– “Nếu phản bội lời thề, thì sau khi chết lăng mộ sẽ bị đào lên, hài cốt sẽ bị đập nát.”
Lăng tẩm của Càn Long được gọi là Dụ Lăng. Vào tháng 5-1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã dùng thuốc nổ để phá lăng mộ của Càn Long và Từ Hi thái hậu, cướp bóc phần lớn báu vật tống táng. Di thể của Càn Long hoàn toàn bị hủy hoại. Sau này Phổ Nghi đã phái Nội vụ phủ tổng quản đại thần là Bảo Hi, Thị lang là Trần Nghị cùng một số tùy tùng lo việc chôn cất lại. Bảo Hi có bài “Vu dịch đông lăng nhật ký” đề ngày 16 tháng 7, nội dung như sau:
– “Rất may là tìm được đủ bộ xương đầu của Cao Tông và Hậu Phi, còn tứ chi và những xương cốt khác thì mười phần mất tới năm.”
Trần Nghị cũng có bài “Long lăng kỷ sự thi”, sau bài thơ có phần chú thích:
– “… Đúng là xác của một người đàn ông, tức là Cao Tông… Xương cằm bị vỡ làm hai, kiểm nghiệm xong đã cho nối lại, răng trên và dưới tổng cộng ba mươi sáu cái, thân hình cao to, xương đã đổi màu tím đen. Xương mông và xương sống còn dính da thịt chưa tan hết. Xương sườn và xương hông không hoàn toàn lắm. Mất hẳn xương cánh tay trái. Các xương nhỏ khác, như ngón tay và ngón chân, khó mà tìm thấy được. Cao Tông tự xưng là Thập Toàn Lão Nhân, thế mà một trăm ba mươi năm sau khi chôn lại bị hại thảm thương đến thế…”
(1) Thốc Cưu nghĩa là con tu hú hói đầu.
(2) Sư công là chồng sư phụ. Nghe lạ tai, nhưng không biết dùng chữ gì nên cứ theo nguyên văn, xin bạn dọc miễn chấp.
(3) Chữ Triệu là gọi tới, như triệu tập, triệu hồi. Bản dịch cũ (trước 1975) gọi nhân vật này là Trương Siêu Trọng. Không hiểu có phải Kim Dung đổi tên nhân vật hay không.
(4) Chú thích của Kim Dung: Theo cổ lệ vi kỳ ở Trung Quốc, bậc trưởng giả cầm cờ đen, mà ở Nhật cũng thế. Gần đây mới có thay đổi.
(5) Nghiễn là cái nghiên mực.
(6)“Tí” nghĩa là cánh tay.
(7)“Du kích” ở đây là một chức quan võ nhỏ.
(8) Hàn ba bá ngạn kim thiên khoảnh, Hạo khí hàm không ngọc nhất bôi.
(9) Thực ra, Kim Dung đại lão gia chỉ nhại hai câu, phần còn lại người dịch thêm vào cho rõ nghĩa. Quí độc giả khó tính xin thông cảm bỏ qua.
(10) Tên nhân vật này có lẽ Kim Dung phiên từ Nasreddin Afandi, một nhân vật “Trạng”
ở Trung Á (chú thích của ND).
(11) Nguyên bản bài văn bia là:
Hạo hạo sầu, mang mang kiếp
Đoản ca chung, minh nguyệt khuyết
Uất uất giai thành, trung hữu bích huyết
Bích diệc hữu thời tận, huyết diệc hữu thời tuyệt
Nhất lũ hương hồn vô đoạn tuyệt!
Thị gia phi gia? Hóa vi hồ điệp.
Tác giả ghi chú: Bài từ “hạo hạo sầu, mang mang kiếp” đã truyền tụng trong dân gian từ lâu, không phải của Kim Dung, lại càng không phải của Trần Gia Lạc.