Tuyết Sơn Phi Hồ

Hồi 03

trước
tiếp

Hán tử cổ dài là quản gia của sơn trang này. Y họ Vu, vốn là một hảo thủ trên giang hồ, rất tinh nhanh tháo vát. Thấy giỏ tre đã lên đến lưng chừng núi bèn thò đầu nhìn xuống xem vị anh hùng nào lên giúp. Nhưng lúc đầu chỉ thấy mấy đám đen đen trong giỏ, không có vẻ gì là hình người. Khi giỏ tre được kéo lên gần tới nơi, thì ra là vài cái rương, vài cái lồng đan, mấy chậu hoa và lư hương, tất cả xếp đầy ắp giỏ tre.Vu quản gia không nén nổi ngạc nhiên, lẩm bẩm:

– Chẳng lẽ họ đưa quà biếu cho chủ nhân?.

Lần kéo giỏ thứ hai thì có ba phụ nữ. Hai người khoảng gần bốn mươi tuổi, đều ăn mặc lối người hầu. Còn người thứ ba chừng mười lăm mười sáu tuổi, đôi mắt tròn mà to, bên má trái có lúm đồng tiền, nhìn dáng vẻ dường như là một a hoàn. Cô bé này không đợi giỏ tre dừng hẳn đã vội bước ra, nhìn Vu quản gia, cười nói:

– Vị này chắc là Vu đại ca rồi. Huynh có cái cổ dài, tiểu muội nghe người ta kể thế!

Cô ta nói giọng Bắc Kinh rất trong trẻo. Bình sinh Vu quản gia không thích ai nói đến cái cổ dài của mình, nhưng nhìn vẻ mặt tươi vui của cô bé, họ Vu không tức giận nổi đành phải gật đầu cười.

Nha hoàn nọ nói:

– Tiểu muội là Cầm Nhi. Vị đại thẩm này là vú Chu, tiểu thư muội lớn lên nhờ sữa của vú ấy, còn đại thẩm đây họ Hàn, tiểu thư rất thích món ăn do bà nấu. Ðại ca hãy thả giỏ xuống đón tiểu thư lên đi!

Vu quản gia đang định hỏi xem đó là tiểu thư nhà ai, nhưng Cầm Nhi cứ nói luôn miệng, đồng thời lấy đủ thứ linh tinh lỉnh kỉnh từ trong giỏ tre ra, nào là lồng chim, mèo, nào là khung giá cho vẹt đậu, chậu hoa lan. Cô bé làm luôn tay, mồm cũng nói liên hồi:

– Đỉnh núi này cao quá, ôi, trên này chẳng có hoa cỏ gì cả. Tiểu thư tiểu muội chắc sẽ không thích đâu. Vu đại ca, ở trên này suốt ngày mà không buồn chán à?

Vu quản gia hơi cau mày, nghĩ bụng:

– Chủ nhân mình thì đang dốc sức đối phó với kẻ cường địch, thế mà bỗng dưng lại chui đâu ra một con bé mồm mép nhiều chuyện như thế này?

Y bèn hỏi lại:

– Chủ nhân của cô nương họ gì? Là thân thích của chủ nhân tại hạ ư?

Cầm Nhi nói:

– Ðại ca đoán thử xem? Tại sao mới gặp, tiểu muội đã biết ngay huynh là Vu đại ca, còn đại ca ngay cả họ của tiểu thư của tiểu muội cũng chẳng biết? Nếu tiểu muội không nói tên mình là Cầm Nhi, dám chắc đại ca có ngồi đến ngàn năm cũng đoán không ra tên tiểu muội là gì! Này! Đừng chạy lung tung, cẩn thận kẻo tiểu thư giận đấy!

Vu quản gia ngớ người, thấy cô ta cúi xuống ôm con mèo lên. Thì ra mấy câu cuối cùng là cô ta nói với con mèo!

Vu quản gia giúp cô ta lấy hết các thứ trong giỏ tre ra. Cầm Nhi nói:

– Ái chà, đại ca chớ làm lộn xộn, trong cái rương này toàn là sách của tiểu thư. Nếu để ngược đám sách sẽ rối tung lên mất! Ấy! Kìa, không được rồi. Hoa lan này không ưa hơi đàn ông đâu! Tiểu thư bảo hoa lan là thứ hoa rất thanh nhã, đàn ông mà lại gần thì đến tối nó sẽ tàn ngay!

Vu quản gia vội để ngay chậu hoa đang bưng xuống. Bỗng nghe phía sau lưng có một giọng ngâm rất quái dị:

– Ðịnh nâng đàn lên gảy, tiếc không bạn tri âm.

Vu quản gia giật mình, vội quay lại ngay, song chưởng đưa lên ngang ngực thủ thế sẵn sàng nghênh địch. Hóa ra kẻ vừa ngâm thơ là một con vẹt trắng đậu trên khung giá. Vu quản gia vừa tức lại vừa buồn cười, sai người thả giỏ tre để đón tiểu thư lên. Người vú già vội nói:

– Hãy để ta mở rương lấy tấm đệm lông lót vào trong giỏ đã, kẻo đáy giỏ cứng quá khiến tiểu thư ngồi không thoải mái.

Bà chậm rãi lấy chìa khóa mở rương ra, lại còn bàn với thím Hàn xem nên chọn tấm đệm lông hồ bạc hay tấm đệm lông thủy điêu. Vu quản gia không chờ được nữa, nghĩ đến tình thế kịch liệt trong đại sảnh, không rõ tính mạng Nguyễn Sĩ Trung ra sao, bèn dặn một người hầu hãy tiếp đón hộ tiểu thư cho chu đáo, còn mình thì chạy vội trở vào đại sảnh.

Vu quản gia chạy ra đón khách mất một hồi lâu nhưng khi trở lại thì tình thế cuộc chiến vẫn không có thay đổi gì lớn. Nguyễn Sĩ Trung vẫn bị hữu đồng ép dồn vào góc nhà, tình cảnh mỗi lúc một thêm hung hiểm. Chân trái đã bị văng mất chiếc giày, bím tóc tết trên đầu bị phạt mất một nửa, tóc xoã bù xù. Tào Vân Kỳ, Ân Cát, Chu Vân Dương đã mượn được binh khí của bọn nô bộc trong trang, nhiều lần xông vào cứu viện nhưng đều bị tả đồng đánh chặn, cả bọn càng lùi xa chỗ Nguyễn Sĩ Trung.

Bọn Lưu Nguyên Hạc vốn lăm le chờ dịp cướp lại cái hộp sắt, nhưng đã bị nếm mùi chủy thủ của tả đồng mấy lần, nên chỉ còn cách lui dần. Người nào cũng thấy ấm ức không phục vì thấy hai tiểu đồng thực ra chiêu thức chẳng có gì đặc sắc, nội lực tu luyện chỉ có hạn. Chẳng qua chúng ỷ vào hai lưỡi chủy thủy sắc bén, lại thêm kiếm pháp công thủ phối hợp rất nhịp nhàng với nhau, mà đã trói tay buộc chân được cả bọn giang hồ hảo hán.

Vu quản gia quan sát một lát, nghĩ thầm:

– Trước khi chủ nhân đi vắng đã giao cho mình trông nom việc ở sơn trang. Bây giờ trong trang các vị khách lại bị làm nhục như thế thì thể diện của chủ nhân còn ra gì nữa? Mình dù có chết cũng phải cứu Nguyễn Sĩ Trung mới được.

Nghĩ vậy, y chạy về phòng mình lấy ra thanh Tử Kim đao vẫn dùng trên chốn giang hồ năm xưa, rồi quay trở lại đại sảnh. Y nhìn thêm một lát các chiêu thức của hai tiểu đồng, rồi gọi:

– Nếu hai vị tiểu huynh đệ không chịu dừng tay, thì Ngọc Bút sơn trang của tại hạ đành phải thất lễ vậy!

Hữu đồng la lên:

– Chủ nhân sai vãn bối đến đây đưa thư, không bảo phải giao chiến. Chỉ cần lão ta đền minh châu cho vãn bối, thì vãn bối lập tức tha ngay!

Nói rồi, tiểu đồng dấn lên một bước. “Soạt” một kiếm, vai trái của Nguyễn Sĩ Trung lại bị rạch thêm một nhát.

Vu quản gia đang định trả lời, thì nghe giọng một thiếu nữ ở phía sau nói:

– Ôi! Ðừng đánh nhau nữa! Ðừng đánh nhau nữa! Ta không thích mọi người động đao động kiếm như thế đâu!

Âm thanh mấy câu này không vang dội, nhưng êm ái vô cùng, ai nghe cũng cảm thấy dễ chịu khó tả, không kềm được phải đều ngoái đầu lại nhìn.

Chỉ thấy một thiếu nữ mặc áo vàng, đang tươi cười đứng ở cửa. Nàng có làn da trắng sáng mịn màng hơn tuyết, đôi mắt như làn nước trong, lần lượt nhìn mọi người. Thiếu nữ có dung mạo cực kỳ tú lệ, đúng là như minh châu toả sáng, như ngọc quý long lanh, trên mắt mày thấp thoáng vẻ tao nhã của một người có học.

Người trong đại sảnh đều là hảo hán võ lâm phiêu bạt giang hồ, bỗng dưng một thiếu nữ thanh tú như vậy thì dường như đi lạc vào một thế giới khác, bất giác đều bị cái cốt thanh nhã cao quý của nàng nhiếp phục, cảm thấy thẹn thùng vì sự thô lỗ của mình mà không dám có ý gì thất lễ với nàng.

Hai tiểu đồng lại chẳng để ý đến người thiếu nữ ấy, nhân lúc bọn Ân Cát đang sững người, “keng keng” một hồi, binh khí trong tay bọn họ lại bị hai tiểu đồng chặt gãy.

Thiếu nữ nọ nói:

– Hai tiểu huynh đệ đừng gây gỗ nữa. Làm người ta bị thương như thế khó coi lắm!

Hữu đồng đáp:

– Y không chịu đền minh châu cho tiểu đệ.

Thiếu nữ nọ hỏi lại:

– Minh châu gì nào?.

Tiểu đồng dí mũi kiếm vào ngực Nguyễn Sĩ Trung, cúi người xuống nhặt nửa viên minh châu lên, miệng mếu máo nói:

– Cô nương nhìn đây này, lão ta làm vỡ nó đó. Tiểu đệ phải bắt đền mới được.

Thiếu nữ nọ bước lại gần, cầm lấy xem, nói:

– Ồ! Viên minh châu này đẹp thật! Tỷ tỷ cũng không đền nổi. Thế này vậy, Cầm Nhi ơi!

Thiếu nữ nọ quay lại gọi tiểu nha hoàn, nói:

– Lấy đôi ngựa bằng ngọc ra tặng cho hai tiểu huynh đệ này!

Cầm Nhi có vẻ không bằng lòng, nói:

– Ơ kìa tiểu thư!

Thiếu nữ nọ cười, nói:

– Sao hẹp hòi thế? Ngươi nhìn xem, hai tiểu huynh đệ này xinh xắn như vậy, đeo ngựa ngọc thì mới xứng cả đôi bên chứ sao!

Hai tiểu đồng nhìn nhau. Cầm Nhi mở chiếc hòm dát vàng lấy ra một túi gấm đưa cho thiếu nữ. Thiếu nữ nọ mở túi lấy ra con ngựa ngọc nhỏ xinh, hàm ngựa có thắt dây cương bằng những sợi tơ. Thiếu nữ đeo con ngựa ngọc vào thắt lưng cho hữu đồng, và lấy con ngựa ngọc trong túi gấm thứ hai cho tả đồng. Tả đồng nói lời cảm ơn và đỡ lấy ngựa ngọc ngắm nhìn. Thấy ngựa ngọc lấp lánh trong suốt được chạm trổ vô cùng tinh xảo. Ngựa như đang ở thế vươn mình sãi vó, kích thước tuy nhỏ, nhưng trông có thần như thật, quả là bảo vật phi phàm.

Tiểu đồng ngắm nhìn một hồi, ra chiều thích thú vô cùng. Có điều chú không biết thiếu nữ nọ là người thế nào, nên trong lòng còn do dự, không biết có nên nhận món quà quý báu này không? Hữu đồng lại đến chân tường nhặt nốt nửa viên minh châu lên, vô cùng buồn bã nói:

– Viên dạ minh châu của đệ cùng với viên minh châu của ca ca đeo thành một đôi. Dù có ngựa ngọc cũng không cân xứng nữa!

Thiếu nữ nọ nhìn dáng vẻ và cách ăn mặc của hai tiểu đồng thì biết hai huynh đệ sinh đôi này rất yêu quý nhau. Vỡ mất một viên minh châu chỉ là chuyện nhỏ, mà tiểu đồng buồn là vì sẽ làm huynh đệ trang phục khác nhau, không thành đôi được nữa! Nghĩ thế, thiếu nữ bèn đỡ lấy ngựa ngọc, cầm hai nửa viên minh châu áp vào chỗ hai mắt ngựa, nói:

– Tỷ có ý này, khảm hai nửa viên minh châu vào hai mắt ngựa ngọc. Viên minh châu có thể phát sáng vào ban đêm, thế thì mắt ngựa lúc trời tối sẽ phát sáng. Vậy chẳng đẹp ư?

Tả đồng cả mừng, bèn tháo viên minh châu đính trên bím tóc mình xuống, lấy chủy thủ bổ đôi ra, rồi nói:

– Đệ đệ! Thế này thì minh châu và ngựa ngọc của chúng mình đều giống nhau rồi!

Hữu đồng bèn đổi giận làm vui, luôn miệng cảm tạ thiếu nữ, lại còn hướng Nguyễn Sĩ Trung hỏi thăm:

– Thôi, được rồi! Lão cũng đừng giận nhé!

Nguyễn Sĩ Trung khắp người đầy vết máu, trong bụng tức giận ghê gớm, nhưng cũng chẳng lên tiếng mắng mỏ gì.

Hữu đồng kéo tay tả đồng, có ý định ra về. Tả đồng quay sang thiếu nữ nọ, nói:

– Đa tạ cô nương đã ban tặng ngựa ngọc quý. Xin hỏi quý tính của cô nương là gì? Phòng khi chủ nhân hỏi đến, bọn tiểu đệ còn biết đường mà trả lời?

Thiếu nữ nọ hỏi:

– Chủ nhân của các tiểu huynh đệ là ai?

Tả đồng trả lời:

– Chủ nhân của bọn tiểu đệ họ Hồ!

Vừa nghe xong, mặt thiếu nữ nọ chợt biến sắc, nói:

– Thì ra hai đệ là gia đồng của Tuyết Sơn Phi Hồ.

Hai tiểu đồng cùng cúi mình đáp:

– Ðúng thế ạ!

Thiếu nữ chậm rãi nói tiếp:

– Ngu tỷ họ Miêu. Nếu chủ nhân các đệ có hỏi về hai con ngựa ngọc này, thì nói là con gái của Kim Diện Phật họ Miêu tặng nhé!

Nghe mấy lời này, quần hùng đều lộ rõ vẻ kinh ngạc trên nét mặt. Kim Diện Phật uy danh lừng lẫy, không ngờ con gái của y lại hiền lành nhu mì như thế. Cứ nhìn phong thái thì biết, nếu không phải tiểu thư con nhà quyền quý thì cũng là khuê nữ dòng dõi thư hương, chứ đâu có giống con gái của một đại hiệp giang hồ.

Hai tiểu đồng nhìn nhau, rồi cùng đặt đôi ngựa ngọc trên chiếc bàn nhỏ, lẳng lặng quay người ra khỏi đại sảnh.

Thiếu nữ nọ chúm chím mỉm cười, cũng im lặng không nói gì. Cầm Nhi hớn hở thu lại đôi ngựa ngọc, nói:

– Tiểu thư! Hai thằng bé này chẳng hiểu biết gì cả! Tiểu thư đã tặng cho vật quý như thế mà chúng nó lại không nhận! Nếu là em, thì…

Thiếu nữ nọ cười nói:

– Đừng nói nhiều kẻo mọi người cười cho đấy!

Bảo Thụ đại sư bước ra trước mặt mọi người, nói to:

– Hoá ra cô nương là lệnh ái của Miêu đại hiệp ư? Lệnh tôn vẫn khoẻ chứ?

Thiếu nữ trả lời:

– Đa tạ đại sư. Gia phụ nhờ hưởng phúc tổ tiên nên vẫn mạnh khoẻ. Xin hỏi pháp danh của đại sư là gì ạ?

Bảo Thụ mỉm cười, trả lời:

– Lão nạp là Bảo Thụ. Thế còn quý danh của cô nương?

Thiếu nữ nọ vốn tên là Miêu Nhược Lan, nghe Bảo Thụ hỏi thì hơi đỏ mặt, thầm nghĩ:

– Tên của mình, sao có thể tùy tiện nói cho mọi người biết được?

Thế là nàng không trả lời, chỉ nói:

– Xin mời các vị ngồi, vãn bối phải vào nhà trong bái kiến bá mẫu.

Nói rồi nàng vái chào quần hùng.

Mọi người đều nể uy danh cúa cha nàng nên không dám tỏ ý xem thường, đều cung kính đáp lễ, và nghĩ bụng:

– Vị cô nương này không có chút kiêu căng cậy thế cha mình, cũng thật hiếm có!

Chờ cho mọi người đều yên vị, Miêu Nhược Lan mới cáo lỗi tất cả rồi lui vào nhà trong. Lại thấy bảy tám gia đinh và vú già từ ngoài cửa chính đi vào, khiêng các hòm xiểng, lồng chim và các vật dụng khác, xem ra đều là người đi theo để hầu Miêu tiểu thư.

Cha con Ðào Bách Tuế, Ðào Tử An nhìn nhau, thầm nghĩ:

– Nếu cha con mình gặp bọn họ trên đường, nhất định sẽ nghĩ rằng đây là quyến thuộc của quan lại, phú hào mà ra tay cướp phá, hẳn là sẽ gây thành chuyện tày đình!.

Nguyễn Sĩ Trung đưa cánh tay áo quệt các vết máu trên mình. May mà hữu đồng không cố tình sát thương, nên các vết thương đều rất cạn, chỉ làm rách da, không đáng lo ngại. Ðiền Thanh Văn bước lại gần, lấy thuốc rắc để cầm máu cho Nguyễn Sĩ Trung. Nguyễn Sĩ Trung xé vạt áo của mình để Điền Thanh Văn băng các vết thương. Bỗng nghe “xoảng” một tiếng, cái hộp sắt rơi xuống đất. Mọi người không ai bảo ai đều phóng người xông tới cướp lấy.

Nguyễn Sĩ Trung vung tay trái vạch một vòng gạt mọi người ra, rồi lập tực cúi xuống nhặt cái hộp sắt. Ngón tay vừa chạm hộp sắt, bỗng cảm thấy một lực rất mạnh đập vào vai mình, loạng choạng nhoài người mấy bước chân. Khi đứng vững lại được, ngẩng đầu nhìn thì thấy hộp sắt đã nằm gọn trong tay Bảo Thụ rồi. Quần hùng đều sợ bản lãnh cao cường của Bảo Thụ, đành trơ mắt nhìn, không dám nói năng gì.

Khoảnh khắc sau, Tào Vân Kỳ nói:

– Đại sư, cái hộp sắt này là di vật của tiên sư, quyết không thể để lọt vào tay người ngoài. Xin đại sư trả lại cho.

Bảo Thụ cười đáp:

– Ngươi nói đây là di vật của tôn sư, thế trong hộp đựng cái gì? Lai lịch cái hộp này ra sao? Ngươi đã là chưởng môn của Thiên Long môn hẳn phải biết. Chỉ cần ngươi nói rõ ra xong thì xin cứ việc cầm lấy!

Nói rồi, Bảo Thụ hai tay nâng chiếc hộp giơ ra trước mặt.

Tào Vân Kỳ mặt đỏ bừng, hai tay giơ ra nửa chừng, nhưng không dám đón lấy, lại ngượng không rút tay về, cứ để tay hờ như thế rồi từ từ buông xuống. Thực ra, Tào Vân Kỳ chỉ biết sư phụ hắn rất xem trọng cái hộp sắt, cất giữ kỹ lưỡng, nhưng cũng chưa nhìn thấy sư phụ mở hộp ra bao giờ. Ngay cả trong hộp đựng vật gì, Tào Vân Kỳ còn không biết, chứ đừng nói gì đến lai lịch của cái hộp. Nguyễn Sĩ Trung và Ân Cát nhìn nhau, cũng đành chịu không nói gì được. Chu Vân Dương bỗng lên tiếng:

– Tất nhiên là bọn tại hạ biết. Trong đó có một thanh bảo đao trấn môn.

Trong phái Thiên Long môn, luận về mặt võ công thì Chu Vân Dương chỉ được coi là cao thủ hạng nhì, xưa nay chưa từng được sư phụ ưu ái, hắn cũng không phải loại tài ba. Thế mà bỗng dưng nói ra điều đó, khiến cả bọn Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ đều lấy làm lạ, thầm nghĩ:

– Chỉ nói nhảm! Mi thì biết cái gì? Ai nói bảo đao trấn môn của Thiên Long môn để trong cái hộp này?

Bọn họ mỗi lần thấy bảo đao trấn môn đều là được lấy ra từ trong một cái hộp gỗ cũ kỹ, có liên quan gì đến cái hộp sắt này đâu!

Chẳng ngờ, Bảo Thụ nói luôn:

– Ðúng! Ðúng đây là một thanh bảo đao. Vậy thí chủ có biết cây đao này vốn là của ai không? Tại sao lại để trong cái hộp sắt này?

Bọn Nguyễn Sĩ Trung không ngờ Chu Vân Dương lại nói trúng, đều rất ngạc nhiên, cùng chăm chú chờ hắn nói tiếp. Nhưng chỉ thấy sắc mặt trắng xanh của Vân Dương đỏ lên, rồi lại chuyển sang trắng xanh. Chu Vân Dương hậm hực trả lời:

– Ðó là bảo đao truyền đời của Thiên Long môn ta. Suốt mấy trăm năm nay đều đặt trong cái hộp sắt này.

Bảo Thụ lắc đầu:

– Không đúng! Không đúng! Lão nạp chắc rằng các người cũng không biết!

Chu Vân Dương hỏi:

– Chẳng lẽ đại sư lại biết ư?

Bảo Thụ nói:

– Hai mươi năm trước ta đã biết rồi! Cuộc tranh chấp giữa Tuyết Sơn Phi Hồ và chủ nhân của sơn trang này cũng từ cái hộp sắt này mà ra! Nếu không vì có nhiều vướng mắc trong câu chuyện này, lão nạp hà tất phải mời các vị lên núi làm gì?

Quần hào Thiên Long môn, cha con họ Ðào, huynh đệ Lưu, Hùng cả bọn đều quá ngạc nhiên, thầm nghĩ:

– Lão hòa thượng này quả nhiên không có ý tốt! Té ra lão cũng muốn cướp lấy cái hộp sắt. Lão dẫn bọn ta lên núi là để quét một mẻ trọn lưới, không những đoạt được cái hộp sắt mà còn diệt cỏ tận gốc, không để lại hậu họan. Bọn ta hôm nay lâm vào tuyệt địa, cầm chắc cái chết rồi!

“Soạt” một tiếng, một người vừa rút binh khí ra. Tiếp theo là “soạt soạt” tiếng binh khí đồng loạt rút ra liên tiếp, quần hào đã cầm binh khí vây Bảo Thụ vào giữa. Bọn Nguyễn Sĩ Trung đã bị tiểu đồng chém gãy binh khí, cũng cúi xuống nhặt lấy đao gãy, kiếm gãy cầm trên tay.

Bảo thụ đứng giữa mọi người, chầm chậm xoay người nhìn một vòng, mỉm cười nói:

– Các vị muốn động thủ với lão nạp ư?

Quần hào nhìn căm giận, không ai trả lời. Lúc này, mọi người đứng quá gần nhau, ai cũng thấy rõ, Bảo Thụ tuy râu đã bạc, mặt nhiều nếp nhăn, nhưng đôi mắt sáng quắc, xem ra tuổi tác thực sự cũng không chưa phải là cao lắm.

Lưu Nguyên Hạc lùi lại một bước, hô lên:

– Mọi người hãy cùng nhau xông vào giết lão hoà thượng trước đã. Việc riêng của chúng ta hãy để xuống núi rồi từ từ thương lượng.

Nguyên Hạc cảm thấy còn chần chừ ở trên núi thêm lúc nào càng nguy hiểm thêm lúc đó. Quần hào cũng đều cảm thấy không yên tâm trong cái sơn trang này, nên lời kêu gọi của Lưu Nguyên Hạc thật hợp ý với họ. Mọi người vừa định xông vào, chợt nghe một tiếng nổ vang như tiếng pháo ở phía ngoài cửa.

Ai nấy ngạc nhiên nhìn nhau. Phút chốc, thấy Vu quản gia hấp tấp chạy vào, vẻ mặt có phần hốt hoảng, kêu lên:

– Các vị, đại sự không hay rồi!

Tào Vân Kỳ hỏi:

– Tuyết Sơn Phi Hồ đến rồi à?

Vu quản gia đáp:

– Không phải thế, dây thừng và trục cuốn mà bọn tiểu nhân dùng để kéo giỏ lên xuống núi đã bị phá nát hết rồi.

Mọi người đều giật thót người, dồn dập hỏi:

– Vậy làm sao đây? Không còn đường dây thứ hai nữa à? Không có cách nào khác để xuống núi sao?

Vu quản gia đáp:

– Trên núi chỉ có một sợi dây thừng dài thôi. Tiểu nhân nhất thời sơ ý không theo dõi, hai tên tiểu đồng thủ hạ của Tuyết Sơn Phi Hồ đã phá đứt hết rồi.

Bảo Thụ mặt biến sắc, hỏi:

– Bọn chúng phá thế nào?.

Vu quản gia trả lời:

– Huynh đệ tiểu nhân thả giỏ cho hai tên tiểu quỷ đó xuống núi, rồi về phòng nghỉ. Chợt nghe tiếng nổ thì vội vàng chạy ra xem, thấy dây thừng và trục cuốn đã bị cháy nát cả. Rõ ràng là hai tiểu quỷ trời đánh đó đã gài thuốc nổ ở chỗ trục quay, ngòi nổ thòng xuống chân núi, rồi châm ngòi từ đó cháy lên.

Mọi người ngây người, ùa ra cổng xem, quả nhiên trục cuốn đã bị nổ cháy tan tành, các đoạn dây thừng vung vãi tứ tung trên mặt đất. May là mấy hán tử đứng bên trục cuốn đã rời vị trí, nên không ai bị thương.

Ân Cát hỏi Bảo Thụ:

– Ðại sư! Phi Hồ làm chuyện này là có dụng ý gì?

Bảo Thụ đáp:

– Có gì đâu mà khó đoán? Hắn muốn chúng ta chết đói cả lũ trên đỉnh núi này.

Ân Cát nói:

– Nhưng chúng ta vốn có oán thù gì với gã đâu?

Bảo Thụ nói:

– Y có mối thù sâu như biển với chủ nhân sơn trang này. Hơn nữa, cái hộp sắt trong tay các vị đã kết thêm mối oán hờn với y đó!

Ân Cát hỏi lại:

– Tuyết Sơn Phi Hồ cũng muốn đoạt cái hộp sắt này ư?

Bảo Thụ đáp:

– Không phải sao?

Mọi người nhớ lại võ công quái dị của hai tiểu đồng, trong bụng đều có chung một ý nghĩ:

– Bọn nhóc mà đã ghê gớm như thế, thì chủ nhân của chúng đương nhiên là khỏi phải bàn!

Tất cả lặng lẽ đi sau Bảo Thụ trở vào đại sảnh.

Lúc này họ thấy Miêu Nhược Lan từ trong nhà đi ra, nói:

– Ðại sư! Tuyết Sơn Phi Hồ định hãm hại chúng ta chết ở đây ư?

Bảo Thụ sa sầm nét mặt, nói:

– Ðúng vậy! Mọi người đều chung cảnh ngộ rồi. Hãy cùng nghĩ cách xuống núi đi thôi.

Miêu Nhược Lan nói:

– Không đáng lo đâu ạ. Gia phụ sẽ đến đây nội trong ngày hôm nay, chắc có thể cứu chúng ta xuống núi được!

Mọi người đều nghĩ rằng, có con gái Miêu Nhân Phượng ở đây, lẽ nào y lại rũ tay đứng nhìn? Bất giác mọi người đều cảm thấy vơi bớt lo âu. Chỉ có Lưu Nguyên Hạc khẽ lắc đầu, nhưng cũng không nói rõ tại sao.

Bảo Thụ nói:

– Miêu đại hiệp tuy võ công cái thế, nhưng đỉnh Tuyết sơn cao mấy trăm trượng thế này, trong nhất thời làm sao lên nổi?

Miêu Nhược Lan đáp:

– Ðã có người lên được đây để lập sgia trang, sao gia phụ lại không thể lên nổi chứ?

Bảo Thụ nói tiếp:

– Nếu vào mùa hạ, băng tuyết đều tan, lên núi không khó. Nhưng bây giờ đang là lúc rét nhất, đợi lúc tuyết tan hết cũng phải mất đến ba tháng là ít. Này quản gia, trên núi dự trữ lương thực cho mấy tháng?

Vu quản gia đáp:

– Người quản gia đảm nhận công việc xuống núi đi mua lương thực dự kiến là ngày kia sẽ trở về. Lương thực dự trữ lúc này có thể đủ dùng hai mươi ngày nữa, nhưng giờ đây thêm các vị quý khách và các nô bộc của Miêu tiểu thư, tính ra chỉ còn đủ dùng mười ngày nữa thôi.

Mọi người mặt biến sắc, im lặng, thầm nguyền rủa Tuyết Sơn Phi Hồ ác độc!

Tào Vân Kỳ bỗng nói:

– Hay là chúng ta cứ từ từ trượt xuống…

Mới nói được nửa chừng, hắn hiểu ngay là không ổn nên ngưng bặt. Ngọn núi này dốc đứng như thế, e rằng trượt xuống chưa được tới hai ba trượng thì đã rơi xuống luôn rồi. Mọi người cùng nhìn hắn, đều nghĩ bụng: “Tên này thật vô dụng!”.

Tào Vân Kỳ thấy ánh mắt của mọi người, bất giác thẹn đỏ bừng cả mặt.

Miêu Nhược Lan nói:

– Nếu mọi người đều không tránh khỏi chết đói thì cũng nên biết rõ nguyên do chứ! Ðại sư, rốt cuộc thì Tuyết Sơn Phi Hồ có mối oán thù gì với chúng ta? Chuyện của hắn thế nào mà lúc này chủ nhân ở đây phải sợ hãi như thế? Cái hộp sắt này có liên quan gì?

Mấy lời này đã hỏi thay cho tất cả mọi người. Quần hào liều mạng tranh giành cái hộp sắt, có người đã bỏ mình, nhưng ngoài việc biết trong cái hộp sắt có một bảo vật ra thì không có ai nói rõ nguyên ủy sâu xa của sự việc. Thế là tất cả đều hướng về Bảo Thụ, chờ lão giải thích.

Bảo Thụ nói:

– Được rồi, chuyện đã đến nước này có nóng lòng cũng vô dụng. Mọi người hãy thành thật nói rõ ra, rồi đồng tâm hợp lực thì chắc cũng sẽ nghĩ được cách xuống núi. Nếu cứ tàn sát lẫn nhau thì cái chết sẽ đến nhanh hơn, đó chính là trúng gian kế của Phi Hồ.

Mọi người ồ lên tán thưởng, rồi cùng ngồi cả xuống.

Lúc này, hơi lạnh trên núi mỗi lúc một dữ dội hơn. Vu quản gia sai người bỏ thêm củi vào lò. Ai nấy đều im lặng lắng nghe Bảo Thụ nói.

Bảo Thụ nhấc nắp bát, uống một ngụm trà, tặc lưỡi khen:

– Trà ngon quá.

Rồi lão nói tiếp:

– Chuyện này nói ra thì rất dài! Chúng ta hãy xem thử thanh bảo đao trong hộp này đã, được chứ?

Tất cả đều cho là phải. Bảo Thụ đưa hộp sắt cho Tào Vân Kỳ, nói:

– Các hạ là chưởng môn của Bắc tông Thiên Long môn, xin hãy mở cho mọi người xem đi!

Tào Vân Kỳ nhớ đến việc Ðào Tử An đã từng phóng các mũi tên ngắn từ trong hộp sắt này ra, có thể làm chết người, nên sợ rằng trong hộp chứa ám khí gì khác nữa. Tuy đưa hai tay đỡ hộp, nhưng Vân Kỳ không dám mở nắp. Bảo Thụ cười hì hì nhìn hắn mà không nói một lời nào.

Mọi người thấy vỏ hộp hoen gỉ, mẻ sứt nham nhở, sần sùi lồi lõm, rõ ràng là cổ vật trên trăm năm, cũng không thấy có gì khác thường.

Tào Vân Kỳ nghĩ bụng:

– Mình mà không dám mở hộp thì tên tiểu tặc Ðào Tử An coi mình ra gì?

Gã bèn nghiến răng, dùng tay phải mở nắp hộp ra. Chẳng ngờ cố sức đến mấy lần mà nắp hộp vẫn không hề nhúc nhích. Gã chú ý xem xét tỉ mỉ, mới thấy hộp này chẳng hề có khóa hay chốt gì cả, nhưng loay hoay mãi vẫn không thể nào mở được. Tào Vân Kỳ dùng cả hai tay lại gắng sức thêm lần nữa, nhưng cái hộp vẫn như một khối sắt đúc liền, không hề động đậy!

Ðiền Thanh Văn thấy Tào Vân Kỳ mặt mũi đỏ gay, biết là trong cái hộp sắt này có mật mã gì đó, nếu cứ dùng sức mạnh cố mở thì không những vô ích, mà trái lại còn có thể bị thương cũng nên.

Cô nghĩ vậy bèn khẽ nói:

– Chu sư ca, nhờ huynh mở giúp vậy!

Chu Vân Dương vẻ mặt do dự, ấp úng nói:

– Ta… Ta không biết…

Ðiền Thanh Văn đón lấy cái hộp từ tay Tào Vân Kỳ rồi đưa cho Chu Vân Dương, nhẹ nhàng nói:

– Muội biết là sư ca mở được mà!

Chu Vân Dương trừng mắt nhìn thẳng Ðiền Thanh Văn một cái, bưng lấy cái hộp để xuống bàn, đưa tay mò cái hộp mà không giở nắp lên, lần lượt nhấc bốn góc, mỗi góc ba lần. Sau đó, giơ ngón tay cái ấn vào chính giữa đáy hộp. “Cách” một tiếng, nắp hộp đã bật ra.

Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ cùng đưa mắt nhìn Chu Vân Dương, thầm nghĩ :

– Sao hắn lại biết cách mở cái hộp này kìa?

Rồi lập tức nhìn vào cái hộp, quả nhiên thấy một thanh đoản đao được tra trong vỏ. Tào Vân Kỳ “ồ” lên một tiếng. Thanh đoản đao này năm xưa hắn đã từng thấy sư phụ hắn dùng qua, nó đã chém gãy khá nhiều binh khí của các anh hùng hào kiệt.

Bảo Thụ đưa tay cầm thanh đao lên, chỉ vào hàng chử khắc trên vỏ, nói:

– Mời các vị hãy nhìn xem.

Vỏ thanh đao này đầy những hoen rỉ đồng, ngoại trừ viên hồng ngọc khảm trên vỏ ra, thì thấy đây cũng chỉ là một thanh đao cũ bình thường, trên đó khắc hai hàng chữ:

Sát nhất nhân như sát ngã phụ

Dâm nhất nhân như dâm ngã mẫu.

(Giết một người, như giết cha mình

Hiếp một người, như hiếp mẹ mình)

Mười bốn chữ này cực kỳ bình dị, dễ hiểu, nhưng toát ra khí phách rất hào hiệp.

Bảo Thụ hỏi:

– Các vị có biết lai lịch mười bốn chữ này không?

Mọi người đều trả lời:

– Không biết! .

Bảo Thụ giải thích:

– Ðây là quân lệnh cúa Sấm Vương Lý Tự Thành để lại. Thanh đoản đao này là đao quân lệnh năm xưa Lý Sấm Vương đeo bên mình, chỉ huy trăm vạn quân chinh ngàn dặm.

Mọi người nghe xong, đều đứng bật dậy, chăm chú nhìn thanh đoản đao Bảo Thụ cầm trong tay, lòng nửa tin nửa ngờ. Lý Sấm Vương sống cách đây có đến hơn trăm năm, nhưng uy danh của ông vẫn còn hiển hách trong lòng giới hào kiệt giang hồ.

Bảo Thụ nói thêm:

– Nếu các vị không tin, xin hãy xem mặt bên này.

Bảo Thụ lật mặt kia của vỏ đao lên, thấy khắc mấy chữ: “Phụng Thiên Xướng Nghĩa”. Bảo Thụ giải thích:

– Lý Sấm Vương năm xưa xưng hiệu là Phụng Thiên Xướng Nghĩa đại nguyên soái.

Lúc này, mọi người mới thực sự tin. Bảo Thụ lại nói:

– Thời đó có chín mươi tám nhóm lục lâm và hai mươi bốn trại chủ kết nghĩa với nhau để khởi sự, cùng suy tôn Lý Tự Thành làm đại nguyên soái. Về sau Lý Tự Thành xưng là Sấm vương, chinh chiến khắp nơi hơn chục năm, cuối cùng công phá được thành Bắc Kinh, lập nên quốc hiệu là Ðại Thuận. Hoàng đế Sùng Trinh bị bức phải treo cổ chết ở Môi Sơn. Nếu không bị tên Hán gian Ngô Tam Quế bán nước, dẫn quân Mãn Thanh nhập quan thì thiên hạ này đã thuộc về họ Lý rồi. Anh hùng thảo mãng từ xưa đến nay chưa từng có ai oai phong như Sấm Vương

Bảo Thụ thở dài rồi nói tiếp:

– Ôi! Chỉ tiếc là ông vừa mới thành đại nghiệp thì phút chốc đã tiêu tan. Tháng ba năm thứ mười bảy đời vua Sùng Trinh, Sấm Vương công phá Bắc Kinh thì đến tháng tư lại phải xuất kinh nghênh chiến với quân Thanh. Ðến cuối tháng thì thua trận, phải bỏ chạy về phía Tây. Thế là từ đó, giang sơn tươi đẹp này đã rơi vào tay người Mãn Thanh!

Lưu Nguyên Hạc liếc nhìn Bảo Thụ một cái, thầm nghĩ:

– Lão hoà thượng này to gan thật! Dám nói ra toàn điều đại nghịch vô đạo!

Bảo Thụ thong thả đặt thanh đao vào hộp:

– Trong lúc đại chiến với Ngô Tam Quế, Sấm Vương trúng tên bị thương, từ Bắc Kinh lui về Sơn Tây, Thiểm Tây. Quân Thanh và Ngô Tam Quế truy kích đến, Sấm Vương lại lui về Hà Nam, Hồ Quảng. Các tướng sĩ giết hại lẫn nhau, bộ thuộc tứ tán khắp nơi. Cuối cùng, Sấm Vương rút về phủ Vũ Xương, huyện Thông Sơn, ở núi Cửu Cung. Quân địch vây kín trùng trùng, mấy lần phá vòng vây không được, cuối cùng anh hùng phải lâm vào mạt lộ.

Miêu Nhược Lan lại nhìn thanh đao trong hộp, tưởng tượng hùng phong oanh liệt năm xưa cúa Sấm Vương thì không kềm được bồi hồi. Rồi nghĩ đến cảnh Sấm Vương thua trận bỏ mình, nàng lại thấy buồn bã.

Bảo Thụ kể tiếp:

– Sấm Vương có bốn vệ sĩ bên mình, ai nấy đều võ nghệ cao cường, trung thành rất mực. Bốn người này một người họ Hồ, một người họ Miêu, một người họ Phạm và một người họ Ðiền. Trong quân thường gọi tắt là Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền.

Bọn Ân Cát, Ðiền Thanh Văn nghe đến bốn chữ “Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền” thì biết ngay rằng bốn vệ sĩ này ắt hẳn có liên quan mật thiết tới câu chuyện ngày hôm nay. Ðiền Thanh Văn liếc nhìn Miêu Nhược Lan, thấy nàng đang cầm que nhè nhẹ khơi những cục thanh cháy hồng trong lò, vẻ mặt như xuất thần, đôi má mịn như ngọc trắng bị ánh lửa bập bùng làm ửng hồng thêm lên.

Bảo Thụ ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, nói tiếp:

– Bốn vệ sĩ này theo Sấm Vương vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu gian lao nguy hiểm, đã từng cứu Sấm Vương thoát chết không biết bao nhiêu lần. Sấm Vương coi họ như ruột thịt của mình. Trong bốn người đó, người họ Hồ là võ công cao cường nhất, lại tài cán hơn cả. Trong quân của SấmVương, người ta gọi ông ta là “Phi Thiên Hồ Ly”!

Nghe đến đây, mọi người đều “ồ” lên một tiếng.

Bảo Thụ tiếp tục kể câu chuyện:

– Sấm Vương bị vây hãm núi Cửu Cung vô cùng nguy khốn, nhưng cử sứ giả nào đi cầu viện binh cũng đều bị quân địch giết chết ngay khi vừa xuống tới chân núi. Sấm Vương nghĩ chỉ còn cách phái ba vệ sĩ họ Miêu, họ Phạm, họ Ðiền nhân lúc đêm tối phá vây xông ra đi cầu viện.Vệ sĩ họ Hồ ở lại bảo vệ Sấm Vương. Không ngờ, khi ba vệ sĩ họ Miêu, họ Phạm, họ Ðiền trở về cùng đoàn quân cứu viện thì Sấm Vương đã bị sát hại rồi.

Ba vệ sĩ khóc lớn hồi lâu. Ngay lúc bấy giờ, vệ sĩ họ Phạm định tự vẫn chết theo chủ soái, nhưng hai người kia ngăn lại, nói rằng phải báo mối thù sâu tựa biển này trước đã. Ba người đi khắp các xóm dưới núi Cửu Cung để dò hỏi tường tận về việc Sấm Vương tuẫn nạn ra sao. Họ cảm thấy dường như vệ sĩ họ Hồ vẫn còn sống trên đời.

Ba người đều nghĩ rằng, người ấy võ nghệ cái thế, túc trí đa mưu, nếu có người ấy đứng đầu thì mối thù Sấm Vương có thể báo được. Thế là họ chia nhau đi các ngả dò la tin tức về vệ sĩ họ Hồ.

Các bậc trưởng lão trong võ lâm vẫn truyền nhau rằng, chỉ vì việc tìm kiếm đó mà gây ra bao cảnh sóng gió động trời. Ba vị Miêu, Phạm, Ðiền sau này đều kể lại tường tận chuyện ấy cho con cháu nghe, và ghi lại trong gia quy là mỗi đời đều phải kể lại câu chuyện này cho đời sau nghe, để lớp con cháu của ba họ Miêu, Phạm, Ðiền không bao giờ quên câu chuyện này.

Nói đến đây, Bảo Thụ nhìn Miêu Nhược Lan, nói:

– Lão nạp chỉ là người ngoài, nên chỉ biết đại khái thôi. Nếu Miêu cô nương bằng lòng nói thêm, hẳn là sẽ tường tận hơn nhiều.

Mọi người trong lòng đều thầm nghĩ:

– Thì ra cha con Miêu Nhân Phượng là hậu duệ của vị vệ sĩ họ Miêu.

Miêu Nhược Lan mắt nhìn đăm đăm lò lửa, kể:

– Năm tiểu nữ lên bảy, vào một buổi tối thấy gia phụ mài thanh trường kiếm. Tiểu nữ nói tiểu nữ sợ đao kiếm lắm, muốn gia phụ cất đi đừng đùa nữa. Gia phụ bảo cần phải dùng kiếm này để giết một người đã, rồi mới có thể cất đi vĩnh viễn không bao giờ dùng đến nó nữa. Tiểu nữ bá cổ gia phụ, xin gia phụ đừng giết người, gia phụ bèn kể cho tiểu nữ nghe một câu chuyện.

Gia phụ nói rất nhiều năm về trước, dân chúng khổ cực chẳng có cơm ăn áo mặc, phải ăn vỏ cây, rễ cỏ. Rồi ngay cả vỏ cây rễ cỏ cũng hết, đành ăn cả đất bùn, rất nhiều người chết đói. Người mẹ không có cơm ăn nên không có sữa, nhiều trẻ sơ sinh chết đói trong tay mẹ. Thế mà các quan phủ vẫn đòi dân chúng phải nộp lương thực, các nhà giàu vẫn thúc ép dân nghèo nộp tô trả nợ. Bá tánh không kiếm đâu ra được, nên rất nhiều người bị quan phủ giết, bị các chủ nợ bắt. Gia phụ có dạy tiểu nữ một bài ca, bảo là bài ấy do một công tử văn võ song toàn làm ra. Các vị có muốn nghe tiểu nữ ca không?

Mọi người đồng thanh nói:

– Xin mời cô nương ca đi.

Riêng Bảo Thụ nghe nói đến bảy chữ “vị công tử văn võ song toàn” thì biết ngay đó chính là Lý Nham, viên đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành.

Miêu Nhược Lan cất giọng ca:

Năm qua khổ nạn hoành trùng,

Mất mùa đói kém, tan tành ruộng nương

Gạo cao thóc kém bao lần

Khắp nơi đều cảnh lầm than nghẹn lòng

Lá cây rễ cỏ tạm dùng

Con trẻ đói khóc nát lòng mẹ cha

Bếp kia tắt ngấm góc nhà

Cháo lão không đủ sống qua từng ngày

Quan trên thu thóc thẳng tay

Đòi tô, hào phú thả bầy sói lang

Thương thay còn chút hơi tàn

Mà hồn sớm đã suối vàng xa chơi

Xương khô cao chất đến trời

Khôn qua ải đói một thời nghiệt oan

Ai người tránh khỏi lệ tràn?

Lệ rơi thành máu thấm hoen má mình!

Lúc này đang là trung điệp Càn Long, tuy nói là thời thái bình thịnh trị, nhưng hạn hán và lũ lụt vẫn xảy ra hàng năm khiến trăm họ khốn khổ. Mọi người nghe nàng ca rõ ràng từng câu từng chữ, giọng đượm nỗi đau thương da diết, ai cũng liên tưởng đến những cảnh ngộ mắt thấy tai nghe trên bước đường giang hồ của mình, bất giác đều cảm thấy mủi lòng.

Miêu Nhược Lan nói tiếp:

– Gia phụ nói, sau đấy quả tình là bá tính không sao chịu đựng được nữa, cuối cùng có một vị đại anh hùng xuất hiện, cầm đầu mọi người đánh vào Bắc Kinh. Tiếc rằng sau khi lên ngôi hoàng đế, vị anh hùng ấy đã xử sự không đúng, cũng không đối đãi bá tánh tử tế, mà trái lại, các tướng lĩnh dưới quyền còn đi tàn hại dân chúng, cướp bóc của cải của họ. Thế là bá tính không còn phục vị anh hùng ấy nữa. Vị anh hùng đó cho rằng lòng dân đều hướng về vị công tử đã làm bài hát kia bèn sát hại luôn vị công tử nọ. Tới đây thì đám thuộc hạ của y đều loạn cả lên. Chẳng bao lâu thì y bị kẻ gian sát hại.

Nói đến đây, Miêu Nhược Lan thở dài, ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Còn ba người vệ sĩ của vị anh hùng ấy thì bàn nhau đi tìm người vệ sĩ họ Hồ, muốn y vạch ra kế hoạch báo thù cho vị đại anh hùng chủ soái của mình.

Lúc ấy, người dị tộc đã làm hoàng đế, hạ lệnh truy nã các bạn hữu của vị anh hùng đó ở khắp mọi nơi. Ba người vệ sĩ nọ thấy khó bề yên thân, đành cải trang để ẩn trốn. Một người cải trang thành lang y bán thuốc dạo, một người cải trang thành ăn mày, còn người thứ ba có sức vóc hơn cả cải trang thành phu xe. Ba người bọn họ và người vệ sĩ thứ tư kia vốn là bốn huynh đệ kết nghĩa, đã đồng cam cộng khổ mấy chục năm trời, còn thân thiết hơn cả huynh đệ ruột. Cả ba đều khắc khoải tưởng nhớ người thứ tư. Nhưng tìm kiếm suốt bảy tám năm trời mà vẫn bặt tin. Họ nghĩ có lẽ người ấy đã tử trận trong khi bảo vệ chủ soái rồi, nên đều vô cùng đau xót.

Mọi người nghe giọng nói trầm bổng của thiếu nữ tựa như cách kể chuyện cho trẻ con, đều đoán rằng có lẽ nàng bắt chước cách kể chuyện của cha mình năm xưa, bọn họ thầm nghĩ:

– Xưa nay tuy nghe trong danh hiệu Kim Diện Phật có chữ “Phật”, nhưng y ghét kẻ xấu như kẻ thù, ra tay rất dữ tợn. Thế mà đối xử với con gái lại ôn hoà, nhân ái đến thế.

Nghe Miêu Nhược Lan kể tiếp:

– Sau đó mấy năm, bọn họ quyết định thôi không tìm vị nghĩa huynh kia nữa. Ba người gặp nhau bàn bạc, đều nói kẻ hại chết vị anh hùng năm xưa là tên Hán gian được phong vương hiện tại, đang sống sung sướng ở Vân Nam. Họ bèn quyết định đi Vân Nam để giết hắn, báo thù cho vị đại anh hùng và người nghĩa huynhh kia. Thế là cả ba người lên đường đi Vân Nam.

Lưu Nguyên Hạc, Hùng Nguyên Hiến đưa mắt nhìn nhau, trong bụng biết tên Hán gian mà thiếu nữ nói chính là Ngô Tam Quế, người được phong làm Bình Tây thân vương.

Miêu Nhược Lan kể tiếp:

– Ba người đi đến Côn Minh, dò la kỹ lưỡng quanh nơi ở của tên Hán gian đó. Vào tối mồng năm tháng ba năm ấy, cả ba mang gươm đao và ám khí trèo tường nhảy vào. Tên đại Hán gian đó phòng bị vô cùng cẩn mật, cả ba vừa đột nhập là bị các vệ sĩ phát giác ngay. Ba người họ tuy võ nghệ cao cường, vừa động thủ là đã hạ hơn hai chục tên vệ sĩ, vừa chết vừa bị thương. Cả bọn vệ sĩ không chặn nổi ba người, họ đã xông vào tận phòng ngủ của tên Hán gian. Những tưởng tên Hán gian không sao trốn thoát, nào ngờ có một người nhảy xổ ra đứng chắn trước mặt tên đại Hán gian. Ba người nhìn mặt thì kinh ngạc vô cùng, thì ra người đó chính là vị nghĩ huynh mà họ tìm kiếm bấy lâu nay. Y võ công cao cường hơn bọn họ, bảo vệ tên đại Hán gian, không cho bọn họ giết hắn. Cả ba vừa ngạc nhiên, vừa giận dữ, xông vào giao đấu với vị nghĩa huynh. Không bao lâu thì từ bên ngoài tràn vào thêm mấy chục vệ sĩ nữa, ba người biết không sao địch nổi đành tháo chạy. Riêng người cải trang thành phu kéo xe thì thất thủ bị bắt giữ.

Đích thân tên đại Hán gian Ngô Tam Quế tra hỏi, người phu xe lớn tiếng mắng, chửi hắn đã mang giang sơn của người Hán cho bọn dị tộc. Tên đại Hán gian đánh gãy hai chân y rồi giam vào ngục. Người nghĩa huynh nọ dường như cảm thấy ái ngại, đã lẻn vào ngục thả y ra. Sau đó, cả ba người gồm ông thầy thuốc, kẻ ăn mày và người phu xe gặp lại nhau, họ ôm nhau khóc lóc thảm thiết, không ngờ vị nghĩa huynh năm xưa lại thay lòng đổi dạ đầu hàng kẻ thù. Cả ba lại ngầm nghe ngóng thì phát hiện ra thêm một câu chuyện đau lòng khác. Thì ra năm xưa, khi cả ba người xuống núi đi cầu cứu viện binh, vị nghĩa huynh nọ chờ mấy hôm không thấy viện binh đến, chính tay y đã ra tay hạ sát chủ soái rồi đầu hàng kẻ địch. Hoàng đế Mãn Thanh phong cho y làm đại quan, hiện giờ được thăng đến chức đề đốc dưới quyền của tên đại Hán gian.

Nghe đến đây mọi người đều biến sắc mặc. Họ từng nghe nói Sấm Vương bị sát hại ở núi Cửu Cung. Có kẻ đồn là ông bị dân chúng giết, có kẻ thì bảo là bị quan binh giết, nhưng không ngờ hung thủ lại chính là vệ sĩ tâm phúc của Sấm Vương.

Miêu Nhược Lan thở dài, nói:

– Ba người nghe ngóng điều tra xác định đúng là như vậy, bèn quyết chí thanh toán vị nghĩa huynh kia. Có điều cả ba người còn khó thắng nổi, huống gì giờ đây người phu xe lại bị thương nặng thì lại càng không phải là địch thủ của y. Ðang trù trừ chưa biết tính sao, bỗng người nghĩa huynh nọ sai người mang thư tới, hẹn ba người cùng đến uống rượu ở Ðiền Trì vào tối ngày rằm tháng ba.

Ba người nghĩ chắc phải có quỷ kế gì đây, nhưng lại nghĩ y đã biết rất rõ nơi ở cùng với động tĩnh của bọn họ, lại nắm đại quyền trong tay thì dẫu muốn trốn cũng không được. Chuyện đã đến nước này, dẫu có là hang hùm miệng sói cũng đành liều mà đi đại náo một phen. Đến ngày hẹn, ba người ngầm mang theo binh khí trong mình rồi cùng đến Ðiền Trì. Chỉ thấy vị nghĩa huynh năm xưa đã đợi ở đó từ sớm, một thân một mình, không mang theo binh sĩ hộ vệ, người mặc chiếc áo màu xanh bằng vải thô, giống như năm xưa khi cả bốn ngưòi cùng ở trong quân ngũ. Bốn người vào một tửu điếm nhỏ, gọi thịt luộc, gà nướng, bánh bao và mười mấy cân rượu trắng, rồi lên thuyền cùng ra giữa hồ uống rượu thưởng trăng.

Bốn người vừa uống rượu vừa ôn lại những chuyện oanh liệt khi cùng trong quân ngũ năm xưa. Ba người thấy vị nghĩa huynh không hề nhắc đến tên của vị đại anh hùng thì cũng nhịn không đả động tới. Nhưng họ thấy người ấy cứ uống liên tiếp hết bát rượu lớn này đến bát rượu lớn khác, mãi khi trăng đã lên lưng trời, y mới ngửa mặt lên trời kêu lên:

– Ba vị huynh đệ! Chúng ta lâu ngày mới có dịp trùng phùng, hôm nay ta vui lắm!.

Câu nói chứa đầy hào khí lại được phát ra bởi miệng một thiếu nữ hiền lành tao nhã kể ra không được hợp lắm, nhưng mọi người đang bị lôi cuốn bởi các tình tiết hấp dẫn của câu chuyện nên không ai để ý.

Miêu Nhược Lan lại kể tiếp:

– Vị cải trang làm đại phu không còn nhịn được nữa, cười nhạt: “Huynh đã làm đại quan, thân hưởng vinh hoa phú quý, đương nhiên là vui rồi! Có điều là không biết hiện giờ trong lòng Nguyên soái gia thế nào thôi?

Tuy vị đại anh hùng sau này đã từng làm hoàng đế, nhưng cả bốn vệ sĩ thân tín vẫn gọi y là Nguyên soái gia.

Vị nghĩa huynh nọ thở dài, nói: “Ôi! Hẳn là Nguyên soái cô đơn lạnh lẽo lắm. Đợi lúc đại sự xong rồi, ta sẽ chỉ chỗ cho các vị huynh đệ đi bái kiến Nguyên soái gia”.

Ba người nghe thế thì lửa giận bốc lên, thầm nghĩ:

– Hay lắm! Mi lại còn muốn giết luôn cả ba chúng ta nữa, bảo chúng ta xuống âm tào địa phủ gặp Nguyên soái gia ư?

Người giả dạng phu xe đưa tay vào trong người, định rút đao ra. Người giả dạng đại phu bèn đưa mắt ra hiệu, rồi nâng vò rượu rót cho vị nghĩa huynh trưởng một chén, nói:

– Từ sau ngày ba chúng đệ từ biệt núi Cửu Cung, rốt cuộc thì Nguyên soái đã xảy ra chuyện gì?

Vị nghĩa huynh nọ nhướng đôi lông mày lên, nói:

– Hôm nay ta hẹn ba vị huynh đệ đến đây là để nói chuyện này.

Người giả dạng ăn mày bỗng chỉ tay ra phía sau lưng người nghĩa huynh, la to:

– Kìa, ai đến vậy?

Vị nghĩa huynh nọ quay người lại nhìn, thì người giả dạng ăn mày và đại phu cùng vung hai đao ra, chém luôn một nhát đã chặt đứt cánh tay phải của người nghĩa huynh trưởng, một đao chém vào giữa lưng sâu đến mấy phân. Người nghĩa huynh thét lớn một tiếng, quay phắt lại, tay trái vung ra đoạt cả hai đao ném luôn xuống hồ, rồi nhanh như chớp xoay bàn tay một cái đã chộp trúng huyệt đạo ở cổ của người giả dạng đại phu, sắc mặt trắng bệch, hét lên:

– Bốn người chúng ta kết nghĩa kim lan, tại sao… tại sao lại ngầm giở trò ám toán sát hại ta?

Người giả dạng đại phu bị y chộp, cứng đơ không cựa quậy được. Người giả dạng phu xe vung đao lên, quát:

– Mi đã hại chết Nguyên soái gia, bán chúa cầu vinh, còn mặt mũi nào nói đến hai chữ nghĩa khí nữa?

Vị nghĩa huynh nọ tung một cước, đá văng đao trong tay người giả dạng phu xe, cười lớn:

– Ðược! Ðược! Có nghĩa khí ! Có nghĩa khí!

Ba người thấy vị nghĩa huynh đã bị chém mất một cánh tay, lưng bị trọng thương mà vẫn dũng mãnh như vậy, đều kinh ngạc đến ngây người. Vị nghĩa huynh nọ dứt tiếng cười, thì bỗng lệ trào đôi mắt, bảo:

– Đáng tiếc! Đáng tiếc việc lớn của ta không thành!

Nói rồi nới lỏng tay, thả người giả dạng đại phu ra. Người giả dạng ăn mày sợ y hạ độc thủ, bèn đấm mạnh một quyền trúng vào giữa ngực y. Quyền này thủ pháp rất nặng, lực đạo kinh hồn, làm vị nghĩa huynh nọ “hự” một tiếng, mồm hộc máu tươi. Bỗng y giơ chưởng trái lên vỗ mạnh vào mạn thuyền, làm mạn thuyền bị thủng một lỗ, các mảnh gỗ văng tứ tung. Vị nghĩa huynh nọ cười cay đắng, nói:

– Ta tuy bị trọng thương, nhưng nếu muốn giết các nghĩa đệ thì vẫn dễ như trở bàn tay. Nhưng các người là huynh đệ tốt của ta, ta đâu nỡ làm thế!

Cả ba người cùng lùi về phía mũi thuyền, đứng kề sát nhau đề phòng. Vị nghĩa huynh nọ than rằng:

– Chuyện xảy ra hôm nay, ngàn vạn lần không được tiết lộ. Nếu để con trai ta biết thì cả ba người không phải là đối thủ của nó đâu. Ta đương nhiên sẽ tự vẫn mà chết để tránh cho các người mang tội sát hại nghĩa huynh.

Dứt lời, vị nghĩa huynh rút đơn đao ra cứa vào cổ một nhát rồi ngã gục xuống. Người giả dạng phu xe trong lòng cảm thấy bất nhẫn, nhào tới đỡ, vừa kêu lên: “Ðại ca!”. Vị nghĩa huynh nọ thều thào:

– Các hảo huynh đệ, ca ca phải đi đây. Thanh quân đao của Nguyên soái gia có quan hệ lớn lắm, nguyên soái …gia ở hẻm núi Thạch Môn…

Chưa nói hết lời, cổ họng đã tràn đầy máu, nghĩa huynh nọ gục chết trên thuyền.

Ba người nhìn xác vị nghĩa huynh vừa đau khổ, vừa mừng rỡ vì thấy thanh đao mà nghĩa huynh dùng để tự vẫn có khắc mười bốn chữ, họ nhận ra đó là thanh quân đao của đại anh hùng vẫn dùng năm xưa.

Mọi người nghe đến đây, đều dồn ánh mắt nhìn vào thanh đoản đao trong tay Bảo Thụ. Lưu Nguyên Hạc bỗng lắc đầu, nói:

– Ta không tin!

Ðào Bách Tuế tức giận gắt lên:

– Người thì biết cái gì?

Nguyên Hạc vặn lại:

– Lý Tự Thành giết người như ngóe, máu đổ ngàn dặm, sao lại có thể khắc mười mấy chữ đó để làm quân lệnh được?

Mọi người đều ngớ người, không biết trả lời sao.

Bỗng Vu quản gia nói xen vào:

– Bảo Sấm Vương giết người như ngóe, có ai chứng kiến không?

Lưu Nguyên Hạc đáp:

– Ai cũng đều nói thế cả, chẳng lẽ lại sai hết ư?

Vu quản gia nói:

– Các vị làm quan triều đình đương nhiên là nói Sấm Vương giết người bừa bãi. Nhưng thực ra, Sấm Vương chỉ giết bọn quan lại tham ô, bọn thổ hào ác bá mà thôi. Bọn ấy vốn không đáng gọi là người. Mệnh lệnh “Giết một người như giết cha mình” là không cho phép bộ thuộc giết càn người tốt, vậy là quá đúng rồi.

Lưu Nguyên Hạc định nói thêm, nhưng nhìn khí thế anh hùng của Vu quản gia thì ngừng lại ngay. Hùng Nguyên Hiến có ý làm dịu tình hình, bèn nói:

– Miêu cô nương! Về sau câu chuyện thế nào? Xin cô nương kể tiếp.

Miêu Nhược Lan nói:

– Người giả dạng phu xe nói: “Huynh trưởng nói Nguyên soái gia ở chỗ hẻm núi Thạch Môn, nghĩa là sao?”. Người giả dạng đại phu nói: “Chẳng lẽ huynh trưởng có ý muốn nói Nguyên soái gia chôn ở Thạch Môn ư?”. Người giả dạng ăn mày lắc đầu: “Tên này gian trá thật. Sắp chết mà vẫn còn lừa gạt người khác”. Thì ra sau khi đại anh hùng chết, tên hán gian Ngô Tam Quế mang di thể của đại anh hùng về Bắc Kinh để lĩnh thưởng. Hoàng đế cho bêu đầu đại anh hùng ở cổng thành để thị uy với dân chúng. Ba vệ sĩ đã mạo hiểm trộm thủ cấp mang về chôn ở một nơi cheo leo hiểm hóc không có dấu chân người. Bởi vậy, khi vị nghĩa huynh kia nói đại anh hùng ở khe núi Thạch Môn, đương nhiên cả ba người đều không tin.

Sau khi giết nghĩa huynh, ba người đi hành thích tên Hán gian, nhưng vì hắn phòng bị cẩn mật nên nhiều lần hành thích đều không thành. Rồi câu chuyện họ vì đại nghĩa mà giết nghĩa huynh lan truyền trong giang hồ. Các anh hùng hảo hán trong võ lâm nghe chuyện đều giơ ngón tay cái lên tán thưởng: “Giết là phải!”. Tin tức ấy dần dần đồn đại tới quê nhà của vị nghĩa huynh. Con trai vị nghĩa huynh vô cùng đau buồn, bèn tìm đến Côn Minh để báo thù cho cha.

Ðào Bách Tuế tiếp lời nói luôn:

– Người con ấy không đúng rồi. Tuy mối thù giết cha là bất cộng đái thiên, nhưng cha mình đã làm điều gian ác, ai cũng có quyền trừ khử. Không nên báo thù mới phải.

Miêu Nhược Lan nói:

– Hồi trước gia phụ cũng bảo thế. Nhưng ý nghĩ của người con thì không như vậy. Người con tìm đến Côn Minh, ít lâu sau tìm thấy ba người kia trong một cái miếu hoang, bèn động thủ. Võ công của người con được chân truyền của cha, quả nhiên cả ba người đều không đáng là đối thủ. Đấu chưa đầy nửa canh giờ, họ đều lần lượt bị hạ. Người con của vị nghĩa huynh nói:

– Ba vị thúc thúc! Gia phụ đã nhẫn nhục, cam chịu mang tiếng là kẻ bán chúa cầu vinh, ba vị sao hiểu được ý nghĩa sâu xa trong đó? Vì tình kết nghĩa với gia phụ năm xưa, hôm nay tiểu điệt tha mạng cho ba vị! Hãy mau về nhà mà lo liệu hậu sự. Ngày rằm tháng ba sang năm là ngày giỗ gia phụ, tiểu diệt sẽ đến nhà bái phỏng ba vị.

Nói đoạn, y đoạt lấy thanh quân đao của vị đại anh hùng rồi ngang nhiên bỏ đi.

Lúc ấy là khoảng giữa đông trời giá rét căm căm, ba người lập tức đi ngược về bắc, tụ tập gia quyến cả ba nhà ở một nơi và kể tường tận chuyện đổ máu trên thuyền cho mọi ngươì nghe. Mọi người đều bảo:

– Hắn đã sát hại đại anh hùng, bảo vệ cho tên Hán gian, làm đại quan dưới trướng lũ dị tộc thì liệu còn có thâm ý gì nữa? Con trai hắn xảo trá nói cứng thế thôi, ai mà tin được.

Bạn hữu giang hồ nghe tin, đều kéo đến rất đông, vì nghĩa mà tương trợ.

Quả nhiên, vào tối ngày rằm tháng ba năm sau, người con trai đó đơn độc đến thật.

Mọi người chăm chăm nhìn Miêu Nhược Lan, chờ nàng kể tiếp, thì thấy tiểu nha hoàn Cẩm Nhi bước tới, tay bưng một lò than bằng đồng bạch được ủ trong cái giỏ bằng gấm, đặt vào lòng chủ nhân.

Miêu Nhược Lan nhỏ nhẹ nói:

– Hãy châm hương đi!

Cầm Nhi vâng dạ, lát sau lại bưng ra một lư hương bằng bạch ngọc, đặt bên cạnh chủ nhân. Một làn khói xanh nhè nhẹ toả ra từ mỏ chim phượng hoàng chạm trổ trên nắp lư hương. Mọi người ngửi thấy một mùi thơm dìu dịu, từa tựa mùi hương của hoa lan, lại thoảng như mùi xạ hương, thật dễ chịu khoan khoái vô cùng.

Miêu Nhược Lan nói:

– Lúc nào ta ở một mình trong phòng thì mới châm thứ hương này chứ. Ở đây có đông người, sao lại châm loại này?

Cầm Nhi cười, thưa lại:

– Tỳ nữ thật hồ đồ quá.

Rồi bưng lư hương vào đổi thứ hương khác.

Miêu Nhược Lan lại bảo:

– Chỗ này gió Bắc thổi tới, tuy phía Bắc gian nhà không trổ cửa sổ, nhưng gió trên đỉnh núi rất mạnh, thế nào cũng lọt vào. Ngươi nhìn xem lư hương đã đặt đúng chỗ chưa nào?

Cầm Nhi lại cười, bưng cả cái kỉ nhỏ cùng với lư hương đặt vào góc phía tây bắc gian nhà, pha cho tiểu thư một chén trà nóng rồi mới lui ra.

Mọi người đều nghĩ:

– Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng là một đại hiệp lừng danh cái thế mà lại cưng chiều con gái đến mức này ư?

Miêu Nhược Lan chậm rãi bưng chén trà lên, mở nắp, ngắm nhìn những lá chè và cánh hoa hồng trong chén trà, nhấp một ngụm nhỏ rồi từ từ đặt xuống. Mọi người đang muốn nghe nàng kể chuyện tiếp, nhưng chẳng ngờ nàng lại nói:

– Tiểu nữ hơi bị nhức đầu, muốn vào trong nghỉ ngơi một lát. Mong các vị bá bá, thúc thúc hãy thư thả ngồi.

Nói rồi nàng đứng lên đi vào nhà trong.

Mọi người ngớ ra nhìn nhau. Tào Vân Kỳ là người đầu tiên không nhịn nổi, định phát tác thì Ðiền Thanh Văn đưa mắt ra hiệu. Tào Vân Kỳ toan nói câu gì đó nhưng đành kìm lại. Miêu Nhược Lan vào trong không bao lâu, lại ra ngay. Chỉ thấy nàng thay chiếc áo da màu lục nhạt, một váy gấp nhiều nếp vàng sáng, và đã rửa sạch lớp phấn xoa trên mặt lúc mới lên núi, trông càng thêm trang nhã hồn nhiên. Thì ra nàng chẳng nhức đầu gì cả, mà chỉ vào để thay y phục và rửa mặt thôi. Cầm Nhi đi theo sau, tay cầm một đệm bằng da chồn màu ánh bạc đặt lên ghế.

Miêu Nhược Lan nhẹ nhàng ngồi xuống, lúc này mới hé môi hồng, thấp thoáng hàm răng ngà, chậm rãi nói tiếp:

– Tối hôm đó, nhà người giả dạng đại phu đang mở tiệc lớn, mời hơn một trăm anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến dự, cùng đợi người con của vị nghĩa huynh kết nghĩa năm xưa đến. Ðợi đến giữa canh một, chỉ nghe “xịch” một tiếng, tiệc trong nhà bỗng có thêm một người. Trong đại sảnh có biết bao cao thủ, thế mà không một ai nhìn rõ người ấy vào như thế nào. Chỉ thấy người ấy khoảng trên dưới hai mươi tuổi, thân mặc áo vải gai thô, đội mũ trắng, tay cầm một cái gậy đưa tang, lưng cài chéo một thanh đao. Y không để mắt đến ai, chỉ chăm chú nhìn đại phu, người ăn mày, người phu xe và nói:

– Ba vị thúc thúc, xin tìm một chỗ vắng vẻ để chúng ta nói chuyện!

Ba người nọ chưa trả lời, thì một vị thuộc tiền bối phái Nga Mi đã la lên:

– Nam tử hán đại trượng phu có gì cần thì cứ nói luôn, hà tất phải thậm thà thậm thụt như thế? Cha mi đã bán chúa cầu vinh, ta thấy chắc mi cũng chẳng tử tế gì, hẳn là định giở trò gì đây. Ba vị đại ca chớ có mắc lừa tên tiểu tặc này.

Bỗng tiếng “Bốp bốp…” sáu tiếng liên tiếp, mặt vị tiền bối nọ đã bị tát liền sáu cái nổ đom đóm, ụa một cái miệng hộc máu tươi, có tới chục cái răng rơi xuống đất.

Đám quần hào trong tiệc đều đứng phắt dậy, sửng sốt một hồi, hơn một trăm người trong đại sảnh đều im phăng phắc, thầm nghĩ: “Thân pháp gã sao mà thần tốc quá vậy?”.

Vị tiền bối phái Nga Mi bị đánh đòn nặng, sợ quá không thốt được nửa lời. Trước lúc người con trai kia tát lão, không một ai thấy rõ, khi y trở về chỗ ngồi cũng nhanh như điện. Chỉ một chớp mắt vừa đi vừa về mà dường như y không hề di chuyển. Ba vị công công nọ đã trải qua mấy chục năm ăn ở cùng một nơi với phụ thân của y, biết ngay đó là tuyệt kỹ khinh công gia truyền gọi là “Phi Thiên Thần Hành”. Có điều sóng sau đè sóng trước, nên dường như con còn siêu phàm hơn cả cha.

Chàng trẻ tuổi nói:

– Ba vị thúc thúc! Nếu như tiểu diệt muốn sát hại ba vị thì hôm ở Côn Minh trong ngôi cổ miếu sao lại không ra tay ngay? Bây giờ tiểu diệt có mấy lời quan trọng muốn nói, không tiện để cho người ngoài nghe.

Ba người nghĩ thấy có lý. Người giả dạng đại phu bèn dẫn y vào một gian phòng nhỏ ở nhà trong. Hơn trăm anh hùng hảo hán trong đại sảnh đều ngừng bữa rượu, nhìn nhau, và lắng tai nghe ngóng động tĩnh ở nhà trong.

Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, cả bốn người cùng ra. Vị giả dạng đại phu vái chào quần hào khắp lượt, nói:

– Xin đa tạ các vị đã quang lâm, như vậy đủ thấy nghĩa khí giang hồ.

Mọi người chưa kịp đáp lễ, đã thấy y hoành đao cứa cổ tự vẫn. Quần hùng ai nấy đều sửng sốt, đang muốn chạy tới cứu thì thấy tiếp đó hai vị đóng giả ăn mày và phu xe kia cũng vung đao lần lượt tự vẫn. Sự việc diễn ra quá đột ngột, tuy trong đám khách khứa có rất nhiều cao thủ nhưng không ai kịp ra tay ngăn cản.

Người con trai của vị nghĩa huynh nọ quỳ lạy ba thi thể mấy lạy, nhặt thanh đoản đao mà ba người dùng để tự vẫn rồi nhảy vọt lên nóc nhà. Mọi người hét lớn: “Gian tặc chớ chạy trốn!” rồi ùn ùn nhảy lên đuổi theo. Nhưng y đã không còn tung tích.

Các con của ba người ôm lấy xác cha kêu khóc ầm ĩ. Các hào kiệt thăm hỏi nô bộc gia thuộc của ba nhà nhưng không một ai biết bốn người họ đã nói những gì trong gian phòng kín. Lại càng không hiểu người con trai kia đã dùng gian kế gì để đến nỗi cả ba người đều phải tự sát. Quần hùng nhìn thi thể ba người nằm vật trên đất đều căm giận, thề sẽ báo thù cho ba người.

Có điều từ đó chẳng còn vết tích gì của người con trai nọ, không biết y đã ẩn náu ở nơi nào. Các con của ba vị đều được quần hào nuôi dạy khôn lớn, vì họ đều xót xa thương cảm cho cha họ đã vì chủ mà báo thù, để đến nỗi rơi vào thảm cảnh đau lòng, nên ai cũng tận tình dạy dỗ.

Con cái của ba vị này vốn đã được học võ công gia truyền do người cha truyền dạy, đều có sẵn căn cơ, lại được các minh sư chỉ điểm nên sau này đều đúc kết được những cái hay của các môn phái rồi tự lập nên phái nổi tiếng riêng.

Kể đến đây, Miêu Nhược Lan nhè nhẹ thở dài than rằng:

– Võ công của họ càng cao bao nhiêu thì ý chí báo thù càng mãnh liệt bấy nhiêu. Luyện võ công rốt cuộc là phúc hay họa, quả thực tiểu nữ cũng không biết nữa.

Bảo Thụ thấy Miêu Nhược Lan đăm đăm nhìn ngọn lửa, còn mọi người thì sốt ruột muốn nghe nốt đoạn sau, bèn nói:

– Câu chuyện do Miêu cô nương kể thật là cảm động. Tuy cô nương không nói rõ họ tên, nhưng các vị cũng đều biết người nghĩa huynh trong câu chuyện là vệ sĩ số một của Sấm Vương, họ Hồ, tức là Phi Thiên Hồ Ly. Còn vị giả dạng phu xe là họ Miêu; vị giả dạng ăn mày là họ Phạm; vị giả dạng đại phu là họ Ðiền. Hậu nhân của ba nhà sau khi học được tuyệt kỹ, mỗi nhà dựng riêng một ngọn cờ. Võ công nhà họ Miêu, gọi là Miêu gia kiếm; họ Phạm sau trở thành đầu lĩnh của Hưng Hán Cái Bang; nhà họ Ðiền sau này lập ra Thiên Long môn.

Bọn Nguyễn Sĩ Trung và Ân Cát tuy là bậc tiền bối của Thiên Long môn, nhưng mãi tới lúc này mới biết rõ về lai lịch của bản môn, hai người bất giác cảm thấy xấu hổ .

Bảo Thụ nói tiếp:

– Lớp con cháu nỗi dõi của ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền hai mươi năm sau đã tìm được con trai của vị nghĩa huynh họ Hồ kia. Lúc ấy, chàng đang ốm nặng, bị bộ ba này bức ép đến phải tự sát. Từ đó, lớp con cháu của bốn nhà này cứ truyền đời báo thù. Hơn trăm năm nay, không một hậu duệ nào của bốn họ này được sống đến già cả. Lão nạp cũng đã từng chứng kiến một trận ác đấu khủng khiếp của đám hậu thế bốn nhà đó.

Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn Bảo Thụ, nói:

– Đại sư, tiểu nữ đã được biết chuyện đó. Đại sư đừng kể làm gì.

Bảo Thụ nói:

– Nhưng các vị ngồi đây thì chưa biết. Cô nương hãy kể cho bọn họ nghe đi.

Miêu Nhược Lan lắc đầu, nói:

– Năm ấy gia phụ kể chuyện về bốn vị công công xong, lại kể tiếp một câu chuyện nữa. Gia phụ bảo rằng vì câu chuyện đó mà lão nhân gia buộc phải giết một người, nên cần phải đem kiếm ra mài cho sắc. Có điều là câu chuyện này bi thảm quá. Hễ cứ nghĩ đến là tiểu nữ cảm thấy khó chịu. Tiểu nữ vẫn mong giá mà gia phụ đừng kể cho mình nghe thì hơn.

Nàng trầm ngâm một lát, rồi nói tiếp:

– Chuyện ấy xảy từ mười năm trước khi tiểu nữ ra đời. Không rõ đứa trẻ đáng thương ấy bây giờ ra sao, tiểu nữ thực lòng mong nó được sống yên ổn…

Mọi người nhìn nhau, đều không hiểu “đứa bé đáng thương” đó là ai, có liên quan tới câu chuyện vừa kể?

Mọi người đều ngóng nhìn Miêu Nhược Lan, rồi lại nhìn Bảo Thụ, chờ xem ai trong hai người sẽ giải tỏa cho họ nỗi thắc mắc.

Bỗng một người đầy tớ đứng hầu nói:

– Tiểu thư có lòng tốt như thế, hẳn sẽ được báo đáp. Mong rằng đứa trẻ đáng thương vẫn sống bình an.

Giọng nói của người ấy nghẹn ngào. Mọi người đều ngoái đầu nhìn, thấy người ấy tóc bạc lòa xòa, tuổi đã cao, mất một cánh tay phải, dùng tay trái bưng khay trà, có một vết sẹo to do bị đao chém chạy từ lông mày bên phải qua mũi xuống tới mép miệng trái. Mọi người nghĩ thầm:

– Người này đã từng bị thương nặng thế mà vẫn sống được, thực không dễ gì.

Miêu Nhược Lan than, nói:

– Sau khi nghe gia phụ kể câu chuyện ấy, tiểu nữ vẫn thường thầm cầu xin ông Trời phù hộ đứa trẻ ấy được trưởng thành bình an. Nhưng tiểu nữ mong người ấy đừng học võ giống như tiểu nữ bây giờ, một chút võ nghệ cũng không biết mới tốt.

Mọi người đều ngớ người ra, lấy làm lạ, tự hỏi:

– Nhìn nàng dáng vẻ cao nhã thanh tú như thế, còn tự nói ra là không biết võ nghệ gì chắc là đúng rồi. Nhưng nàng là ái nữ của Kim Diện Phật Miêu đại hiệp đánh khắp thiên hạ không địch thủ kia mà, lẽ nào phụ thân nàng lại không truyền cho một vài tuyệt kỹ?

Nhìn vẻ mặt mọi người, Miêu Nhược Lan hiểu được họ đang nghĩ gì, bèn nói:

– Gia phụ bảo rằng, hơn một trăm năm nay, con cháu bốn họ Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền oan oan tương báo, không có đời nào được sống yên ổn đến gìa cả. Bất cứ ai dù có võ công cao cường đến đâu đi nữa, suốt đời nếu không phải mãi bận rộn đi giết người để báo thù thì cũng phải luôn đề phòng đối phương đến báo thù. Trong một năm khó có được vài tháng ăn no ngủ yên. Cho dù có sống được bảy tám mươi tuổi đi nữa cũng có ngày bị đối phương đến chém chết để báo thù. Thế đó, luyện võ công không những không thể phòng thân mà trái lại, còn rước thêm họa. Cho nên gia phụ lập ra một điều gia huấn là, kể từ gia phụ trở về sau, con cháu nhà họ Miêu không được học võ công nữa. Gia phụ cũng nhất quyết không thu nhận một đồ đệ nào. Gia phụ còn nói rằng nếu như lão nhân gia bị kẻ thù giết hại, con cháu nhà họ Miêu không biết võ nghệ gì, đương nhiên sẽ không có cách gì báo thù cho ông. Thế là những khoản nợ máu chồng chất ngày một cao, các mối oan nghiệt chồng chéo ngày càng rối răm của hơn trăm năm nay cũng theo đó mà được tiêu tan xoá sạch.

Bảo Thụ chắp hai tay, nói:

– Thiện tai! Thiện tai! Miêu đại hiệp có thể giác ngộ thấu triệt đến như vậy, cam lòng để cho Miêu gia kiếm pháp cái thế vô song tuyệt đến đời y không còn người kế thừa nữa. Việc này tuy là một tổn thất lớn lao của võ lâm, nhưng cũng là một việc thiện to tát.

Miêu Nhược Lan thấy ánh mắt của người đầy tớ mặt sẹo phát ra tia sáng khác thường thì cảm thấy hơi lạ lùng, nàng nói với Bảo Thụ:

– Tiểu nữ xin phép vào trong nghỉ một lát. Xin lỗi đại sư và các vị bá bá, thúc thúc.

Nói rồi nàng vái chào, lui vào nhà trong.

Bảo Thụ nói:

– Miêu cô nương có tấm lòng nhân ái, không muốn ngồi nghe câu chuyện bất nhẫn này, nên có ý lánh mặt. Lão nạp sẽ kể chuyện này để hầu các vị.

Hôm nay, từ sáng sớm tới lúc này chỉ mới là vài canh giờ, chưa quá giờ Ngọ, nhưng mọi người đã trải qua bao sự việc li kỳ, trong lòng còn biết bao điều thắc mắc, ai nấy đều nóng lòng muốn rõ chân tướng câu chuyện.

Thế là Bảo Thụ kể:

– Từ sau khi bốn đại vệ sĩ của Sấm Vương tàn sát lẫn nhau thì con cháu bốn nhà không ngừng xung đột suốt hơn một trăm năm. Có điều là vì nhà họ Hồ bán chúa cầu vinh nên bị các đồng đạo võ lâm ruồng bỏ; cho nên mỗi lần giao chiến nhà họ Hồ đều bị cô lập, phần nhiều ở thế hạ phong. Tuy nhiên, võ công gia truyền của nhà họ Hồ vẫn tỏ ra vô cùng lợi hại. Cứ cách chừng ba bốn chục năm, Hồ gia thế nào cũng xuất hiện một vài hậu nhân kiệt xuất để báo thù cho tổ tiên. Bất luận là thắng hay thua, các cuộc đọ sức đều là cảnh gió tanh mưa máu rất hãi hùng.

Còn ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền tuy người đông lực mạnh, lại được đồng đạo võ lâm trợ giúp, nhưng vẫn không sao phòng bị được, vì con cháu họ Hồ thường bí mật tập kích bất ngờ. Đến năm đầu đời vua Ung Chính, ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền lại vì tranh giành quyền giữ thanh quân đao của Sấm Vương mà xảy ra tranh chấp. Chuyện này vừa khéo vào lúc nhà họ Hồ xuất hiện hai huynh đệ có võ công cực cao cường. Chỉ trong chớp mắt, họ đã hạ mười mấy cao thủ của cả ba nhà. Ba nhà hoảng lên, cử nhà họ Ðiền ra mặt mời các cao thủ giang hồ cùng hợp sức mới giết được hai huynh đệ họ Hồ nọ. Năm ấy, các anh hùng hào kiệt khắp đại giang Nam Bắc tụ hội về Lạc Dương, lập lời thề kết thành liên minh. Từ đó, thanh quân đao của Sấm Vương do họ Ðiền phái Thiên Long môn nắm giữ, nếu còn xảy ra chuyện hậu nhân của nhà họ Hồ đến tầm thù thì họ Ðiền phái Thiên Long môn sẽ dùng thanh quân đao này hiệu triệu các hảo hán giang hồ cùng chung sức đối phó. Anh hùng thiên hạ chỉ cần thấy thanh quân đao thì dẫu đang bận việc lớn thế nào cũng phải gác lại, để đáp ứng lời hiệu triệu khuông phò chính nghĩa.

Việc này xảy ra đã lâu, người đời sau cũng đã dần quên lãng. Chỉ riêng chưởng môn Thiên Long môn vẫn rất xem trọng thanh bảo đao này. Nghe nói về sau Thiên Long môn chia làm hai phái Nam tông và Bắc tông, mỗi phái sẽ lần lượt thay nhau giữ thanh bảo đao mười năm. Nguyễn sư huynh, Ân sư huynh, lão nạp kể có đúng không?

Cả hai đồng thanh đáp:

– Ðại sư kể không sai!

Bảo Thụ cười:

– Chuyện xảy ra đã nhiều năm. Môn đệ của Thiên Long môn tuy đều biết thanh đao này là bảo vật trấn môn của bản phái, nhưng lai lịch của nó thế nào thì rất hiếm ai tìm hiểu. Chuyện đã quá xưa rồi, kể ra cũng khó trách. Có điều lão nạp có chỗ chưa rõ, muốn thỉnh giáo Tào sư huynh.

Tào Vân Kỳ nói lớn:

– Chuyện gì vậy?

– Lão nạp nghe người ta nói mỗi khi chưởng môn cũ bàn giao chức cho chưởng môn mới đều nói rõ lai lịch của thanh đao này cho người kế tục biết. Vậy sao Tào sư huynh được vinh hạnh làm chưởng môn rồi mà vẫn không biết? Chẳng lẽ lão chưởng môn Ðiền Quy Nông đã quên mất môn quy này ư?

Tào Vân Kỳ mặt đỏ bừng, định nói điều gì đó, nhưng Ðiền Thanh Văn đã đỡ lời, nói:

– Môn phái tiểu nữ thật là bất hạnh, tiên phụ qua đời đột ngột nên không kịp nói tường tận cho Tào sư huynh biết.

Bảo Thụ nói:

– Thế là rõ rồi. Ôi! Thế là lão nạp đã hai lần được nhìn thấy thanh bảo đao này. Lần đầu thấy tính ra đã hai bảy năm rồi còn gì!

Ðiền Thanh Văn nhẩm tính: “Miêu cô nương chừng mười bảy mười tám tuổi. Nàng nói câu chuyện bi thảm xảy ra trước khi nàng ra đời mười năm, thế thì đúng là hai mươi bảy năm về trước. Vậy việc hòa thượng này nhìn thấy thanh đao lần đầu xem ra có liên quan tới câu chuyện mà Miêu cô nương nói”.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.