng? Gia phụ gặp cô nương chắc là mừng lắm.” Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng đáp: “Ta không gặp.” Đoàn Dự hỏi: “Sao cô nương lại không muốn gặp gia phụ?” Chàng thấy Vương Ngữ Yên không đáp, liền cố tìm chuyện làm nàng vui, lại nói: “Vương cô nương! Nghĩa huynh tại hạ là Hư Trúc cũng ở đây, y lại quay về làm hòa thượng. Ái chà! Đồ đệ của tại hạ cũng ở đây, thật là náo nhiệt.” Vương Ngữ Yên biết đồ đệ của Đoàn Dự là Nam Hải Ngạc Thần, nhưng chưa bao giờ hỏi vì sao chàng lại thu tên đệ tam ác nhân Hung Thần Ác Sát làm đồ đệ. Nàng nghĩ đến dáng vẻ quái dị của Nam Hải Ngạc Thần, khóe miệng bất giác nở một nụ cười. Đoàn Dự thấy mình dụ được nàng mỉm cười liền cả mừng. Tuy hiện ở giữa vòng vây phái Tinh Tú, nhưng chàng được nghe Vương Ngữ Yên cười nói dịu dàng thì dù việc tày trời cũng không để ý đến nữa.

Quần tăng chùa Thiếu Lâm đã bố trí xong La Hán đại trận, tiền hậu tả hữu có thể hô ứng bảo vệ nhau dễ dàng. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú từ phía Tây tấn công vào, mới trong chớp mắt đã bị thương mấy tên, Đinh Xuân Thu nói: “Các ngươi tạm ngừng tay, không được vọng động.” Rồi lão hô lớn: “Huyền Từ phương trượng! Phái Thiếu Lâm các ngươi tự xưng là thủ lĩnh võ lâm Trung Nguyên, nhưng ta xem ra không chịu nổi một trận.”

Bọn đệ tử cũng hò reo phụ họa: “Phải rồi! Tinh Tú Lão Tiên đã tới đây, bọn trọc đầu chùa Thiếu Lâm tất phải chết hết, không đủ chỗ mà chôn.” “Võ lâm thiên hạ đều bắt nguồn từ phái Tinh Tú. Chỉ có võ công phái Tinh Tú chúng ta mới là chính thống, ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo.” “Bọn người không học võ công phái Tinh Tú đều là tà ma quỷ quái, sắp rước họa vong thân.” Đột nhiên có tên gân cổ xướng lên; “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh.” Hàng ngàn người nhao lên phụ họa, có kẻ khua chiêng đánh trống, có người thổi tiêu thổi địch, khí thế thật là rầm rộ. Phần lớn quần hùng chưa được thấy cảnh tượng phái Tinh Tú kết đoàn hô khẩu hiệu, tuy có phần kinh hãi nhưng không khỏi bật cười.

Giữa những tiếng đàn sáo trống chiêng, từ dưới chân núi bỗng có tiếng vó ngựa vọng lại, mỗi lúc một rõ hơn. Chỉ chốc lát đã có bốn lá cờ vàng từ sườn núi tiến ra, rồi thấy rõ bốn con ngựa chạy tới, kỵ sĩ cầm cờ tung bay trước gió. Trên bốn lá cờ đều đề năm chữ: “Trang bang chủ Cái Bang”. Lên đến sườn núi, bọn kỹ sĩ gò cương dừng lại, xuống ngựa tìm chỗ đất cao để dựng cờ lên. Bốn kỵ sĩ này ăn mặc theo kiểu bang chúng Cái Bang, lưng đeo túi vải, tay cầm cờ hiệu, không nói một lời.

Quần hùng la lên: “Cái Bang bang chủ Trang Tụ Hiền đã đến!” Bốn lá cờ vàng chẳng có vẻ gì kiêu ngạo mà tự có thanh thế, bốn người cầm cờ tuy không nói một lời mà thân thủ nhẹ nhàng linh hoạt, so với kiểu mèo khen mèo dài đuôi của phái Tinh Tú thì làm cho người ta kính nể hơn nhiều.

Cờ vàng vừa dựng lên xong, một trăm mấy chục con ngựa chạy nhanh lên núi. Đi đầu là hơn trăm tên đệ tử sáu túi, theo sau là ba bốn chục tên bảy túi, mười mấy tên tám túi, sau đó một chút là bốn vị trưởng lão đeo chín túi trên lưng. Bọn Cái Bang đều lặng lẽ không ai nói gì, nhảy xuống ngựa, chia ra đứng hai bên. Trước nay bang chúng Cái Bang khi có chuyện quan trọng thì vẫn giữ lề lối ăn mày không đi ngựa đi xe, nhưng bây giờ phá lệ chẳng khác gì các môn phái khác trên giang hồ. Nhiều bậc kỳ túc võ lâm thấy vậy lặng lẽ lắc đầu đầy vẻ bất mãn.

Rồi lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, hai con tuấn mã lông xanh song song tiến lên. Kỵ sĩ bên trái là một thiếu nữ áo tía, rất xinh đẹp nhưng cặp mắt lờ mờ không ánh sáng. Nguyễn Tinh Trúc vừa trông thấy đã buột miệng la lên: “A Tử!” Bà lại quên mình đã cải dạng nam trang, thanh âm vẫn là giọng nữ nhân.

Kỵ sĩ bên phải mình mặc cẩm bào, nét mặt trơ trơ như xác chết. Những vị biết nhiều hiểu rộng trong quần hùng vừa nhìn là biết ngay gã đeo mặt nạ, không muốn để ai nhìn rõ bản tướng mình. Mọi người đều nghĩ: “Đây chắc là bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền, đến đây để tranh ngôi minh chủ võ lâm với phái Thiếu Lâm, nhưng tại sao lại phải giấu mặt không cho ai thấy?” Có người đoán: “Đây chắc là một nhân vật nổi tiếng võ lâm, Trang Tụ Hiền chỉ là tên giả. Đã làm đến bang chủ Cái Bang thì sao có thể là hạng vô danh tầm thường được?” Có người lại đoán: “Chắc gã không nắm chắc phần thắng nên che mặt để lỡ bị thua dưới tay quần tăng Thiếu Lâm thì rút lui cũng đỡ xấu hổ.” “Không chừng gã là Kiều Phong tiền nhiệm bang chủ Cái Bang, trở lại nắm quyền rồi đến kiếm chuyện với phái Thiếu Lâm cùng quần hùng Trung Nguyên”. Cũng có người suy từ Trang Tụ Hiền ra ba chữ Tụ Hiền Trang, những từ đó lại gợi nghĩ tới Kiều Phong. Du thị huynh đệ đã chết dưới tay Tiêu Phong, Tụ Hiền Trang cũng không hiểu đã bị ai đốt thành bãi đất trống, chẳng ai ngờ rằng tân bang chủ Cái Bang lại là Thiếu trang chủ Du Thản Chi của Tụ Hiền Trang năm trước.

A Tử nghe tiếng mẫu thân gọi, nhưng lúc này nàng đang có việc quan trọng, chưa muốn gặp mẫu thân để nói chuyện gia đình. Nàng giả vờ không nghe, bảo Trang Tụ Hiền: “Hiền ca! Chỗ này đồng người lắm phải không? Tiểu muội nghe hò hét những gì Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh. Có phải tên tiểu tử Đinh Xuân Thu dẫn đám quân tôm tép của hắn đến không?” Du Thản Chi đáp: “Không sai. Môn hạ của hắn đông lắm.” A Tử vỗ tay cười nói: “Thật là tuyệt diệu! Ta đỡ phải mất công lặn lội đến phái Tinh Tú đường xa ngàn dặm.” Lúc này bọn đệ tử Cái Bang ba túi, bốn túi, năm túi phải đi bộ cũng đã chạy lên núi, bày thành đội ngũ đứng ở phía sau Du Thản Chi cùng A Tử.

A Tử quay lại vẫy tay một cái, hai tên đệ tử Cái Bang móc trong túi ra một vật gì sắc tía rồi vung tay tung ra trước gió, thì ra là hai lá cờ lớn bằng đoạn tía. Hai gã cầm cờ nội lực rất thâm hậu, giữ hai lá cờ lớn bay phần phật trên không tựa như có cán. Trên mỗi lá cờ đều thêu sáu chữ đỏ như máu:“Đoàn chưởng môn phái Tinh Tú”.

Hai lá cờ vừa mở ra, bọn phái Tinh Tú nhốn nháo cả lên, thi nhau la ó: “Chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên lừng danh bốn biển. Sao lại có tên họ Đoàn nào đòi làm chưởng môn?” “Ăn nói hồ đồ không biết xấu hổ!” “Chức vị chưởng môn có lý nào tự phong lên được?” “Con tiểu yêu nào dám tự xưng là chưởng môn bản phái? Mau mau bước ra đây cho lão gia băm làm xíu mại.” Bọn to mồm thóa mạ đều là những tên mới gia nhập sau này. Còn bọn Sư Hống Tử, Thiên Lang Tử… dĩ nhiên hiểu rõ lai lịch A Tử, nghĩ đến cái bóng vĩ đại của Tiêu Phong che sau lưng nàng đều âm thầm hoảng sợ.

Các tăng lữ cũng như quần hùng thấy thêm một vị chưởng môn phái Tinh Tú nữa xuất hiện thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm, ai cũng cho là bọn tà ma tự chống đối nhau, thật là hảo sự.

A Tử vỗ tay ba cái rồi dõng dạc nói: “Đệ tử phái Tinh Tú nghe đây! Theo qui củ của bản phái, ai có võ công cao cường sẽ được làm chưởng môn. Nửa năm trước đây, Đinh Xuân Thu tỉ đấu với ta, đã bị ta đánh cho lăn quay xuống đất, đã dập đầu lạy ta mười tám lạy, tôn ta lên làm sư phụ, rồi hai tay cung kính dâng chức chưởng môn cho ta. Chẳng lẽ hắn chưa thông báo cho các ngươi hay sao? Đinh Xuân Thu, mi thật là lớn mật! Mi là đại đệ tử của ta, lý ra phải nêu gương cho bọn sư đệ, sao lại dám khi sư diệt tổ, lừa dối bọn đàn em?” Thanh âm nàng rất trong trẻo, ai cũng nghe rõ từng chữ một.

Mọi người nghe vậy đều rất ngạc nhiên, nàng chỉ là một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi, hai mắt lại mù lòa, sao làm chưởng môn được? Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau kinh hãi. Hai người đều biết con gái mình là môn hạ của Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, tính nết cực kỳ cổ quái điêu ngoa, song võ công cũng chỉ tầm thường, không hiểu sao lại dám phản thầy. Nàng đã vuốt râu hùm thì chuyện này khó mà dàn xếp cho êm được. Hiện giờ nước Đại Lý vẻn vẹn chỉ có mấy người đến núi Thiếu Thất, làm sao chống nổi phái Tinh Tú để cứu nàng thoát hiểm?

A Tử ngang nhiên giương cờ chưởng môn phái Tinh Tú trên núi Thiếu Thất, hàng ngàn hàng vạn con mắt trông vào, Đinh Xuân Thu nhịn làm sao được? Lão giận muốn phát điên nhưng ngoài mặt vẫn mỉm cười đầy vẻ ôn hòa, nói: “Tiểu A Tử! Trong bản phái, ai giỏi võ công là được giữ chức chưởng môn, câu đó không sai. Ngươi dám dòm ngó địa vị chưởng môn, tất phải có bản lĩnh ghê gớm! Hãy tới đây tiếp ta ba chiêu có được chăng?”

Đột nhiên mắt lão hoa lên, trước mặt cách ba thước đã xuất hiện một người, chính là Du Thản Chi. Gã này xuất hiện cực kỳ đột ngột, Đinh Xuân Thu nhãn lực phi thường mà cũng không nhìn rõ gã đến từ lúc nào. Lão bất giác kinh hãi, lùi lại một bước dài.

Đinh Xuân Thu đã lùi xa dần đến năm thước, mà thấy Du Thản Chi chỉ cách mình ba bước, không thể hiểu nổi vì sao đối phương vọt nhanh đến thế mà không lộ vẻ gì cố gắng. Đinh Xuân Thu thấy võ công hắn ghê gớm, lại nhìn thấy bộ mặt trơ trơ vàng khè như xác chết thì càng hoảng hốt. Lão chưa kịp mở miệng chất vấn: “Ta muốn cùng A Tử tỉ thí, sao ngươi lại nhúng tay vào?”, đã vội xoay tay nắm một tên đệ tử liệng tới.

Du Thản Chi ứng biến cực nhanh, cũng lập tức xoay tay chụp lấy một tên đệ tử Cái Bang ba túi, đẩy về phía trước. Tên đệ tử ba túi này tựa như một thứ ám khí khổng lồ vọt tới trước mặt Đinh Xuân Thu, còn đang lơ lửng trên không thì đụng vào tên đệ tử phái Tinh Tú do Đinh Xuân Thu liệng ra nghe “ầm” một tiếng. Mọi người đứng xem, thấy hai luồng kình lực mạnh ghê gớm đều nghĩ thầm: “Hai tên đệ tử này đụng nhau tất phải gãy xương nát thịt mà chết.”

Ngờ đâu hai tên này không kêu la gì hết, chỉ nghe tiếng vù vù rồi mọi người đều ngửi thấy mùi hôi thối đến phải buồn nôn. Quần hùng nín thở lùi lại, người thì đưa tay lên bịt mũi, người thì lấy thuốc giải ra uống, đều biết Đinh Xuân Thu cùng Trang Tụ Hiền đã truyền chất âm độc vào thân thể đệ tử. Hai tên đệ tử chạm vào nhau đều té lăn xuống đất không nhúc nhích, chết cả rồi.

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi một chiêu không phân cao thấp, đều ngấm ngầm sợ hãi lùi lại mấy thước. Cả hai lại túm lấy đệ tử liệng ra, hai tên này cũng đụng nhau trên không, bay mùi tanh tưởi, mất mạng lập tức.

Hai bên đều sử một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú là Hủ Thi Độc. Chúng nắm lấy người sống để liệng ra, nhưng vừa nắm lấy ai là người đó phải chết ngay, khắp thân thể xác chết đều đầy chất độc. Nếu đối phương dùng tay để gạt xác chết đó tất phải nhiễm độc, giả tỉ dùng khí giới để gạt thì chất độc cũng qua binh khí mà truyền vào tay người. Thậm chí đối phương có né tránh hay phóng chưởng cách không ra đỡ cũng khó mà tránh khỏi độc khí xâm nhập vào mình.

Hôm đó Du Thản Chi cùng A Tử đi theo Toàn Quan Thanh, gã đã không có kinh nghiệm giang hồ lại chẳng nghi ngờ gì, chưa tới hai ngày đã kể hết cho Toàn Quan Thanh nghe lai lịch của mình. Toàn Quan Thanh nghĩ: “Tên này nội công cao cường hiếm thấy, nhưng võ công tầm thường quá thì cũng chẳng có công dụng gì.” Y điều tra biết được A Tử là môn đồ của Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu, bèn nảy ra một kế, liền bảo Du Thản Chi theo A Tử mà học võ công phái Tinh Tú. Trước mặt A Tử thì gã tán dương võ công Du Thản Chi là thiên hạ vô song, khuyên A Tử biểu diễn võ công đã học cho Du Thản Chi chỉ điểm.

Du Thản Chi cùng A Tử đều còn trẻ tuổi, một người si mê, một người mù lòa, đều bị y thao túng dễ như nhau. A Tử biểu diễn từng chiêu, rồi lại thuyết minh rõ cách tập luyện. Công phu Hủ Thi Độc của Du Thản Chi cũng học từ đó ra. Yếu quyết của Hủ Thi Độc hoàn toàn dựa vào nội công thâm hậu và độc chất tích chứa trong mình, chộp người ta một cái là chết ngay, rồi dùng xác chết đã nhiễm độc làm ám khí, không cần chút xảo diệu nào. Môn nhân phái Tinh Tú ai ai cũng hiểu nguyên lý môn này, chỉ vì không luyện được đến nơi mà thôi. Hồi A Tử ở thành Nam Kinh đã bắt rất nhiều trùng độc rắn độc về để luyện, nhưng ngay cả độc chưởng cũng luyện chưa xong, nói chi đến môn Hủ Thi Độc cao cường.

A Tử vốn rất tinh ranh nhưng hai mắt đã đui mù, không nhìn rõ sắc mặt Du Thản Chi. Tính mạng nàng đã do Trang công tử cứu được từ tay Đinh Xuân Thu, lại nghe Toàn Quan Thanh hoa ngôn xảo ngữ thổi phồng Du Thản Chi lên. Dù nàng thông minh gấp mười cũng không đoán nổi vị Trang công tử võ công cái thế này lại đang học lén võ nghệ của mình.

Mỗi khi A Tử trình diễn chiêu nào, Du Thản Chi lại theo đúng phép mà diễn thử. Trong người gã đã có chất hàn độc của con băng tằm, lại luyện nội công thượng thừa của Dịch Cân Kinh, kiêm cả sở trường hai phái chính tà. Nội lực gã không phải tầm thường, những chiêu thức sơ đẳng ở tay y phóng ra cũng có oai lực mãnh liệt đến gãy cây, vỡ đá.

A Tử nghe bằng tai, chỉ còn biết khâm phục gã. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một ít phương pháp tu luyện nội công thượng thừa trong Dịch Cân Kinh. A Tử theo đó mà luyện tập, tuy không tiến bộ nhiều nhưng cũng thấy thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn, gân cốt linh hoạt. Nàng cho là tập một thời gian sẽ có công hiệu thần kỳ.

Lúc đó Du Thản Chi đã hiểu rõ thần lực của bản thân mình có liên quan rất lớn đến những đồ hình lão tăng lõa thể trong quyển sách cổ quái kia. Vì y muốn khoe khoang trước mặt A Tử, nên ngày nào cũng tìm chỗ vắng người để chuyên cần luyện tập. Một hôm, gã đang căn cứ theo đường nét trong đồ hình để luyện công, thì nghe một luồng gió mạnh lướt qua, quyển sách bay ra mấy trượng. Lúc đó Du Thản Chi đang tập theo tư thế trồng chuối ngược, chân chống lên trên đầu cắm xuống dưới, nội tức đang luân chuyển cuồn cuộn theo mấy đường kinh mạch, vừa ngẩng đầu lên thì thấy cuốn quái thư đã nằm trong tay một nhà sư trung niên. Du Thản Chi vội la lên: “Sách của ta, mau trả cho ta…” Vì y vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, nội tức trong kinh mạch bỗng chạy loạn lên làm gã không nhúc nhích gì được. Nhà sư kia khẽ cười, chạy đi. Du Thản Chi lại càng lo lắng, trăm ngàn xương cốt trong người đều cứng đờ ra như gỗ.

Người đoạt được quyển Dịch Cân Kinh chính là Cưu Ma Trí. Gã tinh thông Phạn văn lại thông minh quán thế, so với Tiêu Phong cùng A Châu chỉ mở mắt nhìn chữ mà không hiểu, với Du Thản Chi giãy giụa lung tung làm ướt sách mới coi được đồ hình, tất nhiên gã tập luyện thuận lợi hơn nhiều.

Du Thản Chi cứng đờ ra đến sáu giờ, huyệt đạo mới giải được, thổ ra một đống máu tươi chẳng khác gì lâm trọng bệnh. May mà y đã luyện thuộc lòng đến sáu bảy phần đồ hình trong sách, nên cứ thế mà tập luyện tiếp, nội công mỗi ngày lại tăng lên.

Sau đó Toàn Quan Thanh giúp Du Thản Chi tháo cái đầu sắt ra, dùng mặt nạ da người để che diện mạo đã bị bắt nung đỏ làm biến dạng, rồi dắt đi tham dự đại hội Cái Bang ở Quân Sơn trong Động Đình Hồ. Du Thản Chi nội công thâm hậu, chiêu thức quái dị, trong Cái Bang không ai chống nổi, liền chiếm được ngôi bang chủ. Toàn Quan Thanh cũng chính thức gia nhập lại Cái Bang, được phong lên trưởng lão chín túi. Tuy Du Thản Chi làm bang chủ, nhưng sự vụ trong bang hoàn toàn do Toàn Quan Thanh điều khiển. Gã họ Toàn thấy trong bang từ trưởng lão đến đệ tử có rất nhiều người bất phục Du Thản Chi, thật là lo lắng, nhưng không thể giết hết được, bèn đưa ra đề nghị tranh đoạt ngôi võ lâm minh chủ ở Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm. Y muốn bang chủ Trang Tụ Hiền trở thành võ lâm đệ nhất nhân, khi đó trong Cái Bang còn ai dám không phục nữa?

A Tử vốn là người hiếu thắng, tuy mắt đui mù mà tính nết vẫn không thay đổi. Toàn Quan Thanh đưa ra đề nghị này rất hợp ý nàng. Du Thản Chi không màng tới chức võ lâm minh chủ gì gì hết, nhưng A Tử cực lực tán thành nên gã cũng đồng ý làm theo. Thế rồi Toàn Quan Thanh thận trọng sắp xếp kế hoạch cực kỳ tinh vi. Việc tính đúng thời gian gửi thiệp mời, khiến cho anh hùng hảo hán khắp nơi đến tụ tập tại chùa Thiếu Lâm cùng lúc vào ngày rằm tháng sáu, chính là kiệt tác của hắn.

A Tử cho rằng mình được Trang công tử võ công đệ nhất thiên hạ che chở, thì còn sợ gì lão Đinh Xuân Thu nhãi nhép nữa? Nàng bèn tự xưng là “Đoàn chưởng môn phái Tinh Tú”, sai người may cờ hiệu, đến núi Thiếu Thất diễu võ dương oai.

Lúc bang chúng Cái Bang kéo đến núi Thiếu Thất, đã thấy rất nhiều môn nhân phái Tinh Tú tụ tập trên núi, việc này cũng không ra ngoài dự liệu của Toàn Quan Thanh. Y bèn dặn Du Thản Chi, hễ Đinh Xuân Thu vừa mở miệng thì phải lập tức tiến ra động thủ, để tránh cho A Tử khỏi phải khó xử.

Đinh Xuân Thu biết đối phương lợi hại, nên lão vừa xuất thủ đã thi triển ngay môn Hủ Thi Độc cực kỳ âm hiểm. Muốn thi triển công phu này thì mỗi chiêu phải hy sinh một tên đệ tử, bất luận đối phương né tránh hay đỡ gạt đều khó lòng thoát khỏi kịch độc. Nếu là tay võ công cao tuyệt cũng phải nhảy lùi ra xa mười trượng mới khỏi bị chất độc nhiễm vào mình, lúc đối phương ra chiêu phải lập tức thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy trốn ngay mới kịp. Nhưng như thế thì đánh nhau làm sao được nữa? Không ngờ Du Thản Chi đã được A Tử chỉ bảo công phu này, y bèn hy sinh tính mạng đệ tử Cái Bang để chống lại Đinh Xuân Thu. Hai người cứ mỗi khi liệng ra một tên đệ tử, lại lùi ba bước rồi liệng tên khác ra. Chín tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, chỉ trong khoảnh khắc hai bên đã liệng ra tổng cộng mười tám xác chết nằm lăn dưới đất, sắc mặt xanh lè trông vừa kinh tởm vừa thê thảm vô cùng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú cực kỳ sợ hãi, chen chúc tranh nhau lùi lại, chỉ sợ sư phụ tóm được. Miệng chúng vẫn không ngớt ca tụng công đức, nhưng giọng nói run run, lời lẽ nhạt phèo, nghe chẳng hứng thú gì nữa.

Quần hùng Cái Bang thấy bang chủ đột nhiên thi triển võ công âm độc, tuy là bất đắc dĩ, nhưng họ cũng cực kỳ khó chịu, nghĩ thầm: “Hành vi của bản bang xưa nay lấy nhân nghĩa làm gốc, thế mà sao bang chủ lại thi thố môn võ công đê hèn tàn ác này trước quần hùng thiên hạ? Như vậy chẳng hóa ra làm ô danh tiên tổ, biến thành đồng loại với phái Tinh Tú ư?” Có người lại nghĩ rằng:“Giả tỉ là cựu bang chủ Kiều Phong thì nhất quyết phải dùng chính đạo chống chọi với tà thuật của Tinh Tú Lão Quái.”

Đinh Xuân Thu đang định túm lấy tên thứ mười, thì tay lại chụp vào chỗ không, quay đầu lại nhìn thì thấy bọn đệ tử mình đã tránh xa hết. Bỗng nghe đánh vù một tiếng, Du Thản Chi đã liệng người thứ mười tới. Thế là Đinh Xuân Thu tự đào lỗ để chôn mình, trong lòng vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức tung mình nhảy lùi vào giữa đám đông. Xác tên đệ tử Cái Bang đã bay đến nơi, bọn đệ tử phái Tinh Tú hô hoán ầm ĩ, muốn bỏ trốn cũng không kịp nữa, bảy tám gã đã bị xác chết liệng trúng. Xác chết này độc địa vô cùng, vừa chạm vào là bảy tám tên này mặt đen xạm lại, nằm lăn ra đất, giãy đành đạch mấy cái rồi chết ngay lập tức.

A Tử đắc ý cười ha hả nói: “Đinh Xuân Thu! Trang bang chủ là hộ pháp của chưởng môn phái Tinh Tú. Ngươi đánh thắng y trước rồi mới được động thủ với chưởng môn là ta đây. Bây giờ thì ngươi thua hay là ngươi thắng?”

Đinh Xuân Thu vừa căm giận vừa buồn bã. Lão thua trận phen này không phải do công phu kém cỏi. Trang Tụ Hiền tuy nội lực thâm hậu, nhưng mấy lần gã liệng xác chết đều dùng một thủ pháp giống nhau, không có chi là biến ảo tài tình. Như vậy đủ thấy gã chỉ học được một chút công phu nông cạn của bản môn do A Tử truyền cho, còn những chỗ xảo diệu biến hóa bên trong thì không biết gì. Lão thua oan chỉ vì bọn môn hạ phái Tinh Tú khiếp đảm sợ chết, không được gan dạ như bọn đệ tử Cái Bang, lúc lâm nguy thì phe ta tranh nhau lui lại để trốn tránh, còn phe địch thì vì đại nghĩa không sợ chết. Lão chợt nghĩ ra một kế, liền ngửa mặt lên trời cười ha hả.

A Tử chau mày nói: “Cười ư? Ngươi còn cười được ư? Có gì đáng cười đâu?” Đinh Xuân Thu vẫn cười không ngớt, đột nhiên nghe tiếng gió lộng vù vù, lão túm luôn tám chín tên đệ tử phái Tinh Tú liệng về phía Du Thản Chi như tên bắn liên châu.

Du Thản Chi không biết sử chiêu Liên Châu Hủ Thi Độc, chỉ nắm được ba tên đệ tử Cái Bang liệng ra, đến cái xác thứ tư do Đinh Xuân Thu liệng tới thì không kịp đón đồ. Gã buộc phải nhảy vọt lên không để tránh, chưa đến nỗi phải chạy lùi về phía sau, tức là chưa thua chiêu này. Nhưng Đinh Xuân Thu chỉ đợi gã né tránh là giơ tay trái ra vẫy một cái. Bỗng nhiên A Tử rú lên một tiếng rồi bay nhào về phía Đinh Xuân Thu.

Mọi người đứng xem đều cả kinh thất sắc. Công phu Cầm Long Công, Khống Hạc Công có cao thâm đến đâu thì cũng chỉ bắt địch nhân, hoặc đoạt binh khí trong cự ly bốn năm thước. Những tay cao thủ tuyệt đỉnh có thể dùng Cách Sơn Thần Quyền đả thương đối phương, nhưng gọi là “cách sơn” cho oai chứ cũng không thể vận nội lực để đánh người xa ngoài hai trượng được. Lúc này Đinh Xuân Thu đứng cách A Tử đến bảy tám trượng, thế mà chỉ vẫy tay một cái đã giật tung được A Tử vọt khỏi lưng ngựa rồi hút về bắt lấy, bản lĩnh này thật không thể tưởng tượng nổi. Chung quanh có không ít cao thủ đứng xem, nhưng ai thấy cái vẫy tay của Đinh Xuân Thu cũng tự cho mình còn kém lão xa lắm, nếu không kinh hãi thì cũng phải khâm phục.

Mọi người không hiểu Đinh Xuân Thu bắt được A Tử không phải chỉ nhờ vào nội lực của mình, mà còn dựa vào một trong Tinh Tú Tam Bảo gọi là Nhu Ti Sách, tức là một sợi dây bện bằng tơ của một loại tuyết tằm sống gần Tinh Tú Hải. Giống tuyết tằm nhỏ hơn tầm thường, không có chất độc nhưng nó nhả ra một thứ tơ bền chắc khác thường, chỉ một sợi cũng khó mà bứt đứt. Tiếc rằng tuyết tằm không biết kéo kén mà nhả tơ cũng rất ít, may thì gặp chứ không thể tìm mà được. Ngày trước, A Tử đã dùng một cái lưới cá trong suốt để bắt Chử Vạn Lý, làm nhục đến nỗi y xấu hổ phải tự vẫn mà chết, cái lưới đó cũng có pha tơ tuyết tằm. Sợi dây Nhu Ti Sách này của Đinh Xuân Thu bằng tơ tuyết tằm nguyên chất, rất mảnh mà lại trong suốt, ngay giữa ban ngày cũng khó nhìn thấy được. Đinh Xuân Thu liệng chín cái thây độc ra là cốt để bắt buộc Du Thản Chi phải né tránh không che chở cho A Tử được, cũng là để người ngoài phải rối mắt, ai cũng chăm chú nhìn Liên Châu Hủ Thi Độc của lão, nên chẳng ai phát giác lão quăng Nhu Ti Sách bắt A Tử.

A Tử vừa phát giác Nhu Ti Sách quấn vào người là đã bị Đinh Xuân Thu giật đi ngay. Tuy lão bắt được A Tử là nhờ bảo bối, nhưng liệng một sợi dây nhỏ xíu xa tới bảy tám trượng, mà lại không để quần hùng phát giác, thì hạng cao thủ bình thường cũng không đủ công lực làm nổi. Đinh Xuân Thu nắm lấy lưng A Tử, tiện tay điểm huyệt nàng luôn, đồng thời rút sợi Nhu Ti Sách vào trong tay áo. Liệng xác, quăng dây, vẫy tay, bắt người, bấy nhiêu động tác chỉ trong một tràng cười ha hả, lão bắt xong A Tử mà vẫn chưa dứt tiếng cười.

Du Thản Chi đang lơ lửng trên không, thấy A Tử bị bắt thì kinh hãi vô cùng, vội băng mình vọt tới trước để sáu xác chết lướt qua dưới chân cho lẹ. Gã vừa đáp xuống đất, đã nhắm Đinh Xuân Thu phóng ra một chưởng cực kỳ mãnh liệt.

Đinh Xuân Thu đưa tay trái ra, dùng A Tử để đón lấy phát chưởng tan bia vỡ đá của đối phương. Lúc này Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng chưa có một chút kinh nghiệm lâm địch nào, thấy mình sắp đánh gãy xương bong gân A Tử thì hốt hoảng quá, lập tức thu chưởng lực về. Nhưng gã đã vận toàn lực để ra chiêu, cấp bách thu về thế nào được? Gặp trường hợp này dù là người võ công bình thường cũng biết xoay chưởng lực nghiêng ra phía khác để né tránh A Tử. Nhưng Du Thản Chi vì quá lo cho A Tử nên vừa thấy nguy là hấp tấp thu chưởng lực về ngay. Hành động này tựa như phóng chưởng tự đánh vào ngực mình, gã loạng choạng, oẹ lên một tiếng rồi phun ra một búng máu tươi.

Giả tỉ là tay công lực tầm thường thì động tác này là tự sát, may mà gã đã luyện Dịch Cân Kinh đến chỗ thành tựu, nên tuy đau đớn nhưng không đến nỗi bỏ mạng, chỉ cần từ từ điều vận chân khí là dễ chịu ngay. Nhưng Đinh Xuân Thu đâu có ngừng tay cho gã kịp thở, lại đánh luôn ra bốn chưởng. Du Thản Chi chưa kịp đề tụ chân khí vào đan điền, đã phải phóng chưởng ra để đỡ chưởng lực của đối phương, mỗi chưởng lại hộc máu một lần. Gã đón xong bốn phát chưởng, đã phun ra bốn ngụm máu đen. Đinh Xuân Thu vẫn không nhân nhượng, đánh luôn phát chưởng thứ năm, muốn lập tức kết liễu tính mạng đối phương.

Bỗng có mấy người quát lớn: “Đinh Lão Quái không được hành hung!”, “Ngừng tay!”, “Hãy tiếp ta một chiêu!”. Thì ra các vị cao tăng Huyền Từ, Quán Tâm, Đạo Thanh, cùng mấy vị anh hùng khác không nỡ thấy Trang Tụ Hiền, dù sao cũng là bang chủ Cái Bang, chết về tay Đinh Xuân Thu, nên vừa quát vừa toan xuất thủ đỡ giúp.

Không ngờ khi Du Thản Chi đón đỡ phát chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu thì người lão lắc lư rồi phải lùi lại một bước. Mấy vị cao thủ nhìn thấy chiêu này cũng làm Đinh Xuân Thu phải tổn thương, nên dừng tay lại không cứu viện nữa. Thì ra Du Thản Chi thổ ra xong bốn búng máu bầm thì thấy dễ thở hơn, đến chưởng thứ năm thì đã vận ra được chất kịch độc Băng Tằm hòa lẫn với nội lực Dịch Cân Kinh. Chưởng lực của Đinh Xuân Thu vốn yếu hơn Du Thản Chi. Nếu lão không chiếm được tiên cơ, đánh Du Thản Chi bị thương trước làm cho nội lực gã giảm đi mất nhiều, thì phát chưởng vừa rồi phải đẩy lão lui lại đến năm bước.

Hơi thở Đinh Xuân Thu đã nhộn nhạo, nhưng lão chẳng chịu cam tâm, vận đến mười thành công lực, quát lên một tiếng thật to, râu tóc dựng đứng cả lên, vung chưởng đánh ra. Du Thản Chi tiến lên một bước, vừa đấu chưởng vừa la lên: “Mau thả Đoàn cô nương ra!” Gã đánh liền ra bốn chưởng, mỗi chưởng lại tiến lên một bước. Gã tiến năm bước thì tới trước mặt Đinh Xuân Thu, chỉ với tay ra một cái là có thể đoạt được A Tử.

Đinh Xuân Thu sắp kiệt lực, lại nhìn thấy cái mặt trơ trơ như xác chết thì không khỏi ghê rợn. Nhưng lão vẫn cố mỉm cười rồi nói: “Ta lại muốn sử dụng công phu Hủ Thi Độc, ngươi phải đề phòng.” Lão nói xong, tay trái đang cầm A Tử khẽ đưa lên.

Du Thản Chi vội kêu lên: “Không! Không! Nhất… nhất định không được!” Giọng gã run rẩy, rõ ràng kinh hãi đến cực điểm, hiểu rằng nếu Đinh Xuân Thu lại thi triển Hủ Thi Độc thì A Tử lập tức biến thành thây độc.

Đinh Xuân Thu thấy đối phương hoảng hốt thì hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra mi đã điên đảo thần hồn vì con nhãi thối tha này rồi. Ái chà! Tuyệt diệu, thật là tuyệt diệu!” Khi lão bắt được A Tử, chỉ muốn xử tử nàng lập tức để trừ mầm họa tranh ngôi chưởng môn phái Tinh Tú, nhưng bây giờ hắn thấy tình trạng Du Thản Chi thì lại muốn dùng A Tử làm con tin để uy hiếp tên bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền võ công cao thâm này. Lão bèn hỏi: “Ngươi có muốn con bé này chết không?”

Du Thản Chi vội la lên: “Ngươi… ngươi… thả nàng ra! Nguy… nguy hiểm lắm!” Đinh Xuân Thu cười ha hả nói: “Ta giết nó thì không tốn chút hơi sức nào, sao lại phải tha nó? Nó là phản đồ của bản phái, không biết đến tôn trưởng là gì, không giết nó thì còn ai đáng giết nữa?” Du Thản Chi nói: “Đây là… A Tử cô nương. Bất luận thế nào ngươi cũng đừng giết nàng. Ngươi đã bắn mù hai mắt nàng. Ta xin ngươi buông tha cho nàng ra, ta… ta sẽ hậu tạ.” Gã nói năng lung tung, rõ ràng rất quan tâm đến A Tử, chẳng còn gì là phong độ một vị bang chủ Cái Bang.

Đinh Xuân Thu đã nhận ra nội công âm hàn cực độ của đối phương, thanh âm cũng rất giống gã đầu sắt lúc trước. Có điều lão không hiểu gã làm sao mà tháo được cái đầu sắt ra, lại làm thế nào mà trở thành bang chủ Cái Bang, nhưng lão không có thì giờ để suy nghĩ nhiều, bèn nói: “Muốn ta tha cái mạng nhỏ xíu của nó cũng chẳng khó gì. Chỉ cần ngươi thuận theo ta mấy điều kiện mà thôi.”

Du Thản Chi đáp ngay: “Được, được! Dù là trăm ngàn điều kiện ta cũng ưng thuận.” Đinh Xuân Thu gật đầu nói: “Thế thì hay lắm! Điều thứ nhất là ngươi lập tức phải lạy ta làm sư phụ, từ đây trở thành đệ tử phái Tinh Tú.” Du Thản Chi không ngần ngừ chút nào, lập tức quỳ xuống nói ngay: “Sư phụ! Đệ tử… đệ tử là Trang Tụ Hiền xin bái kiến sư phụ!” Gã nghĩ thầm: “Ta vốn là đệ tử ngươi từ trước, bây giờ có lạy ngươi lần nữa cũng chẳng sao”.

Gã vừa quỳ xuống là quần hùng la ó om sòm. Toàn thể bang chúng Cái Bang từ hàng trưởng lão trở xuống, chẳng một ai không căm phẫn. Họ đều nghĩ: “Bản bang là bang hội lớn nhất thiên hạ, danh tiếng hiệp nghĩa lẫy lừng, mà bang chủ lại đi lạy Tinh Tú Lão Quái làm sư phụ thì còn ra thể thống gì nữa? Bọn ta không thể để hắn làm bang chủ nữa.”

Tiếng chuông trống đàn sáo lại nổi lên điếc cả tai. Bọn môn đồ phái Tinh Tú lớn tiếng hoan hô Tinh Tú Lão Tiên vang dội cả một góc trời. Những câu xưng tụng không thể kể hết được, tưởng chừng như nhật nguyệt không sáng bằng Tinh Tú Lão Tiên, thiên địa không rộng bằng Lão Tiên! Từ đời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không có người thứ hai nào uy đức to tát bằng Lão Tiên. Các vị Chu Công, Khổng Tử, Lão Tử, cả đến Ngọc Hoàng Đại Đế hay Thập Điện Diêm Vương cũng cam chịu lép vế trước Lão Tiên.

Lúc A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt được, Đoàn Chính Thuần cùng Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau thất sắc, nhưng tự biết bản lĩnh mình không địch nổi Tinh Tú lão quái, khó mà cứu được con gái thoát khỏi tay hắn. Khi hai người thấy Trang Tụ Hiền vì con gái mình mà quỳ lạy kẻ thù thì càng thêm sửng sốt. Nguyễn Tinh Trúc vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, khẽ bảo Đoàn Chính Thuần: “Chàng nhìn xem, tình nghĩa của y thâm trọng đến thế nào. Chàng… chàng… liệu có bằng một phần vạn của người ta không?”

Đoàn Dự liếc nhìn Vương Ngữ Yên một cái, nghĩ thầm: “Mình yêu thương Vương cô nương thắm thiết, đã tưởng là không thể hơn được nữa, nhưng so với Trang Tụ Hiền lúc này thì còn kém xa. Y mới đúng là tình thánh trên thế gian. Giả tỉ Vương cô nương bị Tinh Tú Lão Quái bắt được, liệu mình có chịu quì xuống năn nỉ không?” Nghĩ tới đây, đột nhiên chàng cảm thấy nhiệt khí bừng bừng, nổi lòng hăng hái, vì nàng mà muôn thác cũng cam tâm, chịu nhục trước mặt mọi người có đáng gì đâu? Bất giác chàng buột miệng la lên: “Chịu! Đương nhiên là chịu!” Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hỏi: “Công tử chịu cái gì?” Đoàn Dự đỏ mặt lên ấp úng: “Ôi chao! Cái đó…”

Du Thản Chi dập đầu lạy mấy cái rồi đứng lên, thấy Đinh Xuân Thu vẫn đang nắm lấy A Tử, da mặt nàng co rúm lại tựa như đang đau khổ vô cùng. Gã vội kêu: “Sư phụ! Sư phụ mau tha nàng ra.” Đinh Xuân Thu cười nhạt đáp: “Con tiểu nha đầu này lớn mật làm càn, sao lại dễ dàng tha nó được? Ngươi phải lấy công chuộc tội, làm mấy việc cho ta.” Du Thản Chi nói: “Dạ! Dạ! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?” Đinh Xuân Thu đáp: “Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm, rồi giết lão đi!”

Du Thản Chi ngập ngừng đáp: “Đệ tử với phương trượng Thiếu Lâm vốn không thù oán. Cái Bang tuy định tranh hùng với phái Thiếu Lâm, nhưng cũng không muốn giết người đổ máu.” Đinh Xuân Thu sa sầm nét mặt, tức giận nói: “Mi dám cãi lại ta, thì ra mi gọi ta là sư phụ chẳng qua giả dối!” Du Thản Chi chỉ cầu mong A Tử bình yên thoát hiểm, không đếm xỉa gì đến đạo nghĩa giang hồ hay dư luận thị phi nữa, vội đáp ngay: “Vâng! Nhưng võ công phái Thiếu Lâm rất cao thâm, đệ tử chỉ biết làm hết sức… Sư phụ… nếu đệ tử không đủ sức thì sư phụ cũng đừng gia hại A Tử cô nương.” Đinh Xuân Thu hững hờ đáp: “Giết Huyền Từ hay không là chuyện của ngươi, còn giết A Tử hay không là chuyện của ta.”

Du Thản Chi quay lại, lớn tiếng hô: “Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm! Phái Thiếu Lâm là môn phái đứng đầu các phái võ, Cái Bang là bang hội lớn nhất trên giang hồ, trước đây hai bên đứng ngang hàng ở Trung Nguyên, không bên nào lệ thuộc bên nào. Hôm nay chúng ta phải tỉ đấu để phân cao thấp, ai thắng thì làm minh chủ võ lâm, ai thua thì phải phục tùng hiệu lệnh của minh chủ, không được phản kháng.” Gã vừa nói vừa đảo mắt nhìn quần hùng một lượt, rồi lại tiếp: “Anh hùng hảo hán khắp thiên hạ hôm nay đều tụ tập ở chân núi Thiếu Thất rồi. Vị nào không phục cứ việc tiến ra, khiêu chiến với võ lâm minh chủ.” Gã nói như vậy là đã tự đặt mình lên địa vị minh chủ võ lâm.

Vừa rồi Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi nói chuyện không lớn tiếng, nhưng những người có mặt ở đây đều có nội công thâm hậu nên nghe rõ từng câu từng chữ. Quần tăng chùa Thiếu Lâm nghe Đinh Xuân Thu công khai bảo Trang Tụ Hiền, bang chủ Cái Bang ra giết Huyền Từ phương trượng, dĩ nhiên ai nấy căm hận vô cùng. Nhưng vừa rồi họ theo dõi hai bên tỉ đấu, đã thấy rõ Trang Tụ Hiền công lực cao thâm, thủ đoạn độc ác. Huyền Từ có thể địch nổi gã không, cũng khó mà biết trước được. Nếu gã thi triển độc công tà thuật thì e rằng Huyền Từ không chống nổi.

Huyền Từ không muốn động thủ, nhưng bị gã công nhiên khiêu chiến trước mặt quần hùng nên đại sư không thể thoái thác, liền chắp tay niệm Phật rồi nói: “Cái Bang đã nổi tiếng nghĩa hiệp trong võ lâm Trung Nguyên mấy trăm năm nay, anh hùng trong thiên hạ chẳng ai không biết, chẳng ai không kính ngưỡng. Tiền nhiệm bang chủ là Uông Kiếm Thông đã từng giao hảo thân thiết với tệ phái. Trang thí chủ lên ngôi bang chủ, tệ phái chưa kịp đến chúc mừng, thật là có điều sơ suất. Tuy nhiên đệ tử tệ phái cả tăng lẫn tục vẫn một niềm tôn kính quí bang, Cái Bang và Thiếu Lâm giao hảo mấy trăm năm nay chưa từng tổn thương hòa khí. Vậy mà sao hôm nay Trang bang chủ đột nhiên đem quân hỏi tội? Mong rằng bang chủ tuyên bố lý do cho anh hùng thiên hạ hiện diện ở đây đều được rõ. Đúng sai thì võ lâm sẽ có công luận, nếu tệ phái có điều chi lầm lỗi thì bần tăng sẵn sàng cúi đầu nhận tội.”

Du Thản Chi còn ít tuổi, lại bất học vô thuật, làm sao tranh luận nổi với Huyền Từ? Nhưng trước khi gã đến chùa Thiếu Lâm đã được Toàn Quan Thanh dạy cho một bài diễn thuyết, bây giờ bắt đầu đọc: “Đại Tống ta hiện nay phía Nam có nước Liêu, phía Tây có Tây Hạ, Thổ Phồn, phía Bắc có Đại Lý, tứ di nhòm ngó, Trung Nguyên. Cái đó… cái đó…” Gã học chưa thuộc, lúc này nhớ lộn xộn, đáng lý phải nói phía Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý, Tây có Thổ Phồn, Tây Hạ thì gã lại nói sai phương vị, khiến mọi người phải hắng giọng, cố nín cho khỏi bật ra tiếng cười.

Gã biết mình nói sai, nhưng không sao rút lời lại được nữa, nên bẽn lẽn vô cùng, may mà có đeo mặt nạ nên người ngoài không nhìn thấy sắc diện. Gã “Ồ” một tiếng rồi tiếp: “Đại Tống ta binh vi tướng quả, thế nước chông chênh. Quốc gia chỉ hoàn toàn trông vào nghĩa sĩ võ lâm, đồng đạo giang hồ, ai nấy hết lòng phò tá mới có thể ngoài chống cường địch, trong diệt gian thần…”

Quần hùng nghe gã nói mấy câu hữu lý, đều lẩm bẩm: “Không sai! Không sai!” Du Thản Chi nghe mà phấn khởi, dõng dạc nói tiếp: “Gần đây mối lo bên ngoài ngày càng thâm trọng, trách nhiệm trên vai hào kiệt giang hồ chúng ta ngày càng nặng nề. Đáng lý võ lâm phải đồng tâm hiệp lực để đối phó với họa ngoại xâm, thế mà các môn phái, bang hội lại lo tranh đấu với nhau để tranh giành hư vị. Giả tỉ tất cả chúng ta không chung lưng đấu cật bảo vệ sơn hà xã tắc, thì e rằng chỉ một tên Liêu cẩu Kiều Phong đơn thương độc mã xâm lấn cõi bờ, hào kiệt Trung Nguyên chúng ta đều thất bại hết. Tại hạ còn nghe nói ở Tinh Tú Hải bên Tây Vực còn có Tinh Tú Lão… Tinh Tú Lão… đã đến chùa Thiếu Lâm… Cái đó…”

Thì ra Toàn Quan Thanh dạy Du Thản Chi nói: “Ở Tinh Tú Hải bên Tây Vực còn có Tinh Tú Lão Quái đã đến chùa Thiếu Lâm hạ sát hai vị cao tăng, mà phái Thiếu Lâm đành chịu bó tay.” Gã thuận miệng đọc thuộc lòng gần hết câu mới biết là hỏng, cứ ấp úng nhắc đi nhắc lại mấy chữ Tinh Tú Lão… không dám nói chữ Quái. Trong quần hùng có người la lên: “Hắn là Tinh Tú Lão Quái, còn mi là Tinh Tú Tiểu Yêu.” Mọi người nổi lên một tràng cười ha hả.

Bọn môn đồ phái Tinh Tú đồng thanh cất tiếng hát: “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh”. Hơn ngàn người gân cổ lên mà hát, nhưng quần hùng đề khí cười rộ át hẳn tiếng hát đi.

Tiếng hát vừa dứt, trong đám đông bỗng có tiếng ồm ồm cất lên: “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ…” Cả nhạc lẫn lời đều giống hệt bài hát của bọn môn đồ Tinh Tú. Chúng liền hoan hô vang dội, tưởng là trong phái khác cũng có người ca tụng Lão Tiên, một người ngoài phái ca tụng còn hơn là cả ngàn người bản phái tự khen, tiếng đàn tiếng sáo liền trỗi lên phụ họa. Không ngờ câu thứ tư lại biến đổi đột ngột thành “… Thối hơn rắm chó”, khiến mọi người nhìn nhau kinh ngạc. Dàn nhạc cũng không ngưng kịp, hòa với câu “Thối hơn rắm chó” nghe lại càng du dương réo rắt.

Quần hùng cười bò lê bò càng, còn môn đồ phái Tinh Tú thì ngoác miệng ra mà thóa mạ, nghe rất chối tai. Vương Ngữ Yên cũng mỉm cười nói: “Bao tam ca! Tam ca hát hay quá!” Bao Bất Đồng đáp: “Xấu hổ! Xấu hổ!” Thì ra bốn câu hát vừa rồi là kiệt tác của Bao Bất Đồng.

Du Thản Chi nhân lúc mọi người nhốn nháo, thì thầm với Toàn Quân Thanh một lúc, rồi lại dõng dạc nói tiếp: “Đại Tống ta gặp lúc nguy nan mà đồng đạo giang hồ lại không nhất tâm nhất trí, đến nỗi bị bọn Phiên bang khinh khi lấn áp. Vì thế mà Cái Bang chủ trương lập nên một vị minh chủ võ lâm để ai nấy tuân theo hiệu lệnh, phòng khi có đại sự bọn ta có thể thống nhất hành động, tránh tình trạng mạnh ai nấy đánh. Huyền Từ phương trượng có tán thành ý kiến đó chăng?

Huyền Từ chậm rãi đáp: “Ý kiến của Trang bang chủ rất hữu lý. Nhưng lão tăng còn có chỗ chưa hiểu, xin Bang chủ chỉ giáo.” Du Thản Chi hỏi: “Chỗ nào?” Huyền Từ hỏi lại: “Trang bang chủ đã bái Tinh Tủ Lão Tiên làm sư phụ, vậy bang chủ là môn đồ của phái Tinh Tú, có đúng thế không?” Du Thản Chi đáp: “Cái đó… là việc riêng của tại hạ, không liên quan gì đến phương trượng.” Huyền Từ nói: “Tinh Tú là một phái ở Tây Vực, chẳng dính líu gì đến đồng đạo võ lâm Đại Tống. Vậy võ lâm Đại Tống chúng ta có lập minh chủ hay không, cũng chẳng liên can gì đến phái Tinh Tú. Giả tỉ bằng hữu võ lâm Trung Nguyên muốn đề cử một vị minh chủ để tiện điều khiển đại cuộc của võ lâm Trung Nguyên, thì phái Tinh Tú là người ngoài, không nên tham dự.”

Các vị anh hùng đều lớn tiếng hoan hô: “Không sai!” “Phương trượng Thiếu Lâm nói đúng lắm!” “Các ngươi là bọn chó má Phiên bang, đừng có mơ làm minh chủ võ lâm Trung Nguyên.”

Du Thản Chi cứng họng không biết đáp thế nào, hết nhìn Đinh Xuân Thu lại nhìn Toàn Quan Thanh, chỉ mong nhị vị sư phụ giúp lời. Đinh Xuân Thu đằng hắng một tiếng rồi nói: “Thiếu Lâm phương trượng nói chuyện tức cười. Lão phu là người Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, đồng hương với Đức Thánh Khổng. Tây Vực chỉ là nơi lão phu tạm thời ẩn cư mà thôi. Phái Tinh Tú là do lão phu sáng lập ra, sao lại bảo là một môn phái Phiên bang ở Tây Vực? Phương trượng bảo Tinh Tú là một môn phái Phiên bang, thì chẳng khác gì bảo Đức Khổng Tử cũng là người Phiên bang, thật là tức cười! Hơn nữa, đại sư đã nói đến Phiên bang Tây Vực, sao không nhớ đến Đạt Ma tổ sư và nguồn gốc võ công của phái Thiếu Lâm? Ngay cả Phật giáo cũng là giáo phái từ Phiên bang Tây Vực đưa đến. Theo ý kiến lão phu thì Thiếu Lâm mới chính là một môn phái Phiên bang Tây Vực.” Lão nói mấy câu này, Huyền Từ cùng quần hùng đều khó mà cãi lại.

Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc lên tiếng: “Nguồn gốc võ công trong thiên hạ khó mà xét được. Võ công Tây Vực truyền vào Trung Nguyên cũng có, mà võ công Trung Nguyên truyền sang Tây Vực cũng có. Bang chủ tệ bang là người Trung thổ, Cái Bang là một môn phái ở Trung Nguyên. Vậy bang chủ tệ bang ứng cử làm thủ lĩnh các phái võ Trung Nguyên cũng chẳng có gì vô lý. Huyền Từ phương trượng! Hôm nay phải căn cứ vào võ công mạnh hay yếu để phân thắng bại, chứ không căn cứ vào lời nói vụng hay khéo mà định hơn thua. Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm hễ ai mạnh là được, chỉ cần hai vị thủ lĩnh ra tay tỉ thí là có thể phân cao thấp ngay tức khắc. Nếu không tỉ thí thì dù tranh luận đến nửa ngày cũng không đi đến kết quả. Còn nếu phương trượng là người sáng suốt, biết mình biết người, nhắm không địch nổi thì nên bái phục, suy tôn Trang bang chủ lên làm minh chủ võ lâm, hai vị bất tất phải động thủ làm gì.” Câu nói của hắn hàm ý Huyền Từ tự biết không địch nổi nên khiếp đảm mà tìm lời thoái thác.

Huyền Từ thong thả tiến lên mấy bước, lên tiếng: “Trang bang chủ! Thế là bang chủ cố tình ép lão tăng phải động thủ, nếu lão tăng còn nể tình hai bên giao hảo mấy trăm năm nay mà kiên quyết không chịu vâng lời, thì tỏ ra bất kính với quí bang.” Huyền Từ đại sư đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc nói: “Các vị anh hùng! Hôm nay các vị đều thấy rõ, tệ phái quyết không có ý tranh đấu với Cái Bang, nhưng Trang bang chủ cố tình bức bách nên lão tăng hết đường thoái thác.”

Quần hùng đồng thanh nói: “Không sai! Bọn tại hạ đều thấy rõ phái Thiếu Lâm không có chỗ nào sai trái.”

Du Thản Chi chỉ lo âu đến A Tử đang nguy hiểm. Gã muốn giết Huyền Từ càng sớm càng tốt để Định Xuân Thu buông tha nàng, bèn lớn tiếng nói: “Tỉ võ thì mạnh được yếu thua, không cần biết là hợp lý hay không hợp lý. Mau mau động thủ đi!”

Du Thản Chi thuở nhỏ ham chơi biếng học, tuy không phải là người có tính nết thuần lương, nhưng cũng là một thiếu niên chậm chạp chất phác. Sau khi phụ thân chết đi, gã phiêu dạt giang hồ, chịu đựng không biết bao nhiêu khinh khi nhục nhã. Trước kia gã được gần người quang minh chính trực chỉ điểm cho điều phải trái, bây giờ lại cặp kè với A Tử. Người đời thường nói “gần mực thì đen”, huống chi gã lại nhất tâm sùng kính A Tử, nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của nàng, nên đường lối tà ma, ngoại đạo của phái Tinh Tú từ A Tử nhiễm vào gã càng lẹ. Mặc dù từ lúc gã bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ vẫn chưa học lão một chút võ công, nhưng công phu của gã vẫn là công phu của phái Tinh Tú, toàn theo đường lối âm độc để thủ thắng. Điều xấu tiêm nhiễm hết ngày này qua ngày khác, con nhà dòng dõi nghĩa hiệp đất Trung Nguyên đã biến thành người hung bạo bất phân thiện ác, bất chấp thị phi.

Huyền Từ dõng dạc nói: “Lời nói của Trang bang chủ thật là không tương xứng với thanh danh nghĩa hiệp của Cái Bang mấy trăm năm nay.”

Thân ảnh Du Thản Chi đột nhiên nhoáng lên, vọt lại một trượng rồi nói: “Đánh thì đánh, không đánh thì chạy, nói nhiều vô ích.” Gã vừa nói vừa liếc nhìn Đinh Xuân Thu ra chiều nóng nảy.

Huyền Từ nói: “Được rồi! Hôm nay lão tăng xin được lãnh giáo hai đại tuyệt kỹ Hàng Long Thập Bát Chưởng cùng Đả Cẩu Bổng Pháp của Trang bang chủ, để anh hùng hảo hán thiên hạ được xem công phu đích truyền từ mấy trăm năm của Cái Bang.”

Du Thản Chi ngẩn ra, bất giác lùi lại hai bước. Tuy đã làm bang chủ Cái Bang nhưng chẳng biết một chiêu nào trong Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp. Gã chỉ nghe người ta nói lúc bang chủ Cái Bang truyền ngôi cho người khác tất phải truyền hai môn tuyệt kỹ trấn bang này, Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng có khi truyền cho người khác, nhưng Đả Cẩu Bổng Pháp thì nhất định là phải người kế vị bang chủ mới được truyền thụ. Mấy trăm năm nay không có một vị bang chủ Cái Bang nào là không hiểu hai môn tuyệt kỹ trấn bang đó.

Huyền Từ liền nói: “Lão tăng là phương trượng chùa Thiếu Lâm, dĩ nhiên phải thi triển Đại Kim Cương Quyền để đón tiếp Hàng Long Thập Bát Chưởng, dùng thiền trượng để đón tiếp Đả Cẩu Bổng của quí bang. Hỡi ơi! Thiếu Lâm cùng Cái Bang đời đời giao hảo, mấy môn võ này trước nay chỉ cùng nhau đối phó với người ngoài, chưa từng đối địch với nhau. Lão tăng đức bạc, thật là hổ thẹn với các vị bang chủ và chưởng môn đời trước của Cái Bang và Thiếu Lâm.” Hai tay đại sư chắp lại, chính là khởi thức của chiêu Kính Lễ Như Lai trong Đại Kim Cương Quyền. Thần sắc đại sư đầy vẻ từ hòa, nhưng tăng bào phồng ra hai bên tả hữu, đủ thấy trong chiêu thức này có ẩn tàng nội lực thiền môn rất cao thâm.

Du Thản Chi không nói gì nữa, tay trái vung lên không đánh ra một chưởng, rồi tay phải cũng tiếp tục phóng chưởng ra theo. Tả chưởng ra trước mà đến sau, hữu chưởng ra sau mà đến trước, hai luồng lực đạo so le xô tới, biến ảo dị thường. Chưởng lực hai người phát ra đến giữa đường thì chạm nhau bật một tiếng “ầm” rồi triệt tiêu mất. Chỉ nghe hai tiếng veo véo, hai đầu dây lưng của Huyền Từ đứt ra, bay ra hai bên tả hữu xa đến mấy trượng. Thì ra song chưởng lực của Du Thản Chi bao phủ một phạm vị rất rộng, tuy bị chiêu Kính Lễ Như Lai làm cho tiêu tan, nhưng hai đầu sợi dây lưng của Huyền Từ tung dài ra hai bên hông bị chưởng lực của gã quạt đứt.

Quần tăng Thiếu Lâm cùng quần hùng thấy vậy đều la ó om sòm: “Đây là võ công tà phái Tinh Tú.” “Không phải Hàng Long Thập Bát Chưởng.” “Không phải công phu của Cái Bang!” Ngay quần đệ tử Cái Bang cũng la lên: “Chúng ta tỉ võ với phái Thiếu Lâm, không thể dùng công phu tà phái được!” “Bang chủ phải thi triển Hàng Long Thập Bát Chưởng mới đúng.” “Sử dụng công phu tà phái là làm mất thể diện Cái Bang.”

Du Thản Chi nghe mọi người phản đối om sòm, bất giác thấy ngần ngại trong lòng, chiêu thứ hai không phóng ra được nữa. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú la ầm lên: “Thần công phái Tinh Tú cao cường gấp mấy Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang, sao lại không thi triển nữa?” “Trang sư huynh tiến lên đi! Dĩ nhiên là sư huynh phải sử dụng thần công của Lão Tiên đã truyền thụ cho để giết lão hòa thượng đó.” “Thần công phái Tinh Tú là đệ nhất thiên hạ, đánh không ai đỡ nổi.”

Đột nhiên lẫn trong những tiếng phản đối và hoan hô ầm ĩ, có một thanh âm hùng tráng dưới chân núi vọng lên: “Ai dám nói võ công phái Tinh Tú cao cường hơn Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang?”

Thanh âm này tuy không lớn lắm, nhưng truyền vào tai của người nào cũng nghe rất rõ ràng. Mọi người đều im bặt, mặt đầy vẻ kinh nghi. Bỗng tiếng vó ngựa dồn dập, mười mấy người cưỡi ngựa đang chạy như bay lên núi. Kỵ sĩ đều mặc áo mỏng màu đen, trong lót vải tím, người mạnh như hổ, ngựa khỏe như rồng, oai phong lẫm liệt. Con ngựa nào cũng đầu cao, chân dài, lông đen tuyền, sải vó tới đâu là ánh hoàng kim lấp loáng đến đấy, thì ra móng ngựa đều có bịt vàng. Cả thảy chỉ có mười chín kỵ sĩ, nhưng khí thế mạnh như thiên binh vạn mã. Gần tới nơi thì mười tám kỵ sĩ đi trước rẽ ra hai bên, kỵ sĩ cuối cùng đi vào giữa, tiến lên trước.

Một số lớn bang chúng Cái Bang vừa thấy người này liền lớn tiếng reo: “Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!” Mấy trăm bang chúng chạy vội tới trước ngựa khom lưng thi lễ.

Thì ra người này chính là Tiêu Phong. Từ khi bị trục xuất ra khỏi Cái Bang, chàng vẫn cho rằng đệ tử trong bang đều thù ghét mình, không ngờ đối với chàng họ vẫn giữ một tình cảm hết sức nồng nhiệt, bái kiến một cách chân thành. Tiêu Phong thấy nhiệt khí bốc lên nóng ran lồng ngực, đôi mắt bỗng long lanh ngấn lệ. Chàng nhảy xuống ngựa, chắp tay thi lễ nói: “Tại hạ là Tiêu Phong người Khất Đan, đã bị trục xuất không còn dính líu đến Cái Bang nữa, sao các vị lại xưng hô như cũ? Các huynh đệ lâu nay vẫn mạnh khỏe chứ?” Câu nói sau cùng của Tiêu Phong hơi lạc giọng, tỏ ra chàng cũng quyến luyến bang chúng Cái Bang.

Bọn đệ tử Cái Bang đến tham kiến Tiêu Phong phần lớn là hạng ba bốn túi. Hạng một hai túi đa số là mới gia nhập, nếu không thì cũng địa vị thấp kém, ít có cơ hội gặp gỡ Tiêu Phong. Còn hàng năm túi trở lên thì phải giữ lề luật, do lớn tuổi lại ở địa vị cao, dĩ nhiên hành xử dè dặt, không như bọn trẻ tuổi bồng bột muốn làm gì là làm ngay không cần suy tính. Mấy trăm bang chúng tiến ra thi lễ với Tiêu Phong dĩ nhiên đã vi phạm bang qui. “Kiều bang chủ” là kẻ đại thù dòng giống Khất Đan, dĩ nhiên bang chúng Cái Bang từ trên xuống dưới đều biết rõ. Thế mà Tiêu Phong vừa xuất hiện, tình cảm kính yêu trong lòng họ lại nảy sinh, nhất thời quên cả đại sự. Nghe chàng nhắc nhở, có người lặng lẽ cúi đầu lùi lại, nhưng không ít người vẫn hỏi: “Kiều… Kiều… Lão nhân gia vẫn mạnh khỏe chứ? Sau khi ly biệt, bọn tại hạ chẳng ngày nào không tưởng nhớ đến lão nhân gia.”

Từ hôm A Tử bỗng dưng bỏ đi không thấy về, mấy ngày sau cũng không có tin tức gì, Tiêu Phong hết sức lo lắng. Chàng phái rất nhiều thám tử đi tìm kiếm, mấy tháng sau mới được tin báo là nàng đang ở cùng với gã đầu sắt trong Cái Bang.

Tiêu Phong nghe vậy lại càng kinh hoảng, nghĩ rằng Cái Bang hận mình đến xương tủy, phen này bắt được A Tử nhất định sẽ giữ nàng làm con tin để uy hiếp mình. Chàng muốn cứu nàng lập tức, liền bẩm lên Liệu đế xin phép nghỉ hai tháng, đem toàn bộ công chuyện ở Nam Viện giao cho Nam Viện khu mật sứ Gia Luật Mạc Ca thay mình lo liệu, rồi đi về hướng nam.

Chuyến này Tiêu Phong xuống Trung Nguyên đã chuẩn bị sẵn sàng, chọn đem theo mười tám con tuấn mã cùng mười tám cao thủ Khất Đan, gọi là Yên Vân Thập Bát Kỵ. Lần trước, Tiêu Phong độc chiến quần hùng tại Tụ Hiền Trang, nếu không được một vị đại anh hùng đột nhiên xuất hiện cứu cho thì đã mất mạng tại chỗ, rõ ràng mãnh hổ nan địch quần hồ, dù ai võ công cao cường đến đâu cũng không thể lấy một chọi trăm. Bây giờ chàng đem Yên Vân Thập Bát Kỵ đến đây, mỗi tên có thể địch nổi mười, mà ngựa của chúng đều là tuấn mã ngày đi ngàn dặm, lỡ gặp nguy thì rút lui cũng chẳng khó gì.

Khi cả đoàn đi đến Hồ Nam, Tiêu Phong bắt được một tên đệ tử hạng bét của Cái Bang để thẩm vấn, được biết đôi mắt A Tử đã mù, nàng đang cùng tân bang chủ đi đến chùa Thiếu Lâm, không rời nửa bước, Tiêu Phong lại càng sợ hãi, nghĩ rằng A Tử đã bị người trong Cái Bang làm mù mắt, không chừng mỗi ngày còn lôi ra đánh đập hành hạ cho bõ ghét mình. Chàng bèn đổi hướng đi đến Thiếu Lâm Tự, chỉ mong dọc đường gặp bọn Cái Bang để ra tay cướp người, không muốn hội diện các vị cao tăng Thiếu Lâm làm gì.

Lúc Tiêu Phong đến chân núi Thiếu Thất, từ ngoài xa đã nghe bọn môn đồ phái Tinh Tú la ó om sòm, huênh hoang những gì võ công Tinh Tú cao cường hơn Hàng Long Thập Bát Chưởng, không khỏi lửa giận bốc lên. Tuy chàng bây giờ không còn là bang chủ Cái Bang, nhưng Hàng Long Thập Bát Chưởng là do ân sư Uông Kiếm Thông đích thân truyền thụ cho chàng, làm sao để chúng miệt thị được? Tiêu Phong giục ngựa phóng lên núi, liếc mắt thấy Đinh Xuân Thu đang nắm giữ một thiếu nữ áo tía thân hình mảnh mai, khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết, chính là A Tử. Đôi mắt nàng lờ đờ, hai con ngươi bị hủy, dĩ nhiên đã mù lòa rồi.

Tiêu Phong vừa đau buồn, thương cảm lại vừa phẫn nộ, liền sải bước tiến đến, tay trái khoa lên một vòng, tay phải vung chưởng nhằm đánh tới Đinh Xuân Thu. Đây chính là chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Lúc chàng cất tiếng quát thì còn đứng cách Đinh Xuân Thu mười lăm mười sáu trượng, nhưng lúc chưởng lực phát ra thì chỉ còn cách chừng bảy tám trượng.

Trong thiên hạ, dù ai có chưởng lực mãnh liệt tới đâu cũng không thể đả thương người cách năm trượng. Đinh Xuân Thu có nghe nói Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung nên tuyệt nhiên không dám coi thường địch thủ, nhưng lão thấy còn xa mười lăm mười sáu trượng mà đối thủ đã phát chưởng thì không ngờ rằng phát chưởng này nhằm đánh mình. Tiêu Phong vừa phát chưởng vừa lướt tới, nháy mắt chỉ còn cách ba bốn trượng, rồi lại tiếp theo một chiêu Kháng Long Hữu Hối nữa. Chưởng sau đẩy chưởng trước, hai luồng chưởng lực hợp lại có sức mạnh tựa như bài sơn đảo hải.

Chỉ trong nháy mắt, Đinh Xuân Thu thấy nghẹt thở, chưởng lực của đối phương vừa như sóng thần xô tới mặt, vừa như một bức tường cao sắp đổ ập xuống đầu, tưởng chừng A Tử cùng lão sắp phải nát người thành một đống bùn. Đinh Xuân Thu kinh hãi quá, không còn nghĩ ra được kế gì để đối phó. Lão biết phóng đơn chưởng ra đỡ thì dĩ nhiên phải gãy tay, mà không chừng còn phải nát xương toàn thân. Trong lúc cấp bách, lão vội ném A Tử ra rồi khoa hai tay lên ba vòng để che phía trước, đồng thời vận sức xuống chân nhảy lùi ra sau.

Tiêu Phong lại phóng ra một chiêu Kháng Long Hữu Hối, chưởng trước chưa tan, chưởng sau lại đến. Đinh Xuân Thu không dám đỡ thẳng, chỉ phóng chưởng đẩy vào mé bên chưởng lực của đối phương cho lệch đi, thế mà vẫn cảm thấy cánh tay tê nhức, cơ hồ nghẹt thở. Lão nhân lúc này nhảy lui ra ba trượng, vẫn sợ Tiêu Phong rượt theo, bèn dựng bàn tay lên che trước ngực, lại ngấm ngầm ngưng tụ độc khí vào bàn tay. Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn tay ra đón lấy A Tử vẫn đang lơ lửng trên không, chỉ chạm vào một cái là đã giải huyệt cho nàng.

A Tử tuy hai mắt đui mù không nhìn thấy gì, từ lúc bị Đinh Xuân Thu điểm huyệt cũng không nói được, nhưng những biến cố xảy ra đều nghe rất rõ ràng. Nàng vừa được giải khai huyệt đạo đã mừng rỡ lên tiếng: “Hảo tỉ phu! May có tỉ phu đến cứu tiểu muội.”

Tiêu Phong thấy trong lòng bất nhẫn, dịu dàng an ủi: “A Tử! Muội chịu đau khổ đến thế này, đều là do tỉ phu liên lụy làm khổ muội.” Chàng chỉ đoán rằng những nhân vật đầu não của Cái Bang hận mình rất sâu mà chẳng làm gì được, biết A Tử là thân nhân duy nhất của mình trên thế gian này, bèn tới Nam Kinh bắt nàng về đây để giam cầm, đày đọa cho hả giận. Chàng không ngờ toàn bộ việc này đều do A Tử tự làm tự chịu.

Lúc Tiêu Phong lên núi, quần hùng nhốn nháo cả lên. Ngày ở Tụ Hiền Trang, một mình chàng đánh chết mấy chục cao thủ, oai danh lừng lẫy thiên hạ. Quần hùng Trung Nguyên nghĩ tới vụ này vừa nghiến răng căm hận vừa khiếp đảm kinh hồn, nên thấy chàng đột nhiên xuất hiện tại núi Thiếu Thất, đều tin chắc khó mà tránh được một trận ác chiến. Những người có mặt ở Tụ Hiền Trang ngày trước, nhớ lại cảnh máu đổ thịt rơi trong đại sảnh thì lại sợ run lên. Khi Tiêu Phong chỉ một chiêu Kháng Long Hữu Hội đã đánh cho Tinh Tú Lão Quái khét tiếng giang hồ phải cắm đầu chạy trốn, ai nấy lại càng thêm phần khiếp sợ. Quần hùng trên núi đều ngơ ngác nhìn nhau không dám nói gì.

Chỉ có mấy chục tên môn đồ phái Tinh Tú lên tiếng: “Gã họ Kiều kia! Mi đã trúng phải tiên thuật của Tinh Tú Lão Tiên, chỉ mười ngày là nhũn ra mà chết.” “Tinh Tú Lão Tiên thấy mi là hạng hậu sinh tiểu tử, nhường mi đánh trước ba chiêu.” “Tinh Tú Lão Tiên đã nhẹ tay mà mi còn dám động thủ ư? Mi không mau mau năn nỉ Lão Tiên tha mạng, thì phải chết không có đất mà chôn.” Tuy chúng vẫn huênh hoang, nhưng thanh âm rõ ràng miễn cưỡng, không còn hăng hái như trước.

Du Thản Chi vừa gặp Tiêu Phong đã sợ hãi, nhưng lúc gã thấy tình cảnh hai người thân mật, chàng quàng tay ôm A Tử vào lòng, A Tử lại vui mừng rạng rỡ, thì không nhẫn nại được nữa, nhảy xổ lại nói: “Ngươi mau… mau thả A Tử cô nương ra!” Tiêu Phong đặt A Tử xuống đất rồi hỏi: “Các hạ là ai?” Khi mục quang hai người chạm nhau, Du Thản Chi bất giác bị oai khí của chàng làm cho khiếp sợ, rụt rè đáp: “Tại hạ… tại hạ là bang chủ Cái Bang… tên gọi Trang…” Trong Cái Bang có người lớn tiếng nói: “Ngươi đã gia nhập phái Tinh Tú thì còn làm bang chủ Cái Bang thế nào được?” Tiêu Phong giận dữ quát: “Sao ngươi làm mù mắt A Tử cô nương?” Du Thản Chi khiếp sợ thần oai của chàng, bất giác lùi lại hai bước rồi đáp: “Không… không phải tại hạ… thực sự không phải…” A Tử lên tiếng: “Tỉ phu! Mắt của muội bị lão tặc Đinh Xuân Thu làm cho mù lòa. Tỉ phu mau mau móc mắt của Đinh lão tặc ra báo thù cho muội.”

Tiêu Phong nhất thời khó mà hiểu rõ được đầu đuôi câu chuyện kỳ lạ này. Chàng đảo đôi mắt sáng như điện nhìn qua một lượt, chợt thấy trong đám đông có cả Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thì trong lòng vừa chua xót vừa vui mừng. Tiêu Phong lớn tiếng nói: “Đại Lý Đoàn vương gia! Lệnh ái thiên kim đang ở đây, vương gia đưa về là tốt nhất.” Chàng bèn nắm tay A Tử dẫn lại trước mặt Đoàn Chính Thuần, khẽ đẩy nàng qua.

Nguyễn Tinh Trúc vốn đã khóc thầm, lúc này nước mắt tuôn xuống như mưa. Mụ tiến lên ôm lấy A Tử nói: “Hài tử! Mắt… mắt con làm sao vậy?”

Thấy Tiêu Phong bất ngờ xuất hiện, Đoàn Dự cả mừng toan ra tương kiến thì bỗng thấy chàng vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu, giải cứu A Tử, rồi hội kiến Du Thản Chi, chưa có lúc nào rảnh. Đến lúc Nguyễn Tinh Trúc ôm lấy A Tử khóc rống lên, thì chàng ngạc nhiên tự hỏi: “Sao Kiều đại ca lại gọi cô bé mù kia là lệnh ái thiên kim của gia gia ta?” Nhưng rồi chàng hiểu phụ thân mình đi tới đâu vương tình tới đó, đoán ngay ra quan hệ bên trong. Chàng liền rảo bước tiến ra lớn tiếng gọi: “Đại ca mạnh khỏe chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca muốn chết.”

Tiêu Phong đã từng đấu tửu với Đoàn Dự trong một tửu lâu ngoài thành Vô Tích, rồi kết bái huynh đệ, tuy thời gian gần nhau ngắn ngủi, song thật là ý hợp tâm đầu. Chàng bèn tiến lại nắm cả hai tay Đoàn Dự rồi nói: “Hiền đệ! Gần đây có chuyện gì không? Tiểu huynh thì nhiều chuyện lắm, một câu nói không hết được. May mà hai ta đều khỏe mạnh yên lành.”

Bỗng trong đám đông có người quát lên: “Gã họ Kiều kia! Mi giết huynh trưởng ta, nợ máu chưa trả. Hôm nay ta quyết liều mạng với mi!” Rồi lại có tiếng người khác: “Gã Kiều Phong này là quân mọi rợ Khất Đan, người người đều nên tru diệt, hôm nay quyết không để hắn còn sống mà xuống núi Thiếu Thất.” Tiếng la ó om sòm rất là huyên náo, người đòi nợ máu của con, người lại muốn trả thù cha.

Khi ở Tụ Hiền Trang, Tiêu Phong đã giết chết và đả thương rất nhiều cao thủ. Hiện giờ, trong số anh hùng đến chùa Thiếu Lâm, không ít người có thân nhân hay bạn bè đã chết dưới tay Tiêu Phong. Tuy họ vẫn sợ chàng nhưng nghĩ tới món nợ máu của thân nhân huynh đệ nên không dằn lòng được nữa, bèn lớn tiếng thóa mạ. Tiếng quát tháo, tiếng chửi rủa mỗi lúc một vang dội. Ai cũng thấy Tiêu Phong chỉ đem theo mười tám tên võ sĩ, mà chàng đã cùng Cái Bang và phái Thiếu Lâm kết mối thâm cừu. Tiêu Phong vừa đánh nhau với Đinh Xuân Thu, lại biến thành đại địch của phái Tinh Tú. Nếu bây giờ nổ ra đại chiến, giả tỉ Cái Bang nhớ tình xưa mà chỉ đứng xem, thì anh hùng thiên hạ cùng tăng lữ chùa Thiếu Lâm, lại thêm bọn môn đồ phái Tinh Tú, tất cả đến mấy ngàn người sẽ vây lại đánh. Bên Tiêu Phong chỉ có mười chín người, thì dù bản lĩnh có bằng trời cũng nhất định không thể chạy thoát. Mọi người thấy phe ta hùng hậu mà đối phương yếu thế, tinh thần đều phấn khởi vô cùng.

Quần hùng đông người lắm miệng, la ó càng lúc càng sôi nổi. Nhiều kẻ mang nặng mối thù, lúc này không kiêng dè gì nữa, mở miệng thóa mạ thô tục nghe rất chướng tai. Lại có mấy chục người rút binh khí ra, khoa đao múa kiếm, xem chừng chỉ muốn nhảy xổ vào loạn đao phân thây Tiêu Phong ngay lập tức.

Phen này Tiêu Phong dẫn mười tám kỵ sĩ Khất Đan vào Trung Nguyên không phải là để đánh nhau, chỉ muốn đưa A Tử về Nam Kinh, không ngờ lại gặp vô số kẻ thù ở đây. Từ thuở nhỏ chàng đã qua lại giang hồ, tuy không biết mặt hết các anh hùng tại đây, nhưng đã nghe danh phần lớn, hiểu rằng đa số đều là người hiệp nghĩa. Họ oán ghét chàng chẳng qua vì chàng một là dòng dõi Khất Đan, hai là vì bên trong có ai xúi bẩy để sinh chuyện hiểu lầm. Trận chiến ở Tụ Hiền Trang ngày trước, chàng phải đánh giết nhiều người chỉ để tự vệ, chứ bản tâm không muốn thế. Hôm nay nếu phải đại chiến thì chàng dù giết được nhiều người cũng phải đến lúc kiệt sức, giả tỉ trốn thoát được thì bọn Yên Vân Thập Bát Kỵ cũng khó bảo toàn tính mệnh. Chàng nghĩ thầm: “May mà hôm nay mình giao được A Tử cho song thân chiếu cố, A Châu có linh thiêng tất cũng hài lòng. Bây giờ ta mau mau rút lui là hơn, hà tất phải giết nhiều người cho thêm thù oán?”. Tiêu Phong liền quay sang bảo Đoàn Dự: “Hiền tệ! Tình hình lúc này rất nghiêm trọng, huynh đệ ta khó nói chuyện nhiều. Chúng ta chia tay thôi, núi sông còn đó thì còn ngày tái hội.” Ý chàng muốn Đoàn Dự tránh đi để rảnh tay xuống núi, khỏi phải lo lắng bảo vệ cho nghĩa đệ.

Đoàn Dự thấy mấy ngàn anh hùng thiên hạ đều muốn giết nghĩa huynh, bất giác nổi lòng nghĩa hiệp, bèn lớn tiếng nói: “Đại ca! Lúc huynh đệ ta kết nghĩa đã ước hẹn với nhau những gì? Có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày nhưng quyết chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hôm nay đại ca gặp nạn, có lý đâu tiểu đệ ham sống một mình?” Trước nay mỗi lần gặp nguy hiểm, Đoàn Dự đều thi triển Lăng Ba Vi Bộ, bất kể bao nhiêu người vây bủa cũng chạy thoát dễ dàng, nhưng lúc này lại không nghĩ gì đến chuyện trốn tránh nữa. Chàng thấy tình thế hung hiểm, bèn quyết chết chung với Tiêu Phong cho vẹn nghĩa đệ huynh.

Đa số hào kiệt chưa biết Đoàn Dự là ai, chỉ thấy chàng xưng hô với Tiêu Phong là nghĩa huynh nghĩa đệ, lại tựa như muốn hợp lực cùng Tiêu Phong chống lại mọi người. Nhưng chẳng ai thèm quan tâm đến tên đồ gàn nhỏ tuổi này, lại càng múa may hùng hổ hơn trước.

Tiêu Phong nói: “Hiền đệ! Hảo ý của đệ, tiểu huynh rất cảm tạ, nhưng bọn họ muốn giết tiểu huynh cũng không phải dễ đâu. Hiền đệ nên lui ra, không thì tiểu huynh phải phân tâm bảo vệ cho đệ, như vậy lại càng bất tiện.” Đoàn Dự đáp: “Đại ca bất tất phải bảo vệ. Bọn họ với tiểu đệ không thù không oán, họ giết tiểu đệ làm chi?” Tiêu Phong cười khổ, trong lòng cảm khái thê lương, nghĩ thầm: “Giả tỉ nếu không thù oán thì không giết nhau; không giết nhau thì trên thế gian làm gì còn có thù oán nữa?”.

Đoàn Chính Thuần khẽ bảo bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch: “Vị Tiêu đại hiệp này đã có ơn cứu mạng ta… Chúng ta thử chờ xem, nếu y gặp nguy hiểm thì phải xông vào cố mà cứu thoát.” Phạm Hoa “Vâng” rồi rút kiếm nhìn về phía mấy ngàn hào kiệt, hỏi: “Đối phương đông người quá, không hiểu chúa công có diệu kế gì không?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp: “Đại trượng phu phải ân oán phân minh, hết lòng hết sức, lấy cái chết để đền đáp!” Bọn người Đại Lý đồng thanh nói: “Đương nhiên là vậy.”

Bên kia, bọn Yến Tử Ổ cũng đang khẽ thương lượng. Công Dã Càn từ khi đối chưởng rồi uống rượu với Tiêu Phong ở Vô Tích, trong lòng rất khâm phục, cũng muốn ra tay giúp sức. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác thì mười phân kính phục Tiêu Phong, chỉ muốn nhảy ra giúp chàng ngay lập tức, nhưng Mộ Dung Phục nói: “Các vị đại huynh! Đại sự của chúng ta là phục hưng Đại Yên, có nên vì một mình Tiêu Phong mà kết oán với anh hùng thiên hạ chăng?” Đặng Bách Xuyên nói: “Công tử nói rất đúng! Chúng ta phải làm thế nào?”

Mộ Dung Phục đáp: “Phải thu phục nhân tâm để họ giúp mình.” Đột nhiên y hú lên một tiếng dài rồi dõng dạc nói: “Tiêu huynh! Huynh là anh hùng xứ Khất Đan, coi hào kiệt Trung Nguyên chúng ta không ra gì. Hôm nay Cô Tô Mộ Dung Phục này xin lãnh giáo mấy cao chiêu của các hạ. Giả tỉ tại hạ phải chết dưới tay Tiêu huynh, thì cũng là góp một phân vào công việc chung của các bằng hữu hào kiệt Trung Nguyên, không phải là chết uổng.” Hắn nói mấy câu này hết sức rõ ràng, chỉ mong dù mình thắng hay bại thì hào kiệt Trung Nguyên cũng coi nhà Cô Tô Mộ Dung là bạn sinh tử chi giao.

Quần hùng đều muốn giết Tiêu Phong, nhưng chưa ai dám tiến ra khiêu chiến. Mọi người đều biết, sau cùng dĩ nhiên Tiêu Phong phải chết, nhưng thể nào chàng cũng giết được mấy chục mạng trong số những người xông vào trước tiên. Bây giờ họ thấy Mộ Dung Phục tiến lên, ai nấy vừa sung sướng vừa phấn khởi. Họ biết Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung hai người nổi tiếng ngang nhau, dù Mộ Dung Phục không địch nổi nhưng cũng có thể làm nhụt bớt nhuệ khí của đối phương, mà nội lực của Tiêu Phong cũng bị tiêu hao không ít. Ai nấy lên tiếng hoan hô vang dội một góc trời.

Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đột nhiên tiến ra khiêu chiến với mình thì không khỏi kinh hãi, liền chắp tay ôm quyền thi lễ nói: “Tại hạ đã nghe anh danh của công tử đã lâu, hôm nay được gặp cao hiền thật thỏa ước vọng bình sinh.”

Đoàn Dự vội đáp: “Mộ Dung huynh không nên làm thế. Đại ca tại hạ mới gặp Mộ Dung huynh lần đầu, vốn không thù oán, huynh lại nhân lúc người ta lâm nguy mà làm khó ư?” Mộ Dung Phục lạnh lùng cười đáp: “Nếu Đoàn huynh thấy chuyện bất bình, muốn làm anh hùng hảo hán thì cứ bước lên chỉ giáo.” Hắn thấy Đoàn Dự cứ bám theo Vương Ngữ Yên nên từ lâu đã rất khó chịu, bây giờ muốn nhân cơ hội này mà nhổ một cái gai trước mắt. Đoàn Dự nói: “Tại hạ có bản lĩnh gì mà tỉ đấu với huynh? Bất quá tại hạ chỉ lấy lẽ công bằng mà nói thôi.”

Đinh Xuân Thu vừa bị Tiêu Phong đánh cho mấy chưởng, chưa thi triển được chút tuyệt kỹ nào đã phải bỏ chạy thật là nhục nhã. Lúc này lão tung mình nhảy ra, cười ha hả rồi nói: “Gã họ Tiêu kia! Lão phu thấy mi trẻ tuổi, lúc nãy nhường mi ba chiêu. Đến chiêu thứ tư thì lão phu không nhường nữa đâu.

Du Thản Chi cũng tiến ra nói: “Trang mỗ đa tạ ngươi đã cứu A Tử cô nương, chỉ vì mối thù giết cha không thể đội trời chung! Gã họ Tiêu kia! Hôm nay ta phải liều chết với ngươi.”

Huyền Sinh đại sư của phái Thiếu Lâm cũng âm thầm truyền lệnh: “La Hán Đại Trận phải giữ cẩn thận mọi con đường xuống núi. Không thể để tên ác tặc đã giết chết Huyền Khổ sư huynh còn sống mà xuống núi Thiếu Thất.”

Tiêu Phong thấy ba đại cao thủ tạo thế chân vạc để bao vây mình, lại thấy quần tăng chùa Thiếu Lâm tứ phía đều chuyển động, mới nhìn tưởng như rối loạn, mà thực ra đang bày trận pháp. Tình hình này so với cuộc chiến ở Tụ Hiền Trang ngày trước còn nguy hiểm hơn nhiều. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí rất thê thảm, mười chín con tuấn mã Khất Đan tự nhiên miệng sùi bọt trắng, ngã lăn ra chết.

Mười tám tay võ sĩ Khất Đan quát tháo om sòm, vung đao phóng chưởng, chỉ chốc lát đã đánh chết bảy tám tên đệ tử phái Tinh Tú, còn mấy tên ôm đầu chạy trốn. Thì ra lúc Đinh Xuân Thu tiến ra khiêu chiến, bọn chúng chia nhau phóng độc cho đàn ngựa chết trước để Tiêu Phong không còn phương tiện thoát khỏi trùng vây.

Tiêu Phong liếc mắt nhìn thấy những con ngựa yêu quí lúc lâm tử còn cố mở mắt nhìn mình lưu luyến, bất giác xúc động. Chàng gắn bó với đàn ngựa này đã lâu ngày, đường xuôi Nam ngàn dặm ngày đêm chẳng rời yên, không ngờ hôm nay chúng lại chết về tay bọn gian nhân. Bầu nhiệt khí bốc lên tới óc, chí anh hùng rừng rực trong lòng, chàng hú lên một tiếng dài rồi nói: “Mộ Dung công tử, Trang bang chủ, Đinh lão quái! Cả ba vị cứ tiến lên, Tiêu mỗ chẳng sợ gì.” Tiêu Phong căm hận bọn Tinh Tú dùng thủ đoạn âm độc, liền phóng chương tấn công Đinh Xuân Thu trước. Đinh Xuân Thu đã được nếm mùi chưởng lực lợi hại của Tiêu Phong, liền vung cả song chưởng lên dùng toàn lực để đỡ. Tiêu Phong thuận tay xoay chưởng chênh chếch đánh vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vốn chuyên về kỹ thuật Đẩu Chuyển Tinh Di, chỉ cần di chuyển phương vị là chiêu thức của đối phương đánh ngược trở lại đối phương. Nhưng phát chưởng của Tiêu Phong oai lực vô cùng, lực đạo đã hùng hậu mà phương hướng cũng biến ảo, hắn không kịp hiểu phát chưởng đánh vào vị trí nào nên không thể lái đi được. Mộ Dung Phục buộc phải ngưng tụ nội lực phóng song chưởng ra, đồng thời nhảy.lùi lại ba trượng.

Tiêu Phong né người tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục, rồi quát lên một tiếng như sét nổ giữa trời, đánh một quyền về phía Du Thản Chi. Thân thể chàng khôi vĩ, cao hơn Du Thản Chi một cái đầu, thoi quyền nhằm giữa mặt đối phương. Du Thản Chi vốn đã khiếp sợ Tiêu Phong, nghe tiếng quát không khỏi giật mình kinh hãi. Thân thủ Tiêu Phong cực kỳ mau lẹ, thoạt tiên chàng phóng chưởng nhằm đánh vào Đinh Xuân Thu, rồi biến thế quét sang Mộ Dung Phục, lại phóng quyền đánh Du Thản Chi, mấy chiêu này liên tiếp nhau nhanh như điện chớp. Du Thản Chi chưa kịp chống đỡ thì quyền phong đã ập vào mặt. May mà gã đã luyện Dịch Cân Kinh, trong người tự nhiên phản ứng, ngửa đầu lộn ra sau hai vòng, tránh khỏi thoi quyền nặng ngàn cân của Tiêu Phong chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Du Thản Chi thấy quyền phong lướt trên mặt mát rượi, bỗng nghe “vù” một tiếng, vải vụn bay phấp phới như một đàn bướm. Tấm khăn che mặt của gã đã bị kình lực trong thoi quyền của Tiêu Phong quạt rách bươm. Mọi người đứng xem đều thấy mặt mũi của bang chủ Cái Bang chỗ lồi chỗ lõm, đốm đen đốm đỏ, ngũ quan đều sứt mẻ, xấu xí đến phát khiếp.

Tiêu Phong đánh ra ba chiêu đẩy lui được ba đại cao thủ, hào khí nổi lên, liền lớn tiếng gọi: “Đem rượu ra đây!” Một tên võ sĩ Khất Đan cúi xuống xác ngựa, tháo lấy cái túi da lớn đựng rượu, rảo bước chạy tới rồi hai tay bưng túi rượu dâng lên. Tiêu Phong rút nút bì rượu ra, đưa cao lên quá đầu, ngửa cổ cho rượu chảy vào miệng, nuốt ừng ực một hồi. Bì rượu này ít ra cũng phải hai mươi cân, thế mà chàng uống một hơi cạn sạch không còn một giọt. Quần hùng chỉ thấy bụng chàng hơi phình ra, còn sắc mặt vẫn ngăm đen như lúc chưa uống giọt rượu nào, đều nhìn nhau sợ hãi. Tiêu Phong lại vẫy tay một cái, mười bảy tên võ sĩ Khất Đan còn lại cũng tháo bì rượu đem đến.

Tiêu Phong nhìn mười tám tên võ sĩ nói: “ Các huynh đệ! Đoàn công tử nước Đại Lý đây là nghĩa đệ của ta. Hôm nay chúng ta bị hãm trong trùng vây, ít người không địch lại số đông, dĩ nhiên khó mà thoát được.” Vừa rồi chàng động thủ với bọn Mộ Dung Phục tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng đối phương là ba đại cao thủ, mỗi người đều thân mang tuyệt kỹ, nếu cả ba hiệp lực liên công thì dĩ nhiên không thể địch nổi. Bên ngoài lại còn mấy ngàn người đang hầm hầm nhìn chàng, tình thế nguy ngập lại càng rõ rệt. Tiêu Phong nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Hiền đệ! Đệ cùng ta sống chết có nhau, thật không uổng một phen kết nghĩa. Sống cũng vậy mà chết cũng vậy, chúng ta hãy uống cho thỏa thích trước đã.”

Đoàn Dự thấy Tiêu Phong hào khí bừng bừng, cũng đón lấy một bì rượu nói: “Phải đó! Tiểu đệ cùng đại ca nên uống một phen.”

Đột nhiên trong quần tăng chùa Thiếu Lâm có một nhà sư áo xám lớn tiếng nói: “Đại ca, Tam đệ! Hai vị uống rượu sao không gọi ta?” Đấy chính là Hư Trúc. Y đứng lẫn giữa đám đông, thấy Tiêu Phong vừa xuất hiện đã oai phong lẫm liệt tựa như nhấn chìm cả quần hùng, trong lòng không khỏi cảm khái. Lúc y thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa cam tâm cùng chết, bỗng nhớ lại ngày trên núi Phiêu Diểu mình cùng Đoàn Dự kết nghĩa anh em, trong lời thề có đọc cả tên Tiêu Phong. Y nghĩ rằng đại trượng phu đã nói một lời thì sống chết không kể đến, lại nhớ lúc cùng Đoàn Dự say khướt ở cung Linh Thứu, bất giác nổi lòng hào hiệp khẳng khái, không nghĩ gì đến chuyện hiểm nguy sinh tử nữa. Kể cả thanh quy giới luật, y cũng quẳng hết ra sau không sót một điều.

Tiêu Phong chưa gặp Hư Trúc bao giờ, đột nhiên nghe y kêu mình bằng đại ca thì không khỏi sửng sốt. Đoàn Dự liền chạy tới nắm tay Hư Trúc, dẫn đến trước mặt Tiêu Phong rồi nói: “Đại ca! Đây cũng là nghĩa huynh của tiểu đệ, vốn pháp danh là Hư Trúc, khi hoàn tục đổi thành Hư Trúc Tử. Lúc bọn tiểu đệ kết bái có gọi cả tên đại ca vào. Nhị ca! Mau bái kiến đại ca đi!” Hư Trúc liền tiến lại, quì xuống dập đầu nói: “Đại ca! Tiểu đệ xin bái kiến.”

Tiêu Phong mỉm cười nghĩ thầm: “Đoàn nghĩa đệ thật là ngớ ngẩn, lúc kết nghĩa với người khác lại gọi cả tên mình vào. Ta sắp phải mất mạng, tình thế nguy hiểm vô cùng, thế mà nhà sư này chẳng sợ gì, trọng nghĩa khí chẳng kể thân mình, dám hiên ngang tiến lại thì rõ ràng là đại trượng phu, hảo hán tử. Tiêu Phong này được kết nghĩa huynh đệ với y thì thật là không uổng.” Chàng bèn quì xuống đáp lễ nói: “Hiền đệ! Tiêu mỗ được kết nghĩa cùng một bậc anh hùng hảo hán như hiền đệ, thật là vui sướng vô cùng!” Hai người lạy nhau tám lạy, kết nghĩa chi lan trước mặt quần hùng thiên hạ.

Tiêu Phong không biết Hư Trúc võ công tuyệt đỉnh, thấy y là một nhà sư không có cương vị gì ở chùa Thiếu Lâm thì tưởng y bản lĩnh tầm thường, nhưng nếu bảo một con người hiệp nghĩa như y tránh ra thì coi thường y quá. Tiêu Phong bèn cầm một bì rượu giơ lên nói: “Nhị vị hiền đệ! Mười tám võ sĩ Khất Đan này đối với ca ca một dạ trung thành, tình như thủ túc. Chúng ta phải uống cho thỏa thích một hồi rồi mở một trường đại sát.” Rồi chàng mở nút bì rượu uống một hơi, đoạn đưa qua Hư Trúc. Nhiệt huyết trong lòng Hư Trúc bốc lên như nước thủy triều; ngũ giới lục giới, thất giới bát giới gì gì nữa cũng không kể, nâng bì rượu lên uống một hơi rồi đưa cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống xong lại đưa cho một tên võ sĩ Khất Đan. Bọn võ sĩ Khất Đan cũng tuần tự nâng bì rượu lên uống.

Hư Trúc nhìn Tiêu Phong nói: “Đại ca! Tinh Tú Lão Quái đã hạ sát sư phụ, sư huynh trong môn phái sau của tiểu đệ. Mấy vị sư thúc tổ trong môn phái trước là Huyền Nạn, Huyền Thống đại sư của chùa Thiếu Lâm cũng chết về tay hắn. Tiểu đệ phải báo thù đây.” Tiêu Phong kinh ngạc nói: “Nhị đệ…” rồi dừng lại không nói nữa, Hư Trúc đã múa tít song chưởng tấn công Đinh Xuân Thu.

Tiêu Phong thấy y chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu thì vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, nghĩ thầm: “Té ra bản lĩnh nhị đệ cao cường đến thế, thế mà mình lại xem thường”. Chàng cũng quát lên: “Đỡ quyền!” rồi vung hai quyền phát ra những tiếng vù vù đánh tới Mộ Dung Phục và Du Thản Chi, hai tên này phải chia nhau ra đỡ. Mười tám võ sĩ Khất Đan đã hiểu ý Tiêu Phong, đứng vây quanh Đoàn Dự để bảo vệ.

Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, xoay tròn như múa, vờn quanh đối phương. Đinh Xuân Thu đã từng lẻn vào nhà gỗ phóng Tam Tiếu Tiêu Dao Tản ám toán Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc, nhưng chỉ giết được Tô Tinh Hà, còn Hư Trúc bình yên vô sự. Vì thế mà lão phải đề phòng, không dám sử dụng độc công, chỉ sợ chẳng may độc công Hư Trúc cao thâm hơn, thì hại người chẳng được mà chính mình bị hại. Lão bèn đem chưởng pháp bản môn ra đối chiêu, nghĩ thầm: “Thằng trọc con này đã giải phá xong thế Trân Lung, rồi được lão tặc kia truyền ngôi chưởng môn phái Tiêu Dao. Lão tặc đó quỉ kế đa đoan, không chừng đã an bài độc kế để đối phó với ta, nhất định ta không thể sơ ý được.”

Võ công phái Tiêu Dao nhẹ nhàng linh hoạt, khinh khoái khó lường. Đinh Xuân Thu cùng Hư Trúc tỉ đấu, một bên đồng nhan bạch phát chẳng khác thần tiên, một bên tăng bào phấp phới như người thoát tục. Hai đối thủ vờn quanh nhau như bướm vờn hoa, chuyển động không ngừng mà vẫn ra vẻ ung dung thật đúng với hai chữ Tiêu Dao. Hầu hết quần hùng chưa được chứng kiến võ công phái Tiêu Dao, hôm nay được xem đều thấy tinh thần thư thái, nghĩ thầm: “Rõ ràng hai bên đều ra những chiêu tàn độc nhằm vào những chỗ yếu hại của đối phương, hiển nhiên quyết một mất một còn, thế mà thoạt nhìn lại nhàn nhã mỹ quan tựa như đang nhảy múa. Chưởng pháp trầm trọng mà có vẻ nhẹ nhàng, chiêu thức linh hoạt mà có vẻ ung dung. Trước nay mình chưa từng thấy, không hiểu là công phu gì, của môn phái nào?”

Bên kia một mình Tiêu Phong phải đấu với hai người là Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chi. Mười chiêu đầu chàng chiếm được thượng phong, nhưng về sau Du Thản Chi vận khí âm hàn vào chiêu thức. Mỗi khi Tiêu Phong phải dùng toàn lực quyết đấu với Mộ Dung Phục, Du Thản Chi lại nhắm chàng phóng chưởng, tức thì chàng cảm thấy hàn khí nhập vào nội thể rất khó chịu. Trong mình Du Thản Chi có chất băng tằm kịch độc, gã lại luyện Dịch Cân Kinh thành ra chính tà hòa hợp, thủy hỏa tương giao, trở thành một thứ nội công lợi hại nhất thiên hạ. Thêm vào đó, công phu Đẩu Chuyển Tinh Di của Mộ Dung Phục cũng ảo diệu khôn lường. Lúc này Tiêu Phong tỉ đấu với hai đại cao thủ, lại còn nguy hiểm hơn ngày ở Tụ Hiền Trang phải tử chiến với hơn trăm hảo hán võ lâm. May mà chàng có thần lực trời sinh, tình thế càng bất lợi thì nội lực tiềm tàng càng phát huy dũng mãnh. Tiêu Phong liên tiếp phóng ra những chiêu Hàng Long Thập Bát Chưởng cương mãnh bậc nhất thiên hạ, khiến cho Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chi không tiến lại gần được, chất hàn độc băng tằm trong người Du Thản Chi cũng chưa thấm được vào người chàng. Nhưng Tiêu Phong phát chưởng như vậy phải tiêu hao nội lực không phải là ít, cuối cùng cũng phải tới lúc chưởng lực yếu đi.

Du Thản Chi không có kinh nghiệm chiến đấu lại không nhìn rõ đạo lý bên trong, nhưng Mộ Dung Phục lại rất sáng suốt. Hắn biết rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì mình cùng Trang Tụ Hiền chỉ bị kém thế trong vòng một giờ, nhưng về sau sẽ ổn định rồi dần dần chiếm được thượng phong. Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung vốn nổi tiếng ngang nhau, Mộ Dung Phục thấy mình phải nhờ bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền giúp sức thì dù có đánh chết được Tiêu Phong cũng có phần mất thể diện. Nhưng hắn tính toán lại, rồi tự nhủ: “Phục quốc là việc lớn, danh vọng là chuyện nhỏ. Nếu trước mặt anh hùng thiên hạ mình trừ được đại họa cho võ lâm Trung Nguyên, thì bọn hào kiệt Đại Tống dù quen biết hay không, cũng tự nhiên mang ơn đức của mình. Ngôi minh chủ võ lâm nếu không vào tay mình thì cũng chẳng còn ai nữa, khi đó chỉ hô lên một tiếng là có thể phục hưng được nhà Đại Yên. Vả lại khi Kiều Phong chết rồi, thì Nam Mộ Dung có thua kém Bắc Kiều Phong cũng chẳng hề gì.” Rồi hắn lại nghĩ: “Nhưng sau khi giết được Kiều Phong thì Trang Tụ Hiền lại trở thành đại địch, giả tỉ để hắn đoạt mất ngôi võ lâm minh chủ, mình phải nghe theo hiệu lệnh thì nhất định chẳng tốt đẹp gì.” Thế là ngoài mặt hắn vẫn ra vẻ hết sức tấn công, nhưng mỗi khi xuất chiêu đều ngấm ngầm dành lại mấy phần nội lực. Tuy nhiên do Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ nên người ngoài không ai phát hiện. Du Thản Chi phải chịu đựng phần lớn Hàng Long Thập Bát Chưởng của Tiêu Phong.

Chỉ trong khoảnh khắc, ba người đã trao đổi hơn trăm chiêu. Du Thản Chi ít kinh nghiệm chiến đấu, mấy lần bị Tiêu Phong dùng những chiêu xảo diệu để dẫn vào tròng đến suýt mất mạng, nhưng nhờ có Mộ Dung Phục đứng bên hóa giải giúp. Còn những phát chưởng mãnh liệt phi thường của Tiêu Phong thì Du Thản Chi ỷ mình có nội lực thâm hậu, ngang nhiên đón đỡ.

Đoàn Dự được mười tám võ sĩ Khất Đan vây quanh bảo vệ, chàng thấy nhị ca đang áp bức đối phương, rõ ràng chiếm được thượng phong. Còn đại ca lấy một chọi hai, tuy thần oai lẫm liệt, mỗi chưởng phóng ra đều rít lên veo véo khiến cho đá chạy cát bay, nhưng chàng cũng biết đại ca không thể chịu đựng được lâu dài. Chàng nghĩ thầm: “Miệng mình thì nói cùng hai vị ca ca gánh chung hoạn nạn, mà khi hữu sự thì trốn giữa đám đông để nhờ người ta bảo vệ, thế thì còn gì là nghĩa khí? Còn gì là đồng sinh đồng tử? Hai vị ca ca liều chết chiến đấu, lão tam ta đứng nhìn thì thật là không đáng mặt làm huynh đệ. Tuy mình không biết võ công, nhưng cũng phải thi triển Lăng Ba Vi Bộ quấy rối Mộ Dung Phục, để đại ca rảnh tay hạ thủ cho xong tên Trang bang chủ xấu xa kia trước, chắc cũng là chuyện tốt.”

Đoàn Dự nghĩ vậy, bèn lạng người thoát khỏi vòng vây bảo vệ của mười tám võ sĩ Khất Đan, rồi lớn tiếng hỏi: “Mộ Dung công tử! Công tử đã tề danh cùng đại ca ta, phải cùng đại ca ta lấy một chọi một mới phải, sao lại phải nhờ người giúp sức? Dù cho công tử ráng sức mà chống chọi được, nhưng lấy hai người đánh một thì thật là xấu mặt với thiên hạ. Lại đây, lại đây, nếu quả công tử có bản lĩnh thì cố mà đánh trúng ta một quyền!” Chàng nói xong, lạng ra sau lưng Mộ Dung Phục, giơ tay ra toan chụp vào gáy hắn.

Tuy thân pháp chàng cực kỳ cổ quái, nhưng Mộ Dung Phục chỉ xoay tay đánh một chưởng là trúng ngay. Một bên mặt Đoàn Dự lập tức sưng vù rồi chảy máu, chàng đau đến chảy nước mắt. Bộ pháp xảo diệu của chàng chỉ có thể thi triển để không bị người khác đánh trúng, không có công hiệu để tấn công. Chàng là một người không hiểu võ nghệ, vung tay chụp bừa thì làm sao trúng được một tay võ công tuyệt đỉnh như Cô Tô Mộ Dung? Hắn xoay tay đánh một chưởng, chàng không biết né tránh nên dập cả mặt mũi đau đớn khôn lường.

Nhưng Mộ Dung Phục vừa chạm tay vào má Đoàn Dự, cũng lập tức cảm thấy nội lực trong mình thất thoát ra ngoài. Bàn tay bị mất đi một ít nội lực liền cảm thấy tê tái, bất giác hắn kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng lỏi này đã học yêu thuật tàn độc nhất thiên hạ của phái Tinh Tú, mình nhất định phải đề phòng.” Hắn liền thóa mạ: “Thằng lỏi họ Đoàn kia! Ngươi đã gia nhập vào làm môn hạ phái Tinh Tú từ bao giờ?”

Đoàn Dự hỏi lại: “Công tử nói…” Chàng đang mở miệng nói, không đề phòng gì, bị Mộ Dung Phục đá cho một cước lăn đi mấy vòng. Mộ Dung Phục cũng không ngờ mình thắng dễ dàng đến thế, cả mừng nhảy vọt tới, đạp chân trái lên ngực Đoàn Dự, quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay muốn chết?” Đoàn Dự nằm dưới đất nhìn thấy Tiêu Phong đang tấn công Trang Tụ Hiền kịch liệt thì nghĩ rằng nếu mình nói bướng, hắn sẽ đập chết mình ngay mà rảnh tay đi giúp Trang Tụ Hiền, bất lợi cho đại ca, tốt nhất là kéo dài thêm một chút. Chàng liền đáp: “Chết có chi là thú? So ra thì được sống trên thế gian dĩ nhiên vẫn tốt hơn.”

Mộ Dung Phục không ngờ tên tiểu tử này chết đến nơi mà vẫn ăn nói ngông cuồng. Hắn sầm mặt xuống mắng: “Ngươi mà muốn sống thì phải…” Hắn đang định bắt Đoàn Dự dập đầu trăm lạy cho nhục nhã, nhưng lại nghĩ rằng nếu buông tha hắn rồi thì khó mà bắt lại được, liền đổi giọng nói: “… phải gọi ta một trăm tiếng gia gia!” Đoàn Dự cười nói: “Ngươi chỉ hơn ta có vài tuổi mà đòi làm gia gia ta, không sợ chết yểu ư?” Mộ Dung Phục quát lên một tiếng rồi phóng chưởng đánh xuống bên phải đầu Đoàn Dự, chỉ cách mấy tấc, lập tức bụi bay mù mịt, dưới đất xuất hiện một hố sâu, cái sọ dừa của Đoàn Dự suýt nữa nát ra như cám. Mộ Dung Phục lại quát: “Ngươi có chịu gọi hay không?”

Đoàn Dự nghiêng đầu đi để tránh bụi đất, chớp mắt nhìn ra xa thì thấy Vương Ngữ Yên đang đứng cạnh Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, đôi mắt đang chăm chú nhìn về phía mình, trên mặt hoàn toàn không có vẻ gì là lo lắng quan tâm. Hiển nhiên suy nghĩ trong lòng nàng chỉ là: “Không biết biểu huynh có giết Đoàn công tử không?” Nếu biểu huynh giết được Đoàn công tử, e rằng Vương cô nương cũng chẳng lấy gì làm đau lòng hay khó chịu. Đoàn Dự nhìn vẻ mặt Vương Ngữ Yên mà trong lòng chán nản vô cùng, muốn chết ngay dưới tay Mộ Dung Phục để khỏi bị tương tư giày vò triền miên. Chàng liền ủ rũ hỏi: “Sao ngươi không chịu gọi ta một trăm tiếng gia gia?” Mộ Dung Phục cả giận, vung chưởng lên đánh vào giữa mặt Đoàn Dự, đột nhiên nghe hai tiếng quát. Một người la: “Đừng hại con ta!” Người kia la: “Đừng hại sư phụ ta!” Hai người này dù thân pháp mau lẹ đến đâu cũng khó đỡ kịp phát chưởng của Mộ Dung Phục đánh xuống Đoàn Dự. Nhưng Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là cao thủ võ lâm, hai phát chưởng một trước một sau đều nhằm vào yếu huyệt của Mộ Dung Phục, nếu hắn không lập tức thu chưởng lực về để tự cứu, đánh chết được Đoàn Dự thì cũng không khỏi trọng thương. Hắn liền rút tay phải về để đỡ song chưởng của Đoàn Chính Thuần, tay trái khoanh một vòng tròn sau lưng để hóa giải kình lực của Nam Hải Ngạc Thần. Chưởng lực ba người gặp nhau, ai cũng kinh hãi trong lòng, biết rằng võ công đối phương ghê gớm. Đoàn Chính Thuần nóng lòng giải cứu cho con trai, vung ngón tay điểm một phát Nhất Dương Chỉ, chiêu thức kỳ diệu, nội lực hùng hồn.

Vương Ngữ Yên la lên: “Biểu ca cẩn thận! Đó là Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý, không nên khinh địch.” Nam Hải Ngạc Thần cũng quát lên oang oang: “Con mẹ nó! Dù tên sư phụ này chẳng ra gì thì cũng là sư phụ Nhạc lão nhị. Mi đánh sư phụ ta thì cũng như đánh Nhạc lão nhị này. Giả tỉ sư phụ ta tham sống sợ chết mà gọi mi một tiếng gia gia, thì Nhạc lão nhị này còn làm người được nữa ư? Nếu thế thì ta phải kêu mi bằng gì? Chẳng lẽ mi biến thành thái sư phụ của ta ư? Nhạc lão nhị lại là đồ tôn của mi ư? Mi khinh người quá đáng, hôm nay ta phải ăn thua với mi.” Lão vừa mở miệng thóa mạ, vừa vung cặp Ngạc Chủy Tiên lên, mỗi tay một cây nhắm Mộ Dung Phục đập lia lịa. Nam Hải Ngạc Thần bình sinh có tính hiếu thắng, không muốn bị lép vế. Trong Tứ Đại Ác Nhân, lão vẫn vì chuyện lão tam hay lão nhị mà tranh chấp với Diệp Nhị Nương. Bây giờ nếu Đoàn Dự kêu Mộ Dung Phục một tiếng “gia gia” thì Nam Hải Ngạc Thần phải đứng vào hạng cháu chắt của hắn. Lão thà chịu cảnh đầu rơi máu chảy còn hơn, nhất quyết không thể làm đồ tôn Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục chẳng hiểu lão mắng nhiếc om sòm cái gì, chân phải vẫn đạp trên ngực Đoàn Dự, hai tay chia ra đối địch với hai người. Hai bên qua lại hơn chục chiêu, hắn nhận ra Nam Hải Ngạc Thần tuy có binh khí lợi hại nhưng lại dễ chống đỡ, còn Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần thì không thể coi thường. Vì thế mà hắn phải để ý đối phó với Đoàn Chính Thuần nhiều hơn, còn những chiêu ngạc chủy tiên của Nam Hải Ngạc Thần thì hắn hóa giải được dễ dàng. Trong lúc hoang mang, thỉnh thoảng Mộ Dung Phục vẫn phản kích được một hai chiêu buộc Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy ra xa đến vài trượng để tránh né. Lúc này Đoàn Dự vẫn đang bị Mộ Dung Phục đạp chân lên ngực, chàng giãy giụa cố ngồi dậy, nhưng làm sao đủ sức?

Đoàn Chính Thuần thấy con trai yêu đang bị kiềm chế thì hoang mang vô cùng, biết rằng Mộ Dung Phục chỉ nhấn chân mạnh một cái là chàng vỡ ngực, thổ huyết mà chết. Ông nhận thấy lúc này cần phải đánh nhanh giải quyết nhanh mới có cơ hội cứu được Đoàn Dự ra khỏi nguy hiểm, liền thi triển Nhất Dương Chỉ đến tột độ, chỉ phong rít lên veo véo. Bỗng nhiên có một thanh âm đầy vẻ âm dương quái khí vang lên: “Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý khí tượng oai nghiêm, tuy uy mãnh mà vẫn ung dung thì mới không mất phong độ vương giả. Ngươi xuất chiêu liều mạng, hỗn loạn như vậy, thật không khác gì một tên đệ tử Cái Bang hạng bét, sao có thể gọi là Nhất Dương Chỉ? Ha ha! Ngươi có đáng là người ở họ Đoàn nước Đại Lý chăng?” Đoàn Chính Thuần nghe là biết ngay thanh âm của Đoàn Diên Khánh, một kẻ đại thù trong họ Đoàn. Lão nói vậy cũng không sai, nhưng đứa con yêu quí đang lâm nạn thì làm sao có thể nghĩ đến phong độ với khí tượng nữa? Bởi thế mà Đoàn Chính Thuần phóng Nhất Dương Chỉ ra mỗi lúc một nặng tay hơn, nhưng lại biến thành thâm độc thì có thừa mà trầm trọng lại không đủ. Đột nhiên một chỉ của ông bị Mộ Dung Phục tránh được, lại điểm trúng vào vai Nam Hải Ngạc Thân nghe sột một tiếng.

Nam Hải Ngạc Thần giận quá bèn chửi: “Con…”Y chưa mắng xong đã nghe xoảng một tiếng, cây ngạc chủy tiên trên tay rớt xuống đất, đập trúng vào gót chân. Nam Hải Ngạc Thần đau điếng người, đã toan ngoác miệng ra thóa mạ nặng lời hơn, nhưng lại nghĩ: “Y là gia gia của sư phụ mình, nếu mình thóa mạ y thì không khỏi mang tiếng vô lễ. Tên này chỉ được giết chứ không được chửi, sau này mình tìm cơ hội để bẻ cổ y nghe cắc một tiếng là xong.”

Lúc ấy Đoàn Chính Thuần vì ra chiêu đả thương đồng minh mà bị phân tâm, Mộ Dung Phục thừa cơ hội liền chĩa ngón tay giữa bên trái ra điểm nhanh như chớp, trung vào huyệt Trung Đỉnh trước ngực ông.

Huyệt Trung Đình chỉ ở dưới huyệt Đản Trung một tấc sáu phân, Huyệt Đản Trung là một chỗ rất xung yếu, tụ hội mọi luồng chân khí trong người, nếu bị điểm trúng sẽ lập tức nghẹt thở, kinh mạch ngừng chạy hết. Mộ Dung Phục biết bản lĩnh đối phương cao cường, thấy ông sơ hở bèn điểm vào huyệt Đản Trung, nhưng không ngờ lại điểm trệch đi một chút, trúng vào huyệt Trung Đỉnh. Tuy nhiên Đoàn Chính Thuần cũng thấy trước ngực đau đớn, nội tức đình trệ.

Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục phóng chỉ điểm trúng đối phương, liền vỗ tay hoan hô: “Chiêu Dạ Xoa Thám Hải của biểu huynh thật là tuyệt diệu!” Thật ra chiêu này mà điểm trúng vào huyệt Đản Trung hay huyệt Khí Hải thì mới đáng gọi là Dạ Xoa Thám Hải. Nhưng nàng đối với ý trung nhân dĩ nhiên có chỗ hơi tâng bốc, dù y điểm chệch mất một tấc sáu phân, nàng cũng hàm hồ gọi là Dạ Xoa Thám Hải.

Mộ Dung Phục tự biết phát chỉ của mình điểm chưa trúng vào yếu huyệt của đối phương, lập tức bồi thêm một chiêu, vung tay phải ra đập vào ngực Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần còn nghẹt thở chưa hít vào được, không còn sức để chống trả nên lại trúng một chưởng rất mạnh, miệng phun ra một búng máu tươi. Nhưng ông nghĩ đến con nên không chịu lui, chỉ cố vận khí điều dưỡng. Lúc đó chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tới.

Đoàn Dự đang nằm dưới gót chân Mộ Dụng Phục, thấy phụ thân thổ huyết mà đối phương lại phóng chưởng thứ hai ra, trong lòng bồn chồn, lập tức chàng vung ngón trỏ tay phải lên, la lớn: “Ngươi dám đánh gia gia ta ư?” Tình trạng cấp bách, nội lực đột nhiên đến được ngón tay rồi phóng ra đánh véo một tiếng, chính là Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm. Kiếm khí vô hình cắt đứt lìa tay áo của Mộ Dung Phục, rồi lại đụng vào chưởng lực của hắn. Mộ Dung Phục cảm thấy cánh tay tê nhức thì giật mình kinh hãi, vội lùi lại phía sau.

Đoàn Dự vừa được tự do liền lồm cồm bò dậy, ngón út tay trái của chàng lại phóng ra một chiêu Thiếu Trạch Kiếm đâm tới đối phương. Mộ Dung Phục vội vàng vung tay áo lên đỡ, chỉ nghe roạt roạt hai tiếng, tay áo bên trái của hắn lại bị kiếm khí cắt đứt. Đặng Bách Xuyên vội la lên: “Công tử phải cẩn thận! Đó là vô hình kiếm khí, mình phải dùng binh khí.” Hắn bèn rút kiếm ra khỏi vỏ, xoay chuôi lại rồi ném đến chỗ Mộ Dung Phục,

Từ lúc Đoàn Dự nghe Vương Ngữ Yên hoan hô Mộ Dung Phục đánh ngã phụ thân mình, trong lòng chàng đau đớn vô cùng, vì thế mà nội lực phát ra cuồn cuộn. Cùng một lúc, sáu đường Lục Mạch Thần Kiếm là Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung và Thiếu Trạch đều tung hoành nhảy múa, muốn sao được vậy, như có quỷ thần giúp sức.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.