Tuyết Sơn Phi Hồ

Hồi 04

trước
tiếp

Mọi người lại nghe Bảo Thụ kể tiếp:

– Lúc bấy giờ, lão nạp vẫn chưa xuất gia, đang làm thầy lang mưu sống ở một tiểu trấn miền quê huyện Trực Lệ, Thương Châu. Dân Thương Châu vốn ham chuộng võ nghệ, phần lớn các con em họ lúc nhỏ đều học qua vài đường quyền cước. Bấy giờ, lão nạp làm thầy lang chuyên về trật trả ngoại thương, cũng từng học qua chút võ nghệ. Cái tiểu trấn ấy là một nơi đèo heo hút gió, chỉ có chừng năm sáu trăm cư dân. Lão nạp dựa vào nghề thuốc gắng gượng sống qua ngày, thân mình còn không lo nổi nói gì đến việc lấy vợ sinh con.

Tháng chạp năm ấy, ngày nọ lão nạp vừa húp xong ba bát cháo nguội rồi đi ngủ. Ðang lúc nằm mơ thấy mình phát tài, con mẹ nó, sắp lấy một cô vợ đẹp như tiên thì mẹ kiếp, bỗng nghe tiếng đập cửa ầm ầm.

Bên ngoài, gió bấc đang thổi mạnh, giường lò của lão nạp đã tắt lửa từ lâu, vớ chân thì mỏng tanh, thật tình không muốn dậy tí nào. Giấc mơ đẹp đẽ đó bị người kia đánh thức, lại càng thêm cụt hứng. Nhưng tiếng đập cửa mỗi lúc một dữ dội hơn, có tiếng người gọi to: “Đại phu, đại phu”.

Người này nói giọng Quan Tây, không phải người địa phương. Xem chừng nếu không mở cửa thì người ấy cũng phá cửa mà vào! Lão nạp không biết đã xảy ra chuyện gì, vội khoác áo vùng dậy. Vừa nhấc then cửa thì ầm một tiếng, người ấy cũng gắng sức đẩy cửa vào. Nếu không nhanh nép sang một bên, chắc trán của lão nạp đã bị cánh cửa đập cho sưng vù. Ánh lửa bập bùng, một hán tử tay cầm bó đuốc xộc vào, la lớn:” Đại phu, xin đại phu đi mau”.

Lão nạp hỏi lại: “Có việc gì vậy? Lão huynh là ai?”. Người kia đáp: “Có người ốm nặng, nguy kịch lắm!”. Hắn không trả lời câu hỏi thứ hai của lão nạp, vung tay trái ra, “kịch” một tiếng, ném lên bàn một đĩnh bạc lớn. Ðĩnh bạc ấy nặng tới hai mươi lạng là ít! Lão nạp chữa bệnh nơi thôn quê, nhiều lắm cũng chỉ chừng vài chục hay vài trăm tiền là cùng, đã bao giờ được trả đĩnh bạc ròng hai chục lạng như thế này bao giờ đâu! Trong bụng vừa kinh ngạc, vừa mừng vội nhận ngay đĩnh bạc, mặc quần áo xỏ giầy. Hán tử nọ giục luôn miệng. Vừa mặc áo quần, lão nạp vừa quan sát tướng mạo của hắn, thấy nét mặt rắn rỏi, có vẻ con nhà giàu có, có điều mặt đượm vẻ buồn rầu.

Người ấy không đợi lão nạp cài xong nút áo, một tay xách hòm thuốc giúp lão nạp, một tay lôi lão nạp đi luôn. Lão nạp nói: “Chờ tại hạ khoá cửa đã”. Y bảo ngay: “Sợ mất trộm à? Ta đền hết cho!”. Nói rồi kéo lão nạp đi gấp đến khách điếm Bình An. Ðó là khách điếm duy nhất ở tiểu trấn này, chuyên cho những người đánh xe, phu kéo xe trên đường xuôi ngược Bắc Kinh ngủ trọ. Khách điếm tuy không phải là nhỏ, nhưng các phòng tối và bẩn lắm. Lão nạp nghĩ thầm, người này có vẻ khá giả sao lại vào nơi này nghỉ trọ? Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm thì y đã lôi lão nạp vào khách điếm. Ở đây thắp nến sáng trưng, có năm hán tử đang ngồi chờ. Y nói: “Đại phu đến rồi đây!”. Mọi người mừng rỡ ra mặt, đưa lão nạp vào gian chái phía đông.

Vừa bước vào, lão nạp giật thót người, thấy trên giường lò nằm sõng soài bốn người, khắp mình bê bết máu. Lão nạp bảo hán tử nọ cắm nến lại soi cho rõ, thấy cả bốn người đều bị thương nặng. Có người bị chém vào mặt, có người bị chặt đứt tay. Lão nạp hỏi:

– Sao đến nỗi bị thương nặng như thế này? Có phải bị bọn giặc cướp tấn công không?

Hán tử nọ nhiêm giọng:

– Đại phu mau trị thương đi, chúng ta sẽ hậu tạ. Nhưng không được hỏi han lôi thôi!

Lão nạp thầm nghĩ: “Cái tên này gớm nhỉ! Làm gì mà dữ thế?”. Nhưng thấy bọn họ ai cũng dữ dằn, người lại giắt binh khí, lão nạp không dám hỏi han gì nữa, chỉ đắp thuốc cầm máu, trị thương băng bó cho bốn người họ một cách chu đáo.

Hán tử nọ nói “Còn ở bên này nữa”, rồi dẫn lão nạp đi sang chái nhà phía tây, trên chiếc giường lò cũng có ba người bị thương nằm. Các vết thương đều là mới bị chém cả, lão nạp lại đắp thuốc cầm máu, còn cho họ uống thang thuốc để an thần và giảm đau. Cả bảy người bị thương đều lần lượt ngủ thiếp đi.

Mấy hán tử thấy lão nạp chữa trị có hiệu quả, bấy giờ mới đối xử với lão nạp có phần lễ phép hơn, không hung hãn như lúc đầu. Bọn họ bảo tiểu nhị của khách điếm lấy tấm ván cửa kê thành giường cho lão nạp nằm ở chái phía đông, phòng khi các vết thương có biến chứng gì, thì kịp thời điều trị.

Ngủ đến lúc gà gáy sáng, nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa chạy đến trước khách điếm. Mấy hán tử cùng vùng dậy chạy ra đón. Lão nạp cứ vờ ngủ, hé mắt nhìn trộm, thấy có hai người vào. Một người ăn mặc như kẻ ăn mày, đôi mắt sáng quắc có thần; còn người kia khuôn mặt thanh tú, còn trẻ. Hai người ấy lại gần giường lò thăm những người bị thương. Những người bị thương cố nhịn đau gượng ngồi dậy, tỏ ra rất cung kính với hai người này. Lão nạp nghe họ gọi người ăn mày là Phạm bang chủ, gọi người trẻ tuổi kia là Ðiền tướng công.

Bảo Thụ nói đến đây, ngừng lại một lát, rồi nói với Ðiền Thanh Văn:

– Khi lão nạp lần đầu trông thấy lệnh tôn, thì cô nương vẫn chưa chào đời đâu! Lệnh tôn là người rất tinh minh. Dáng vẻ quyết đoán, tháo vát của lệnh tôn sáng sớm hôm đó, cho tới nay vẫn hiện rõ mồn một trước mắt lão nạp.

Ðiền Thanh Văn đôi mắt đỏ hoe, hơi cúi đầu xuống. Bảo Thụ nói tiếp:

– Một trong những người không bị thương khẽ nói: “Phạm bang chủ, Ðiền tướng công! Trương gia huynh đệ từ quan ngoại đã bám sát đôi vợ chồng họ đi xuống miền nam, đã điều tra chính xác cái hộp sắt đúng là đang ở trong người họ”.

Mọi người nghe ba tiếng “cái hộp sắt” đều nhìn nhau, thầm nghĩ “Lão nói vào vấn đề chính rồi đây”.

Bảo Thụ tiếp tục kể:

– Phạm bang chủ gật đầu. Người kia nói thêm: “Bọn tại hạ đợi ở đồn Ðường Quan để tiếp ứng, cử người về đưa tin cho hai vị và Kim Diện Phật Miêu đại hiệp. Không ngờ bị họ phát hiện. Một mình hắn đứng chặn đường, nói: “Ta và các ngươi chưa hề quen biết, sao cứ bám theo ta suốt dọc đường thế? Các ngươi do ba nhà Miêu, Phạm, Ðiền sai đi phải không?”. Trương đại ca đáp: “Ngươi biết thế là hay lắm!”. Hắn hơi sầm nét mặt, vung tay đoạt luôn đao của Trương đại ca, bẻ làm đôi ném xuống đất, rồi nói: “Ta không muốn giết nhiều người đâu, mau cút đi!”. Bọn tại hạ thấy hắn xuất thủ quá lợi hại, bèn xông cả vào. Trương đại ca tung cước luôn vào bụng đang mang thai của vợ hắn. Hắn nổi điên, la lớn: “Ta vốn định tha cho lũ bọn bay, mà lũ bọn bay vô lễ quá thể!”. Nói rồi vung tay đoạt luôn một thanh đao, chém bị thương một loạt bảy người bọn tại hạ.

Ðiền tướng công nói: “Hắn còn nói gì nữa không?”. Hán tử nọ trả lời: “Lẽ ra hắn còn định đâm chém nữa, nhưng vợ hắn ngồi trong xe kêu to: “Thôi đi! Chàng không tích đức cho đứa con sắp chào đời à ?”. Thế là hắn cười ha hả, vung hai tay một cái bẻ gãy thanh đao”.

Ðiền tướng công đưa mắt nhìn Phạm bang chủ, rồi hỏi tiếp: “Ngươi thấy rõ đấy chứ? Có đúng là hắn dùng tay bẻ gãy đao không?”. Hán tử nọ trả lời: “Vâng, lúc ấy tiểu nhân đứng ngay bên cạnh hắn, thấy rõ lắm”.

Ðiền tướng quân “ờ” một tiếng rồi ngẩng lên nghĩ ngợi. Phạm bang chủ nói: “Hiền đệ chớ lo. Miêu đại hiệp nhất định sẽ đối phó được với hắn”.

Hán tử kia lại nói thêm: “Hắn đi Giang Nam, nhất định phải đi qua đây. Hai vị chặn ở đây, hắn làm sao trốn thoát được?”. Lúc này vẻ mặt của hai người Phạm, Ðiền đều nghiêm trọng, khẽ bàn bạc một hồi, rồi từ từ đi ra.

Lão nạp đợi bọn họ đi rồi mới giả vờ tỉnh ngủ, trở dậy đắp thuốc thay băng cho mấy người bị thương, tự hỏi rằng không biết nhân vật bị theo dõi kia là ai? Người ấy rõ ràng đã hạ thủ nương tình, nên bảy người tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.

Tối hôm đó, mọi người đang ăn cơm ở gian chính của khách điếm thì một hán tử chạy vào nói to: “Ðến rồi”. Ai nấy mặt đều biến sắc, buông bát đũa, rút binh khí ra, chạy ào ra ngoài. Lão nạp lặng lẽ đi theo phía sau, trong bụng sợ lắm nhưng cũng muốn xem náo nhiệt cho biết.

Trên đường cái cát bụi bay mịt mù, một cỗ xe lớn đang phóng tới. Hai vị Phạm, Ðiền dẫn mọi người xông ra. Lão nạp đi sau cùng. Cỗ xe lớn phóng tới trước mặt mọi người thì dừng lại. Phạm bang chủ hô lớn: “Họ Hồ ra đây!”. Trong xe, có tiếng người nói vọng ra qua tấm rèm che: “Bọn ăn mày đến xin tiền phải không? Ðược! Cho mỗi tên một đồng!”. Rồi thấy ánh vàng lấp loáng liên tiếp, đám người kia la ơi ới rồi lần lượt té ngã.

Hai vị Phạm, Ðiền võ công cao cường nên không bị ngã, nhưng cổ tay vẫn bị trúng phi tiêu kim tiền nên đều tê bại cánh tay để rơi gậy và kiếm xuống đất. Ðiền tướng công vội kêu lên: “Phạm đại ca! Chạy thôi!”.

Thân thủ của Phạm bang chủ lanh lẹ, cúi mình nhặt cây gậy lên, rồi vụt chạy nhanh như gió đến bên những người bị ngã định giải huyệt đạo cho họ. Lão nạp lúc học trị thương trật đả, sư phụ đã dạy qua ba mươi sáu đại huyệt trên thân thể, nên khi Phạm bang chủ đưa tay giải huyệt, lão nạp cũng hiểu đôi chút. Nhưng không ngờ, Phạm bang chủ ấn đi ấn lại hồi lâu, mà những người bị ngã vẫn không cục cựa gì được!

Người ngồi trong xe cười nói vọng ra:

– Thôi được! Cho một đồng chưa đủ, vậy cho thêm đồng nữa này!

Thế là lại thêm mười mấy đồng tiền nữa nối tiếp nhau ném ra. Số người bị trúng huyệt lúc nãy bỗng cử động được chân tay, lục đục đứng lên.

Ðiền tướng công hoành kiếm che người, gọi to:

– Họ Hồ kia! Hôm nay bọn ta đành chịu lép. Nếu có gan thì chớ có trốn.

Người trong xe không đáp, nhưng nghe “vù” một tiếng, một đồng tiền nữa từ trong xe bắn mạnh ra, trúng vào mũi kiếm trong tay Ðiền tướng công, đánh “keng” một tiếng, thanh kiếm bật ra xa cắm phật xuống đất. Ðiền tướng công đưa bàn tay phải cầm kiếm lên nhìn, thấy máu tuôn ra ở hổ khẩu.

Thấy kẻ địch quá lợi hại như thế, Ðiền tướng công thất sắc, vẫy tay ra hiệu, cùng với Phạm bang chủ dẫn mọi người trở về khách điếm, rồi cõng bảy người bị thương kia cùng lên ngựa chạy xuôi về phía nam. Trước khi đi Ðiền tướng công còn cho lão nạp hai mươi lạng bạc. Lão nạp thấy y tử tế như vậy thì xác định đó là một bậc quân tử hào hiệp, và thầm nghĩ:

– Kẻ ngồi trên xe kia chắc chắn là một tên xấu xa vô cùng hung ác. Nếu không thì sao hắn lại kết oán với một người tốt như Ðiền tướng công?

Lão nạp đang tính về nhà thì thấy chiếc xe lúc nãy phóng tới dừng lại trước cửa khách điếm. Lão nạp tò mò, muốn nhìn thử xem tên xấu xa đó mặt mũi ra sao, nên nấp ngay vào sau quầy rượu của khách điếm nhìn ra cửa xe.

Rém xe vén lên, một hán tử bước xuống. Vẻ mặt hắn thật hung dữ, da mặt đen sì, râu quai nón xồm xoàm, tóc không tết đuôi sam mà bới thành một cục bù xù trên đầu.Trông thấy bộ dạng của hắn như vậy, lão nạp giật thót cả mình, thầm nghĩ: “Mẹ ơi! Ở đâu chui ra một con ác quỷ thế này?”. Lão nạp đang mong sao nhanh chóng rời khách điếm để về nhà. Nhưng mà kì lạ thay, hai mắt lão nạp như dán chặt vào hắn, không rời ra được. Lão nạp rủa thầm trong bụng: “Ðúng là gặp quỷ sứ giữa ban ngày! Chẳng lẽ hắn có yêu pháp?”.

Nghe hắn hỏi chủ quán:

– Xin làm phiền hỏi chưởng quỹ, vùng này có ai làm đại phu không?

Chưởng quỹ chỉ luôn vào lão nạp, nói:

– Người này chính là đại phu đấy!

Lão nạp cuống quýt xua hai tay, vội nói: “Không, không” … Hắn liền cười, nói: “Ðừng sợ! Ta không luộc chín ngươi để ăn đâu!”.

Lão nạp lắp bắp: “Tại hạ… tại hạ”…

Hắn sa sầm nét mặt, nói:

– Nếu có định ăn thịt ngươi thì ta ăn sống đấy!

Lão nạp nghe nói càng hoảng kinh, hắn bèn ha hả cười lớn. Bấy giờ lão nạp mới hiểu là hắn nói đùa. Lão nạp nghĩ bụng:

– Ngươi có đùa cũng phải tuỳ mặt chứ! Lão tử ta để cho ngươi tiêu khiển à?”

Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy thôi chứ lão nạp sao dám hé răng?

Người nọ lại nói:

– Chưởng quỹ! Cho ta hai phòng nhà trên sạch sẽ nhé! Nương tử ta sắp sinh, hãy mau đi tìm bà đỡ hộ ta!

Hắn cau mày, rồi nói tiếp:

– Trên đường làm kinh động thai, e là khó sinh. Đại phu, xin ông chớ có đi đâu!

Chưởng quỹ nghe nói hắn muốn vợ sinh ở khách điếm, đương nhiên là không muốn vì sợ làm ô uế nhà, nhưng nhìn bộ dạng hung tợn của hắn, đành im như thóc không dám cự nự gì. Có điều là Lưu bà bà vẫn làm bà đỡ ở thị trấn này vừa chết cách đây vài hôm, nên chủ quán đành phải nói thực cho hắn biết. Nét mặt của hắn trông càng đáng sợ hơn, liền lôi ra một đĩnh bạc lớn đặt mạnh lên bàn, nói:

– Phiền chưởng quỹ hãy mau đi tìm bà đỡ khác giúp ta, càng nhanh càng tốt!

Lão nạp nghĩ bụng:

– Sao bọn người này hễ xỉa tiền ra là cứ hai mươi lạng kìa?

Người khách có bộ dạng như ác quỷ ấy chờ chưởng quỹ dọn phòng xong xuôi thì ra xe đỡ một nữ nhân bước xuống. Nữ nhân này được trùm kín trong tấm áo da cừu, chỉ để lộ khuôn mặt. Nếu so sánh một nam một nữ này thì có thể ví Ðiêu Thuyền mà gả cho Trương Phi vậy! Lão nạp thấy nữ nhân ấy quá đẹp, không khỏi giật mình, trong bụng mắng thầm, tự nhủ:

– Ðây rõ ràng là một tiểu thư lá ngọc cành vàng, sao đến nỗi bị ép lấy cái gã quỷ sứ này nhỉ? Thôi đúng rồi! Chắc là hắn cướp đem về làm áp trại phu nhân”.

Không hiểu sao, lão nạp nảy ra trong đầu một ý nghĩ lạ lùng:

– Vị phu nhân này với Ðiền tướng quân mới đẹp đôi! Chưa biết chừng hắn cướp vợ của Ðiền tướng quân, vì thế hai người mới nảy sinh ra oán thù.

Không quá giữa trưa, vị phu nhân nọ vã mồ hôi trán, rên rỉ kêu đau. Gã quỷ sứ nọ cuống cả lên, toan đích thân đi tìm bà đỡ. Vị phu nhân nọ lại nắm tay hắn kéo lại, không cho đi. Chừng sang giờ mùi thì đứa trẻ muốn ra đời, thực không thể chờ bà đỡ được nữa. Tên quỷ sứ bảo lão nạp đỡ đẻ, đương nhiên là lão nạp không chịu. Các vị nghĩ xem, lão nạp đường đường một nam tử hán, lại đi đỡ đẻ cho vợ người ta thì sao ổn? Ðấy là chuyện xúi quẩy ngàn lần vạn lần. Hễ mó vào chuyện này thì xui xẻo đen đủi cả đời!

Tên quỷ sứ ấy bèn bảo lão nạp:

– Đại phu bằng lòng đi. Ta có hai trăm lạng bạc đây. Nếu không chịu thì tuỳ ngươi đấy!

Hắn giơ tay vỗ chát một tiếng, phạt bay một góc bàn vuông. Lão nạp nghĩ:

– Tính mạng là hơn cả. Vả lại số bạc hai trăm lạng này mình có trị trật trả bong gân đến cả chục năm cũng không kiếm nổi. Xúi quẩy một lần thì đã sao nào?

Thế là lão nạp nhận lời, đỡ cho vị phu nhân nọ sinh được đứa con trai trắng trẻo bụ bẫm.

Thằng bé đó khóc vang lên, mặt đầy lông tơ, mắt mở thao láo, mới đẻ ra tướng mạo đã hung dữ giống hệt như cha nó. Sau này lớn lên, hết mười phần hết sẽ lại là một tên ác ôn! Tên quỷ sứ đó rất mừng rỡ, quả nhiên hắn cho lão nạp mười khối bạc hai chục lạng Ðại nguyên bảo. Vị phu nhân nọ lại tặng thêm cho lão nạp một đĩnh vàng ròng trị giá khoảng tám chín mươi lạng bạc. Gã quỷ sứ đó còn bưng một khay bạc ra tặng mọi người trong khách điếm từ chưởng quản đến đầu bếp mỗi người mười lạng. Thế là ai cũng hể hả! Hắn còn kéo mọi người cùng uống rượu, kể cả những kẻ sai vặt, quét dọn trong quán không sót một ai! Mọi người gọi hắn là “Hồ đại gia”.

Hắn bảo:

– Ta họ Hồ. Bình sinh hễ gặp kẻ làm điều xấu xa là lập tức cho một đao chết ngay. Cho nên mọi người còn gọi ta là Hồ Nhất Ðao. Các người đừng gọi đại gia này đại gia nọ làm gì! Ta cũng xuất thân nghèo khổ, chỉ cướp lại chút tièn bạc của lũ ác bá để sống mà thôi, đại gia nỗi gì chứ? Cứ gọi ta là Hồ đại ca đi!

Lão nạp đã sớm biết hắn không phải người tốt, quả nhiên hắn tự nói ra điều đó! Mọi người không dám gọi hắn là “đại ca”, hắn bèn ép mọi người phải gọi như thế. Sau đấy, mọi người uống nhiều rượu rồi thì cũng thấy bạo hơn, mới dám gọi hắn là đại ca.

Ðêm ấy, hắn không cho lão nạp về nhà, bắt lão nạp ở uống rượu với hắn. Uống đến tận canh hai, mọi người đều say mèm. Chỉ có lão nạp là tửu lượng khá, nên còn nốc với hắn hết bát này đến bát khác. Hắn càng uống càng phấn chấn, đi vào phòng bế đứa con ra, chấm ngón tay mình vào rượu để cho đứa trẻ mút. Thằng bé mới sinh chưa đầy một ngày mà mút rượu nặng vẫn không hề khóc, trái lại còn mút ngon lành. Ðúng là con sâu rượu bẩm sinh.

Ngay lúc ấy, phía nam bỗng có tiếng vó ngựa phi truyền tới. Tất cả có chừng hai ba chục con ngựa lao nhanh đến, dừng trước cửa khách điếm. Tiếp theo là tiếng đập cửa mạnh. Chưởng quản đang say bí tỉ, loạng choạng bước ra mở cửa, hai ba chục hán tử tiến vào, ai cũng đeo binh khí. Họ xếp thành hàng ở cửa, im lặng chẳng nói gì.

Chỉ một người trong bọn họ bước ra phía trước, ngồi xuống bên cạnh bàn, cởi chiếc túi vải màu vàng đeo trên lưng xuống đặt lên bàn. Dưới ánh nến soi, nhìn rõ bảy chữ “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ” thêu trên túi bằng sợi tơ đen.

Nghe Bảo Thụ kể đến đây , mọi người đều ngẫng lên nhìn mấy chữ “Huyênh hoang thiên hạ không địch thủ” mà Miêu Nhân Phưọng viết trên đôi câu đối treo trong đại sảnh.

Bảo Thụ nói:

– Mấy chữ này là ngoại hiệu của Miêu Nhân Phượng, cho đến bây giờ lão nạp vẫn cảm thấy có phần coi thường thiên hạ quá. Cái buổi tối mới gặp y, lão nạp đương nhiên rất kinh ngạc. Người cao lêu nghêu gầy đét, trông như cây sào, da mặt vàng ệch trông như người ốm, đôi bàn tay to như cái quạt nan rách xòe rộng trên mặt bàn. Lão nạp nói đôi tay ấy như cái quạt nan rách, vì chúng gầy guộc đến nổi chỉ thấy những xương với xương. Dĩ nhiên, lúc ấy lão nạp không biết y là ai, sau này mới biết đó là Kim Diện Phật Miêu Ðại hiệp.

Hồ Nhất Ðao đang mải đùa với con, dường như không biết có nhiều người vừa vào. Còn Miêu Ðại hiệp thì cũng chẳng nói gì, tự người tùy tùng rót rượu cho y. Mấy chục người kia trợn mắt nhìn Hồ Nhất Ðao đang chấm ngón tay vào rượu cho đứa trẻ mút. Hắn chấm một giọt cho con xong, lại ngửa cổ lên uống một bát, hai cha con cứ thi nhau mà uống rượu.

Trống ngực lão nạp đập bình bịch, chỉ muốn mau mau tránh xa cái chốn thị phi đó, nhưng làm sao dám di động một bước? Lúc đó chỉ cần ai khẽ động đậy là mấy chục lưỡi đao kiếm kia sẽ chém xuống ngay. Dù không nhằm vào lão nạp, nhưng chỉ cần dính phớt thôi cũng đủ bị trọng thương rồi.

Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng đều chẳng ai lên tiếng, mỗi người đều uống hơn chục bát rượu, không ai nhìn ai. Bỗng nhiên vị phu nhân trong phòng tỉnh giấc, từ trong phòng gọi ra :

– Ðại ca !

Ðứa trẻ nghe tiếng mẫu thân liền “oa” một tiếng rồi khóc ầm lên. Hồ Nhất Ðao hơi run tay, “choang” một tiếng, đánh rơi bát rượu xuống đất vỡ tan tành. Mặt hắn lập tức biến sắc, ôm đứa con đứng lên. Miêu đại hiệp chỉ cười nhạt ba tiếng “hà, hà, hà”, rồi quay người bước ra cửa. Ðám người kia đồng loạt đi theo ra. Một lát sau, tiếng vó ngựa xa dần. Lão nạp những tưởng khó tránh khỏi một trận ác đấu xảy ra, không ngờ khi đứa trẻ khóc òa lên thì Miêu đại hiệp liền bỏ đi. Lão nạp và chưởng quản cùng bọn tiểu nhị nhìn nhau, chẳng ai hiểu gì.

Hồ Nhất Ðao bế đứa bé vào phòng. Vách gỗ của gian phòng rất mỏng, nghe tiếng vị phu nhân nói :

– Ðại ca! Ai đến đây thế?

Hồ Nhất Ðao trả lời :

– Mấy tên giặc cỏ thôi, nàng cứ ngủ đi! Ðừng lo!

Vị phu nhân thở dài, nhỏ nhẹ nói:

– Ðừng nói dối muội nữa. Muội biết là Kim Diện Phật đã đến.

Hồ Nhất Ðao nói :

– Không phải đâu, nàng đừng có đoán mò .

Vị phu nhân lại hỏi :

– Thế sao giọng đại ca run run như thế? Xưa nay đại ca có bao giờ như vậy đâu?

Hồ Nhất Ðao im lặng một lát rồi nói:

– Nàng đoán trúng rồi. Ta chẳng sợ hắn đâu.

Vị phu nhân nói:

– Ðại ca! Chàng chớ lo cho muội với con. Nếu chàng lo lắng thì sẽ không đánh nổi y đâu.

Hồ Nhất Ðao thở dài, nói tiếp:

– Không hiểu tại sao xưa nay ta chẳng sợ trời sợ đất, thế mà tối nay đang ôm con trong tay, thấy Kim Diện Phật bước vào rồi đặt cái túi của hắn lên bàn, mặt hắn liếc nhìn thằng bé một cái, thì ta vã mồ hôi ướt cả người! Nàng nói không sai, ta thấy sợ Kim Diện Phật.

Vị phu nhân nói:

– Không phải là chàng sợ hắn, mà là sợ hắn hại con chúng ta.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Ta nghe đồn Kim Diện Phật hành hiệp trượng nghĩa, nên trên giang hồ gọi hắn là Miêu đại hiệp. Chắc hắn không đến nỗi hại đàn bà, trẻ con đâu.

Hắn nói mấy câu này giọng càng run hơn, rõ ràng trong bụng hắn cũng không dám chắc. Lão nạp nghe mấy câu này bỗng nhiên thấy thương hại hắn, thầm nghĩ:

– Người này mặt mũi hung tợn, hoá ra trong lòng cũng biết sợ!

Lại nghe vị phu nhân khẽ nói:

– Ðại ca hãy bế con về nhà đi. Muội ở lại nghỉ cho khoẻ hẳn rồi sẽ ra quan ngoại tìm đại ca.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Hả? Thế sao được? Nếu phải chết thì hai chúng ta cùng chết một nơi.

Vị phu nhân than thở:

– Nếu sớm biết thế này, thì năm nọ muội không ngăn đại ca xuống miền Nam khiêu chiến với Kim Diện Phật mới đúng! Năm ấy, đại ca chưa vướng bận gì trong lòng, chắc sẽ thắng y.

Hồ Nhất Ðao cười:

– Hôm nay gặp gỡ, chưa chắc ta sẽ bại dưới tay hắn! Ta e rằng cái túi màu vàng thêu mấy chữ “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” của hắn e phen này sẽ đổi chủ cũng nên!

Hắn tuy vừa cười vừa nói nhưng giọng vẫn run; mặc dù cách bức gỗ mỏng nhưng lão nạp vẫn cảm nhận điều đó một cách rõ ràng.

Vị phu nhân bỗng nói:

– Ðại ca, chàng nên nghe muội chuyện này.

Hồ Nhất Đao hỏi:

– Chuyện gì?

Vị phu nhân nói:

– Chúng ta hãy nói rõ mọi việc với Kim Diện Phật, xem y nói sao. Y được xưng tụng là đại hiệp, chẳng lẽ lại bất chấp đạo lý?

Hồ Nhất Ðao nói:

– Ta ngồi ngoài kia uống rượu vừa tính toán tỉ mỉ đến mười mấy cách dàn xếp. Nàng mới sinh con xong, làm sao ra ngoài được? Ta mà tự đi thì chỉ vài câu là đã hỏng việc rồi. Nếu kiếm được một người phái đi thay thì ý kiến của nàng thực hiện được đấy!

Vị phu nhân suy nghĩ một lát rồi nói:

– Vị đại phu kia cũng rất tháo vát, ăn nói hoạt bát, hay là phiền gã một phen?

Hồ Nhất Ðao bảo:

– Người này ham tiền, không đáng tin lắm đâu.

Vị phu nhân lại nói:

– Chúng ta hậu tạ thật nhiều tiền là ổn thôi!

Khặc khặc, lão nạp ta thời trẻ đúng là ham rượu mê tiền thật! Có nói ra, cũng chẳng ngại các vị chê cười. Lão nạp nghe đến mấy tiếng “hậu tạ thật nhiều tiền” thì đầu óc đã nghĩ luôn dẫu có phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, mình cũng đi giúp họ một phen!

Hai vợ chồng họ bàn bạc to nhỏ mấy câu, rồi thấy Hồ Nhất Ðao đi ra gọi lão nạp vào phòng nói rằng:

– Sáng sớm mai có người đưa thư cho tại hạ. Tại hạ nhờ đại phu đi theo người ấy, rồi đưa giúp thư trả lời của tại hạ cho Kim Diện Phật Miêu đại hiệp là gã đại hán mặt vàng ban nãy đến uống rượu đó!

Lão nạp nghĩ rằng điều này có khó gì đâu, nên nhận lời ngay.

Sáng sớm tinh mơ hôm sau, quả nhiên có người cưỡi ngựa đến đưa một bức thư cho Hồ Nhất Ðao. Lão nạp nghe vị phu nhân đọc thư, thì ra Miêu đại hiệp hẹn Hồ Nhất Ðao tỉ võ, muốn để cho Hồ Nhất Ðao tự chọn ngày và địa điểm giao đấu.

Hồ Nhất Ðao viết thư trả lời và giao cho lão nạp. Lão nạp mượn của chưởng quản một con ngựa, rồi đi theo hán tử nọ. Ði về phía nam chừng ba mươi dặm, hán tử nọ dẫn lão nạp vào một ngôi nhà lớn. Miêu đại hiệp, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công đều đang ở đó, ngoài ra còn có thêm bốn năm mươi người khác, nam có, nữ có, hòa thượng, đạo sĩ đều đủ mặt.

Ðiền tướng xem xong bức thư, bèn nói:

– Không cần phải hẹn hôm khác. Ngày mai chúng ta cứ đến.

Lão nạp nói:

– Tướng công còn dặn dò gì nữa không?

Ðiền tướng công nói:

– Ngươi cứ về nói với Hồ Nhất Ðao rằng hãy mua trước ba cỗ quan tài đi, hai cỗ lớn, một cỗ nhỏ, chớ để các đại gia đây phải tốn kém!

Về đến khách điếm, lão nạp nói lại với vợ chồng Hồ Nhất Ðao những lời đó, nghĩ rằng nhất định họ sẽ lớn tiếng mắng chửi. Nào ngờ họ chỉ nhìn nhau, chẳng nói gì cả. Hai người thay nhau bồng bế đứa trẻ lên hôn hít nựng nịu, dường như tự biết cái chết đã đến gần, thêm giờ khắc nào quý giờ khắc ấy.

Ðêm ấy, lão nạp mơ toàn ác mộng. Lúc thì mơ thấy Hồ Nhất Ðao giết chết Miêu đại hiệp, lúc thì mơ thấy Miêu đại hiệp giết Hồ Nhất Ðao, lúc thì mơ thấy hai người ấy giết lão nạp. Ngủ đến được nửa đêm, bỗng có mấy tiếng lạ thường làm lão nạp tỉnh giấc lắng nghe, thì ra là Hồ Nhất Ðao đang khóc ở phòng bên cạnh.

Lão nạp rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:

– Nhìn hắn cũng là một hán tử đường đường, đại trượng phu chết thì chết, viêc tới thì đương đầu có gì phải khóc lóc chứ? Sao lại xoàng đến vậy?

Rồi lại nghe thấy hắn nghẹn ngào nói:

– Con ơi! Con mới sinh được có ba ngày đã thành đứa trẻ không cha không mẹ, sau này ai sẽ thương yêu con? Con bị đói bị rét, ai sẽ chăm lo cho con? Con bị ức hiếp ai sẽ bênh vực con?

Thoạt đầu, lão nạp còn mắng hắn là thứ vô dụng, nhưng khi nghe đến mấy câu này, lại thấy xót xa, thầm nghĩ trong bụng:

– Một hán tử hung dữ thô lỗ như vậy, sao lại yêu thương con đến thế!

Hắn khóc lóc một hồi, vị phu nhân bỗng lên tiếng:

– Ðại ca! Ðừng đau lòng như thế. Nếu quả thực đại ca chết bởi tay Kim Diện Phật thì muội quyết định không chết, sẽ nuôi con cho khôn lớn!

Hồ Nhất Ðao mừng rỡ, nói

– Muội muội, điều ta lo lắng nhất chính là chuyện này. Nếu chẳng may ta chết thì nàng sao sống nổi? Giờ nàng đã cứng cỏi nhận lấy gánh nặng này thì ta chẳng còn gì phải lo buồn nữa. Ha ha… đời người xưa nay có ai mà chẳng phải chết? Ðánh một trận cho thật sướng tay với một cao thủ bậc nhất thiên hạ cũng là cơ hội trăm năm hiếm có mà!

Nghe ngần ấy câu, lão nạp cảm thấy hắn đúng là một kỳ nhân. Hắn cười một hồi, bỗng lại thở dài, nói:

– Muội muội, một nhát đao kiếm thọc vào, cổ thấy nhói đau, thế là xong chuyện. Chết thì thật là dễ. Nàng phải sống, đó mới là điều khó. Sau khi ta chết thì chẳng còn biết gì nữa, còn nàng phải thương tâm ngày ngày đêm đêm . Ôi! Ta thực lòng không nỡ rời xa nàng!

Vị phu nhân nói:

– Muội sẽ ngắm nhìn con, coi như trông thấy đại ca rồi. Chờ khi nó lớn lên, muội sẽ dạy dỗ nó học theo đại ca, hễ gặp bọn quan lại xấu xa, bọn thổ hào ác bá là cho luôn một đao.

Hồ Nhất Ðao hỏi lại:

– Những điều ta làm trong đời, nàng thấy không sai trái ư? Sao lại muốn con bắt chước theo ta?

Vị phu nhân nói:

– Không có gì sai trái cả. Muội muốn con sẽ noi gương đại ca.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Hay lắm! Dù ta còn sống hay chết, thì một đời ta cũng không có gì hổ thẹn với trời đất! Cái hộp sắt này, nàng hãy trao cho con vào ngày sinh nhật nó khi nó tròn mười sáu tuổi.

Lão nạp lén nhòm qua khe cửa, thấy vị phu nhân đang bế con, Hồ Nhất Ðao lấy từ trong cái đẫy đựng quần áo ra cái hộp sắt này đây. Có điều lúc ấy, thanh quân đao của Sấm Vương lại đang ở trong tay họ Ðiền Thanh Long môn chứ không có trong hộp. Vậy trong hộp sắt đó chứa cái gì? Chắc các vị đều muốn hỏi thế, phải không? Lúc ấy lão nạp cũng thắc mắc lắm, nhưng Hồ Nhất Ðao không mở hộp ra nên lão nạp cũng đành chịu, không nhìn thấy gì cả.

Hồ Nhất Ðao dặn dò vợ xong, thấy lòng nhẹ nhõm, bèn nằm xuống ngủ, chỉ lát sau đã ngáy vang như sấm. Lão nạp biết là chẳng còn chuyện gì để nghe nữa, cũng định đi ngủ nhưng tiếng ngáy ở gian phòng bên vang lớn như thế thì ngủ sao được? Lão nạp nghĩ bụng, vị phu nhân trẻ thiên kiều bá mị như hoa như ngọc kia mà lại đi lấy một hán tử thô lỗ xấu xí như Hồ Nhất Ðao đã là chuyện kì lạ rồi. Đã thế lại còn hết lòng hết sức tôn kính và thương yêu hắn nữa, càng làm cho mọi người không sao hiểu nổi nữa!

Hôm sau, lúc trời chưa sáng tỏ, vị phu nhân đã ra khỏi phòng dặn dò tiểu nhị trong khách điếm làm thịt một con lợn, một con dê, giết gà, vịt để nàng đích thân vào bếp nấu. Lão nạp khuyên:

– Phu nhân mới sinh cháu chưa được ba ngày, không nên làm việc nặng kẻo sau này đau lưng nhức xương phiền hà lắm đấy.

Vị phu nhân mỉm cười đáp:

– Những việc trước mắt quá đủ phiền hà rồi, còn ngại gì sau này?.

Hồ Nhất Ðao thấy vợ tất bật, cũng khuyên nên vào nghỉ. Vị phu nhân chỉ mỉm cười với chồng, vẫn tiếp tục tự mình làm thức ăn.

Hồ Nhất Ðao cười, nói:

– Thôi được! Ăn thêm một lần nữa các món ăn do chính tay nàng làm, thì dẫu có chết cũng không hối tiếc gì nữa!

Ðến lúc này lão nạp mới vỡ lẽ, thì ra vị phu nhân biết giờ sống chết chia ly của hai vợ chồng đã đến gần, bất luận như thế nào, bà vẫn muốn làm cho chồng ăn một bữa.

Ðến khi trời sáng hẳn, vị phu nhân đã làm xong chừng hai ba chục món ăn, bày ngập trên bàn. Hồ Nhất Ðao bảo tiểu nhị đem tới mấy chục cân rượu nữa, rồi đánh chén cho thoả chí. Vị phu nhân bồng con ngồi bên cạnh, rót rượu và tiếp thức ăn cho chồng, vẻ mặt nàng tươi cười.

Hồ Nhất Ðao uống một hơi cạn bảy tám bát rượu trắng, bốc mỗi lần vài miếng thịt dê bỏ vào miệng. Vẳng nghe tiếng vó ngựa từ xa đang dần lại gần. Hồ Nhất Ðao và vợ cùng nhìn nhau, mỉm cười, vẻ mặt tỏ ra rất quyến luyến không muốn rời xa nhau.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Nàng hãy vào phòng đi. Bao giờ con khôn lớn, hãy nhớ bảo nó rằng, ta muốn nó lòng dạ phải mạnh mẽ hơn, cứng rắn hơn

Vị phu nhân gật đầu, nói:

– Hãy để muội thử nhìn xem Kim Diện Phật mặt mũi ra sao.

Chẳng mấy chốc, tiếng vó ngựa đều dừng ở trước cửa khách điếm. Kim Diện Phật, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công dẫn theo mấy chục người nữa bước vào. Hồ Nhất Ðao chẳng buồn ngẩng đầu, nói cộc lốc:

– Ăn đi!

Kim Diện Phật nói:

– Được!

Rồi ngồi đối diện với Hồ Nhất Ðao, bưng bát rượu lên định uống thì Ðiền tướng công vội giơ tay ra ngăn lại, nói:

– Miêu đại hiệp! Coi chừng trong rượu thịt có gì đó.

Kim Diện Phật nói:

– Xưa nay nghe nói Hồ Nhất Ðao là hán tử đường đường, làm việc gì cũng quang minh chính đại, sao có thể ngầm lén hại ta được!

Nói rồi, ngửa cổ uống cạn một hơi, rồi gắp thịt gà nhắm luôn. Cách ăn uống của Kim Diện Phật trang nhã lịch sự hơn hẳn Hồ Nhất Ðao.

Vị phu nhân nhìn Kim Diện Phật mấy lần, rồi thở dài nói với chồng:

– Ðại ca! Trong đám hào kiệt đời nay, ngoài vị Miêu đại hiệp này ra, thực chẳng có người thứ hai nào đáng là địch thủ của đại ca! Y thẳng thắn thật bụng với đại ca, phong cách khẳng khái như thế thì trên đời này chỉ có hai người, đó là đại ca với y mà thôi!

Hồ Nhất Ðao cười ha hả, nói:

– Muôi muội, muội cũng xứng đáng được coi là một bậc trượng phu trong giới nữ lưu đấy!

Vị phu nhân nói với Kim Diện Phật:

– Miêu đại hiệp! Các hạ là bậc nam nhi đại trượng phu, quả thật danh bất hư truyền. Nếu chuyết phu lỡ có chết bởi tay các hạ cũng không đến nỗi uổng mạng! Còn nếu các hạ bị chuyết phu giết chết thì cũng chẳng tổn hại thanh danh một đời! Nào, tiện thiếp xin kính các hạ một bát!

Nàng rót hai bát, tự mình uống một bát.

Kim Diện Phật có vẻ không hay nói, chỉ nhíu đôi lông mày, đáp:

– Được!

Rồi đón lấy bát rượu. Phạm bang chủ đứng bên sa sầm nét mặt, lúc này bước lên một bước, kêu lên:

– Miêu đại hiệp hãy coi chừng lòng dạ đàn bà nham hiểm!

Kim Diện Phật hơi cau mày, chẳng lý gì đến hắn, uống luôn bát rượu.

Vị phu nhân ôm con đứng dậy, nói:

– Miêu đại hiệp! Các hạ còn điều gì băn khoăn, xin hãy nói cho tiệp thiếp biết. Nếu chẳng may các hạ thất thủ bị chuyết phu giết chết, thì các bằng hữu này của các hạ, hà hà, chưa chắc đã làm gì giúp cho các hạ được đâu!

Kim Diện Phật trầm ngâm giây lát rồi nói:

– Bốn năm trước, tại hạ có việc đi Lĩnh Nam, có một người đến nhà tự xưng tên là Thương Kiếm Minh, người huyện Vũ Ðịnh, tỉnh Sơn Ðông…

Vị phu nhân của Hồ Nhất Ðao nói xen vào:

– Ồ, người này là đệ tử của Vương Duy Dương uy danh vang dội ở vùng Hà Sóc, là cao thủ trong Bát quái môn. Y tinh thông cả Bát quái chưởng lẫn Bát quái đao.

Kim Diện Phật nói:

– Ðúng thế! Hắn nghe nói tại hạ có ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” thì trong lòng không phục nên đến tìm để tỉ võ. Gặp lúc tại hạ không có nhà, hắn lời qua tiếng lại với huynh đệ của tại hạ, rồi ra tay động thủ, toàn dụng sát chiêu đánh chết hai người em trai và một người em gái của tại hạ. Tỉ võ tất phải có thắng thua. Các em của tại hạ học nghệ chưa tinh nên bị chết bởi tay hắn đã đành. Nào ngờ hắn còn đánh chết luôn cả cô em dâu của tại hạ là người không biết tí võ nghệ gì.

Phu nhân của Hồ Nhất Ðao nói:

– Người này quá ngang ngược. Vậy các hạ đi tìm hắn là phải rồi.

Kim Diện Phật nói:

– Hai em của tại hạ võ công cũng không đến nỗi tệ lắm, Thương Kiếm Minh đã dùng thủ đoạn này để tự khoe mình là kình địch cao thủ. Thiết nghĩ Miêu gia tại hạ với Hồ gia có mối thâm cừu nhiều đời, nếu Hồ Nhất Đao không chết thì xin Hồ huynh mạo hiểm một chuyến, đi đến huyện Vũ Ðịnh, tỉnh Sơn Ðông hỏi giúp chuyện bốn năm trước.

Vị phu nhân nói:

– Chuyện này các hạ cứ giao cho phu phụ tiện thiếp là được.

Kim Diện Phật gật đầu, đứng lên rút kiếm ra, nói:

– Hồ Nhất Ðao! Nào!

Hồ Nhất Ðao cắm cúi ăn, không lý gì đến ông ta.

Vị phu nhân nói:

– Miêu đại hiệp! Chuyết phu tuy võ nghệ cao cường, nhưng chưa chắc đã thắng nổi các hạ.

Kim Diện Phật nói:

– À, tại hạ quên mất. Hồ Nhất Ðao, các hạ có chuyện gì còn băn khoăn không?

Hồ Nhất Ðao chùi mép, đứng lên nói:

– Nếu các hạ giết được tại hạ, thì con tại hạ sau này lớn lên nhất định sẽ tìm các hạ để báo thù. Nhờ các hạ chăm sóc nó giúp tại hạ!

Lão nạp nghe vậy nghĩ bụng:

– Người ta thường nói nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nếu Kim Diện Phật giết được Hồ Nhất Ðao, lẽ nào lại chịu tha cho vợ con hắn? Thế mà Hồ Nhất Ðao còn sợ Kim Diện Phật sẽ quên điều này, lại đi nhắc y!

Nào ngờ Kim Diện Phật nói ngay:

– Các hạ yên tâm đi! Nếu các hạ không may thất thủ, tại hạ sẽ chăm sóc thằng bé này như con đẻ của tại hạ!

Phạm bang chủ và Ðiền tướng công đều cau mày đứng sang một bên, bộ dạng xem chừng rất khó chịu. Lão nạp lúc đó trong bụng cũng ngạc nhiên, thầm nghĩ:

– Nhìn thái độ của hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao và Kim Diện Phật dặn dò nhau trịnh trọng như thế giống như những đôi bạn chí thân, chứ đâu có vẻ gì sắp sửa liều mạng với nhau?

Chính vào lúc này, Hồ Nhất Ðao rút đao ở lưng ra, hàn quang lấp loáng, kêu lên:

– Hảo bằng hữu, xin huynh ra chiêu trước!

Kim Diện Phật giơ trường kiếm lên, nói :

– Xin lĩnh giáo!

Rồi chém hờ hai chiêu vào khoảng không.

Ðiền tướng công la lên nhắc:

– Miêu đại hiệp, chớ nên khách khí! Hãy xuất chiêu đi!

Bỗng Kim Diện Phật thu kiếm về, quay đầu lại nói :

– Xin mời tất cả các vị hãy đi ra cho!

Ðiền tướng quân cụt hứng, nhưng nhìn sắc mặt của Miêu đại hiệp có vẻ nghiêm trọng nên không dám trái lời, đành cùng với bọn Phạm bang chủ đều lui ra khỏi đại sảnh, đứng ở cửa để xem đánh nhau.

Hồ Nhất Ðao lớn tiếng:

– Được, tại hạ xuất chiêu đây.

Y tiến lên một bước vung đao chém mạnh xuống đấu đối thủ.

Kim Diện Phật bước chéo sang, lưỡi kiếm xoay vòng, mũi kiếm xóa tới đâm vào sườn phải đối phương.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Đao của tại hạ là bảo đao đấy, hãy cẩn thận!

Vừa nói vừa vùng đao chém vào thân kiếm. Kim Diện Phật nói:

– Xin vâng lời chỉ giáo!

Cổ tay giật một cái, lưỡi kiếm đã tránh sang một bên.

Hồi ở Thương Châu, lão nạp đã từng được xem không biết bao nhiêu lần cảnh kiếm đao giao đấu, nhưng chưa được thấy ai có thân thủ nhanh nhẹn như hai người này. Họ mới tung ra chừng bảy tám chiêu thôi, mà hai lòng bàn tay lão nạp đã toát đầy mồ hôi lạnh.

Lại thêm mấy chiêu nữa thì binh khí hai người chạm nhau. “Choang” một tiếng, thanh trường kiếm của Kim Diện Phật bị chém gãy đôi! Y thản nhiên vứt thanh kiếm gãy xuống, muốn dùng hai tay không giao đấu với đối thủ.

Hồ Nhất Ðao nhảy vọt ra ngoài vòng, la lên:

– Các hạ hãy đổi kiếm khác đi!

Kim Diện Phật nói:

– Không sao.

Nhưng Ðiền tướng công đã rút thanh trường kiếm của mình đưa qua. Kim Diện Phật hơi trầm ngâm rồi nói:

– Tại hạ tay không thì không chống nổi đao của đại huynh, thôi thì cứ dùng kiếm vậy.

Y cầm lấy kiếm, hai người lại tiếp tục giao đấu. Lão nạp nghĩ bụng:

– Bọn thanh niên ở Thương Châu tỉ võ dù đã thua rõ ràng vẫn tỏ ra không phục, thế nào cũng phải nói vài câu để gỡ gạc thể diện. Thế mà vị Kim Diện Phật tự xưng đánh khắp thiên hạ không địch thủ này chưa thua chiêu nào, miệng đã nói nhún, kể cũng là lạ.

Về sau này lão nạp mới hiểu hai người đều là cao thủ hàng đầu thiên hạ, chỉ qua vài chiêu thôi, lòng đều thấy khâm phục đối phương, không dám coi thường.

Lúc này, cả hai đều di chuyển theo vòng tròn, đứng xa nhau, thỉnh thoảng bất ngờ xông vào nhau tung một hai chiêu thức, rồi lại lập tức nhảy lùi ra ngay. Cứ như vậy, họ đấu với nhau hơn chục hiệp. Bỗng Kim Diện Phật đâm thẳng một mũi kiếm vào đầu Hồ Nhất Ðao. Ðường kiếm này kình lực cực mạnh và nhanh, mắt thấy đối thủ khó mà tránh được. Nhưng Hồ Nhất Ðao đã lăn một vòng trên mặt đất, tay vung đao lên. Lại một tiếng “choang”, thanh trường kiếm đã bị chém gãy.

Hồ Nhất Ðao nương theo đà bật dậy ngay, nói lớn:

– Xin lỗi! Không phải tại hạ cậy binh khí sắc bén, mà quả thực chiêu của huynh vừa rồi quá ư lợi hại, nếu không làm vậy thì không thể nào phá được!

Kim Diện Phật gật đầu nói:

– Không sao.

Ðiền tướng công lại đưa một thanh kiếm khác cho Kim Diện Phật. Hồ Nhất Ðao nói:

– Này! Các vị cho tại hạ mượn thanh đao đi. Ðao của tại hạ sắc quá, làm bọn ta đều không trổ hết công phu ra được.

Ðiền tướng công cả mừng, lấy ngay một thanh đao của người tuỳ tùng đưa cho Hồ Nhất Ðao. Hồ Nhất Đao nhấc thử. Kim Diện Phật nói:

– Nhẹ quá ư?

Rồi cầm ngang thanh trường kiếm dài, tay phải dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp mũi kiếm, ”cách” một cái bẻ gẫy bớt một đoạn mũi kiếm của mình đi. Chỉ lực của y quả nhiên cực kỳ lợi hại. Lão nạp thấy quá đỗi kinh ngạc.

Hồ Nhất Ðao cười, nói :

– Miêu Nhân Phượng! Huynh không chịu chiếm lợi thế hơn người một chút nào cả! Quả nhiên đáng gọi là đại hiệp.

Kim Diện Phật nói:

– Ðâu dám! Tại hạ có điều này muốn nói rõ với huynh.

Hồ Nhất Ðao nói:

– Nói đi.

Kim Diện Phật nói:

– Từ lâu tại hạ đã biết võ công của huynh là trác tuyệt, Miêu Nhân Phượng này chưa chắc xứng làm đối thủ của huynh. Việc tại hạ tuyên bố trên giang hồ mấy chữ ngoại hiệu “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, không phải là Miêu Nhân Phượng này chẳng biết trời cao đất dày mà ăn nói bừa bãi ngông cuồng đâu…

Hồ Nhất Ðao khua tay trái, ngắt lời Kim Diện Phật, nói:

– Tại hạ cũng sớm hiểu ngụ ý của huynh rồi. Huynh muốn cùng tại hạ so tài, mà không cách nào tìm được, bèn rêu rao mấy chữ ấy để khích tại hạ nhập quan.

Hồ Nhất Ðao cười khổ, nói tiếp:

– Bây giờ tại hạ đã ở đây rồi, nếu huynh đánh bại được tại hạ thì mấy chữ ngoại hiệu đó là đúng và xứng đáng lắm. Nào, ra chiêu đi!

Nghe đến đoạn này, mọi người mới hiểu được ý thật sự của Miêu Nhân Phượng khi dùng mấy chữ ngoại hiệu đó. Lại nghe Bảo Thụ kể tiếp:

– Hai người nói xong, đao kiếm lại lóe động, đấu với nhau một trận. Lần này binh khí ngang nhau nên hai người đều giở hết tuyệt kỹ bình sinh. Hơn hai trăm chiêu đầu, dường như không ai chiếm được chút ưu thế nào. Sau đó thì Hồ Nhất Ðao dường như có phần nao núng, có thế đao chỉ thiên về phòng thủ. Hai vị Phạm, Ðiền sắc mặt tươi tỉnh ra. Tuy vậy, Hồ Nhất Ðao phòng thủ vô cùng kín đáo, Kim Diện Phật tấn công từ mọi hướng đều không làm gì được. Bỗng Hồ Nhất Ðao thay đổi đao pháp, xuất chiêu toàn những nhát chém cực mạnh. Kim Diện Phật di chuyển khắp đại sảnh, thanh trường kiếm lúc đâm lúc chém cũng cực kỳ linh hoạt.

Nói về công phu đơn đao, lão nạp cũng từng theo thầy khổ luyện đến bảy tám năm, biết rằng đơn đao chia làm năm bộ vị “thiên, địa, quân, thân, sư”. Sống đao gọi là Thiên, lưỡi đao gọi là Ðịa, giữa cán gọi là Quân, ngạnh che tay gọi là Thân, chuôi cán gọi là Sư. Trong năm bộ vị này, đương nhiên hai bộ vị Thiên và Ðịa là chủ chốt. Xem đao pháp của Hồ Nhất Ðao, thì các chiêu vận dụng hai bộ vị Thiên và Ðịa cố nhiên là xuất thần nhập hóa rồi; còn khi vận dụng ba bộ vị Quân, Thân, Sư cũng có thể tấn công hoặc phòng ngự. Có lúc trường kiếm của Kim Diện Phật đột ngột xuất những chiêu lạ, bất ngờ đâm vào những vị trí mà đối thủ không ngờ tới; nếu dùng sống đao hoặc lưỡi đao để đỡ thì rất khó. Lúc đó Hồ Nhất Ðao đột nhiên xoay chuyển mũi đao, dùng cán đao đánh vào lưỡi kiếm, ép đối phương phải biến chiêu. Còn về sáu chữ khẩu quyết “lia, gạt, móc, băm, chặt, chém” thì lại càng tỏ ra biến ảo khôn lường!.

Nói về công phu kiếm thuật thì thời ấy lão nạp chưa hiểu rõ cho lắm. Chỉ biết đao pháp của Hồ Nhất Ðao điêu luyện như vậy mà Kim Diện Phật từ đầu tới cuối giao đấu vẫn tương đương, vậy đương nhiên cũng cực kì lợi hai. Ðao, kiếm, thương là ba loại binh khí chính của võ học. Tục ngữ có câu “Ðao như mãnh hổ, kiếm như phượng bay, thương như rồng lượn”. Hai người này, một người dùng đao thì tựa như mãnh hổ hạ sơn, một người dùng kiếm thì cũng giống như phượng hoàng bay múa, một cương một nhu, ai cũng có sở trường riêng, không ai hơn ai. Lúc đầu, lão nạp còn nhìn rõ được các chiêu số đánh đỡ, về sau nhìn thì đầu choáng mắt hoa, sợ mình ngã chúi ngay xuống đất, nên đành quay đầu qua chỗ khác không nhìn nữa.

Lúc đó tai lão nạp chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm rít vù vù như xé gió, thỉnh thoảng đao kiếm va chạm nhau kêu chan chát. Lão nạp nhìn vẻ mặt vị phu nhân của Hồ Nhất Ðao, thấy thần sắc vẫn bình thản, không đượm chút lo âu cho sự nguy hiểm của phu quân.

Khi quay lại nhìn Hồ Nhất Ðao, lão nạp thấy Hồ Nhất Ðao càng đánh càng vững vàng, vẻ mặt lộ tươi cười, dường như nắm chắc phần thắng. Còn Kim Diện Phật thì không lộ chút tâm trạng gì trên khuôn mặt vàng như nghệ, không căng thẳng mà cũng chẳng nao núng.

Hồ Nhất Ðao tấn công liên tục bức Kim Diện Phật phải lùi dần. Phạm bang chủ và Ðiền tướng quân càng lúc càng tỏ ra căng thẳng.

Lão nạp nghĩ bụng:

– Chẳng lẽ Kim Diện Phật lại thua dưới tay Hồ Nhất Ðao?

Bỗng nghe “véo, véo, véo” một hồi, thì ra Ðiền tướng công giương cung bắn, một loạt đạn sắt đột ngột bay tới, nhắm vào ba bộ vị thượng, trung và hạ bàn của Hồ Nhất Ðao.

Hồ Nhất Ðao cười ha hả, ném luôn đao xuống đất. Kim Diện Phật sa sầm nét mặt, vung trường kiếm gạt các viên đạn sắt ra, rồi nhảy đến bên Ðiền tướng công giằng lấy cây cung bẻ gãy làm đôi vứt thật xa ra ngoài cửa, trầm giọng quát:

– Ra ngoài!

Lão nạp lấy làm lạ:

– Người ta sợ ngươi thua, mới có ý giúp cho, sao lại còn không biết điều như thế?

Ðiền tướng công mặt đỏ gay, tức giận trợn mắt nhìn Kim Diện Phật, rồi đi ra ngoài. Kim Diện Phật nhặt thanh đơn đao lên, ném trả lại cho Hồ Nhất Ðao nói:

– Chúng ta tiếp tục đi.

Hồ Nhất Ðao đưa tay bắt lấy, thuận thế chém luôn một đao; “choang” một tiếng, đao kiếm lại choảng nhau. Đấu một hồi nữa thì trời đã quá trưa.

Hồ Nhất Ðao lên tiếng:

– Ðói bụng rồi! Huynh ăn cơm không?

Kim Diện Phật đáp:

– Được, ăn một chút đã!

Thế là hai người ngồi vào bàn cùng ăn, coi như chung quanh chẳng có ai!

Hồ Nhất Ðao ăn như hổ ngốn, một hơi ăn liền bảy tám cái bánh bao, một con gà, nửa cái đùi dê. Kim Diện Phật chỉ ăn hai cái đùi gà.

Hồ Nhất Ðao cười:

– Huynh ăn quá ít đấy! Chẳng lẽ tệ nội nấu nướng không được khéo ư?

Kim Diện Phật đáp:

– Nấu ngon lắm!

Rồi ăn thêm một miếng thịt dê khá to.

Ăn cơm xong, hai người lau mồm rồi lại đánh nhau tiếp. Lát sau, hai người thi triển khinh công bay nhảy khắp đại sảnh. Nhìn Hồ Nhất Ðao con người thô kệch, nhưng tiến lui né tránh đều rất linh hoạt lạ thường. Kim Diện Phật chân tay đều dài, đương nhiên cũng không chậm chạp rồi! Lão nạp càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt. Bỗng nghe một tiếng “ái”, Hồ Nhất Ðao trượt chân trái nên khuỵu xuống. Kể ra thì đó là cơ hội tốt cho Kim Diện Phật xuất chiêu; chỉ cần chém luôn xuống thì đối thủ không sao tránh được. Thế nhưng Kim Diện Phật nhảy lùi lại, la lên:

– Huynh giẫm phải viên đạn đấy, hãy cẩn thận một chút!

Hồ Nhất Ðao đầu gối chưa chạm đất đã đứng lên ngay, nói:

– Ðúng thế!

Rồi dùng tay trái nhặt viên đạn lên, búng viên đạn bay cái “vù” ra ngoài cửa.

Kim Diện Phật la lên:

– Hãy xem kiếm đây!

Rồi giơ kiếm xông tới. Hai người quyện vào nhau, đấu mãi đến xâm xẩm tối, không rõ hai bên đã trao đổi bao nhiêu chiêu thức nữa, nhưng đều tự thấy khó mà phân thắng bại. Kim Diện Phật nhảy ra vòng chiến nói:

– Hồ huynh! Võ nghệ của huynh thật cao cường, tại hạ vô cùng khâm phục! Chúng ta thắp đèn lên tiếp tục đấu, hay là để đến mai lại quyết một phen sống mái?

Hồ Nhất Ðao cười nói:

– Huynh muốn để cho tại hạ sống thêm một ngày nữa chắc!

Kim Diện Phật đáp:

– Không dám!

Liền vung trường kiếm, ra chiêu “Ðan phượng triều dương” rồi xoay người đi luôn.

Chiêu “Ðan phượng triều dương” này tuy là một chiêu kiếm, nhưng Kim Diện Phật đã lùi lại ba bước rồi mới xuất chiêu, cho nên nó biến thành một kiểu chào tạm biệt tỏ ý tôn kính.

Hồ Nhất Ðao dựng thanh đơn đao, chĩa chếch lên, đó là chiêu “Tham bái Bắc Ðẩu”, cũng là một cách tỏ vẻ đồng tình với đối phương. Hai người lúc mới giao đấu đều quyết chí đoạt mạng nhau, nhưng sau khi đấu một ngày trời rồi thì ai nấy đều cảm thấy khâm phục đối thủ. Bởi thế, lúc tạm chia tay, mỗi người đều dùng nghi thức cung kính nhất trong võ lâm để chào nhau.

Hồ Nhất Ðao đợi đối thủ đi rồi, bèn ngồi vào bàn ăn một bữa thỏa thê, rồi lên ngựa phóng đi gấp. Lão nạp thầm nghĩ, chắc là hắn đến toà nhà ở phía Nam để thám thính tình hình của đối thủ, chưa biết chừng lại tìm cách lén tập kích cũng nên. Chỉ cần làm cho Kim Diện Phật bị thương là được rồi, vì những người còn lại chẳng ai xứng đáng là đối thủ của hắn cả. Lão nạp bồn chồn định đi báo cho Ðiền tướng công biết tin, bảo y đề phòng, nhưng lại sợ chạm trán với Hồ Nhất Ðao thì nguy, nên không dám đi.

Ðêm hôm đó, tuy không có tiếng ngáy ở phòng bên, nhưng lão nạp vẫn không sao ngủ được, chỉ để ý nghe xem tiếng vó ngựa của Hồ Nhất Ðao đã về chưa. Nhưng chờ đến nửa đêm vẫn thấy im hơi lặng tiếng.

Lão nạp đoán rằng, nếu ngựa chạy nhanh không tới một canh giờ đã đến được ngôi nhà lớn phía nam, chẳng lẽ hắn đã bị Kim Diện Phật phát hiện, một mình không chọi nổi số đông nên đã táng mạng?

Càng chưa thấy hắn về, lão nạp càng sốt ruột, nhưng nghe văng vẳng tiếng vị phu nhân ru đứa bé, có vẻ không lo lắng gì cho chồng cả, thì lão nạp lấy làm lạ.

Cho đến khi gà gáy sáng, lúc canh năm, Hồ Nhất Ðao cưỡi ngựa trở về. Lão nạp vội vàng trở dậy, thấy gã trở về bằng con ngựa khác; lúc đi hắn cưỡi con ngựa xám, lúc về lại cưỡi con ngựa vàng. Con ngựa vàng phi đến trước khách điếm, Hồ Nhất Ðao nhảy vụt xuống thì con ngựa loạng choạng khuỵu xuống đất, mồm sùi bọt trắng rồi chết luôn. Lão nạp ra xem, thấy toàn thân con ngựa mồ hôi vã ra đầm đìa. Thì ra nó mệt quá mà chết. Xem tình hình này thì Hồ Nhất Ðao đã đi đâu xa suốt cả đêm qua. Lão nạp nghĩ, hôm nay hắn còn phải quyết đấu với Kim Diện Phật, tối hôm qua sao lại không ngủ kỹ để dưỡng sức cho trận đại chiến mà còn đi đâu cho nhọc xác cả đêm, thật là kì quặc!

Lúc này, vị phu nhân cũng đã dậy, lại làm một mâm cơm. Hồ Nhất Ðao không ngủ nghê gì nữa, bế con tung lên mà đùa. Cho đến khi trời sáng hẳn thì Kim Diện Phật và cả bọn Phạm bang chủ, Ðiền tướng công lại đến.

Hai người họ Miêu, họ Hồ uống với nhau ba bát rượu, không nói năng một lời, đá dẹp bỏ ghế, rút đao kiếm ra đấu tiếp. Ðấu cho đến trời tối thì hai người thu binh khí, chào nhau. Kim Diện Phật nói:

– Hồ huynh! Hôm nay khí lực huynh hơi giảm sút đấy, e rằng ngày mai huynh sẽ thua mất thôi!

Hồ Nhất Ðao cười nói:

– Chuyện này cũng chưa chắc đâu. Vì đêm qua tại hạ không ngủ đấy thôi. Ðêm nay ngủ một giấc cho đã thì khí lực sẽ lại tốt ngay!

Kim Diện Phật lấy làm lạ, nói:

– Ðêm qua huynh không ngủ à? Thế là không được rồi.

Hồ Nhất Ðao cười, trả lời:

– Miêu huynh, tại hạ tặng huynh chút quà đây!

Nói rồi vào phòng lấy ra một cái bọc ném qua. Kim Diện Phật bắt lấy, mở ra xem, thì ra trong túi có một cái thủ cấp, bên cạnh còn bảy mũi phi tiêu. Phạm bang chủ nhìn cái thủ cấp thì kinh ngạc kêu lên:

– Bát quái đao Thương Kiếm Minh!

Kim Diện Phật cầm một mũi phi tiêu lên nhấc thử xem sao, thấy mũi phi tiêu khá nặng, thân mũi phi tiêu khắc mấy chữ “Bát quái môn Thương”, bèn hỏi:

– Ðêm qua huynh đến tận huyện Vũ Ðịnh ở Sơn Ðông à?

Hồ Nhất Ðao cười đáp:

– Tại hạ làm mệt chết cả thảy năm con ngựa để về đây mới không lỡ hẹn với huynh!

Lão nạp ta nghe đến đây vừa kinh ngạc vừa thấy khiếp đảm, đờ người ra nhìn Hồ Nhất Ðao. Từ Thương Châu, Trực Lệ đến Vũ Ðịnh, Sơn Ðông cách nhau gần ba trăm dặm đường, thế mà hắn cả đi lẫn về chỉ nội trong một đêm, lại còn lấy đầu một cao thủ võ lâm mang về. Người này hành sự quả thật là quỷ xuất nhập thần.

Kim Diện Phật hỏi:

– Huynh dùng đao pháp gì hạ thủ hắn?

Hồ Nhất Ðao trả lời:

– Công phu Bát quái đao của người này quả là lợi hại. Tại hạ bắt được bảy mũi liên châu phi tiêu của hắn, tiếp đó dùng chiêu “Xung thiên chưởng Tô Tần bối kiếm” thì phá được chiêu thứ hai mươi chín trong đao pháp Bát quái môn, là chiêu “ Phản thân phách sơn” của hắn.

Kim Diện Phật sửng sốt, lấy làm lạ hỏi:

– Huynh dùng chiêu “Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm” ư? Ðó là kiếm pháp của Miêu gia tại hạ mà?

Hồ Nhất Ðao cười nói:

– Đúng vậy! Chiêu ấy tại hạ học trộm ở huynh ngày hôm qua. Tại hạ không dùng đao mà dùng kiếm hạ thủ hắn!

Kim Diện Phật nói:

– Tuyệt! Huynh đã báo thù cho họ Miêu, còn dùng đúng kiếm pháp Miêu gia, đủ thấy thịnh tình của huynh.

Hồ Nhất Ðao cười nói:

– Miêu gia kiếm pháp của huynh độc đáo trong thiên hạ, dùng kiếm pháp này giết hắn có khó gì! Tại hạ chỉ làm thay huynh mà thôi.

Lúc này lão nạp mới hiểu thêm, Hồ Nhất Ðao rất tôn trọng Kim Diện Phật ở mọi phương diện. Thương Kiếm Minh đã giết hại bốn người nhà họ Miêu, nếu Hồ Nhất Ðao lại dùng đao pháp để hạ thủ hắn, chẳng hoá ra Miêu gia kiếm pháp không sánh nổi Bát quái đao, lại càng không sánh nổi Hồ gia đao pháp. Chỉ riêng chuyện trong khoảng một ngày mà hắn có thể học được tuyệt chiêu của Miêu gia kiếm pháp, rồi dùng để hạ sát một danh gia học khác, cũng đủ làm mọi người rùng mình thán phục. Và mãi tới cuối cuộc đấu ngày hôm nay hắn mới đưa cái thủ cấp kia ra mà không hề có ý kể công khoe tài gì cả, càng chứng tỏ hắn là người ngay thẳng lỗi lạc. Mà khi hắn tự nhận đã chiến thắng cũng rất rõ ràng minh bạch.

Những điều tại hạ nghĩ đến thì hai vị Phạm, Ðiền cũng đã hiểu cả. Hai người mặt mày trắng bệch, đưa mắt nhìn nhau rồi quay người đi ra. Kim Diện Phật nhìn vị phu nhân của Hồ Nhất Ðao đang bế đứa con, rồi cởi cái túi vải vàng đeo trên lưng xuống, mở túi ra. Lão nạp nghĩ không biết trong túi có cái gì lạ không, bèn ngẩng cổ nhìn, thì thấy trong chỉ là vài bộ quần áo bình thường. Kim Diện Phật giở một mảnh vải vàng trên đó thêu bảy chữ ra, hạ giọng nói:

– Hà hà! Ðả biến thiên hạ vô địch thủ! Quả là huênh hoang khoác lác!

Rồi y giơ tay đỡ đứa bé, lấy tấm vải vàng đó bọc cho đứa bé, vừa nói với Hồ Nhất Ðao:

– Hồ huynh! Chẳng may huynh có mệnh hệ gì, thì chớ lo có kẻ nào dám ức hiếp nó.

Hồ Nhất Ðao cả mừng, luôn miệng cảm tạ.

Kim Diện Phật đi rồi, Hồ Nhất Ðao lại ăn uống no say rồi mới đi ngủ. Vừa mới ngủ, tiếng ngáy đã vang như sấm.

Ðến khoảng canh hai, bỗng nghe tiếng bước chân đi trên nóc nhà, có tiếng người gọi:

– Hồ Nhất Ðao! Hãy mau ra chịu chết đi!

Hồ Nhất Ðao không tỉnh giấc, vẫn ngáy vang. Tiếng quát mắng ngày càng lớn hơn, người kéo đến cũng càng đông hơn. Hồ Nhất Ðao vẫn như điếc, cứ ngủ như chết. Lão nạp nghĩ người này tuy võ nghệ cao cường thật, nhưng vẫn không nhạy bén cho lắm. Bao nhiêu kẻ địch kéo đến bên ngoài như thế mà vẫn chẳng hay biết gì cả.

Nhưng kể cũng lạ, Hồ Nhất Ðao ngủ say nên đương nhiên không nghe thấy gì, nhưng vị phu nhân thì rõ ràng đang thức, vẫn hát ru con khe khẽ, cũng chẳng buồn để ý đến tiếng huyên náo ở trên nóc nhà và ngoài cửa sổ.

Bọn người bên ngoài ra sức gào thét, nhưng vẫn không dám xông vào trong. Hồ Nhất Ðao thì cứ ngáy ong ỏng. Tiếng ồn bên trong và bên ngoài nhà hòa vào nhau. Bọn ngoài kia mắng chửi độ nửa canh giờ, thì bỗng nghe vị phu nhân thủ thỉ nói:

– Hài nhi, bên ngoài có mấy con chó hoang muốn sủa suốt đêm để phụ thân con ngủ không yên, khiến ngày mai tỉ võ bị thua Miêu bá bá đó! Con thấy lũ chó hoang đó có tồi không nào?

Thằng bé mới sinh được có vài hôm, tất nhiên không biết nói, chỉ oe oe mấy tiếng. Vị phu nhân lại nói:

– Ôi con ngoan quá! Con cũng bảo đám chó hoang này tồi à? Ðể má má ra đuổi chúng đi nhé?

Thằng bé lại oe oe mấy tiếng. Vị phu nhân lại bảo:

– Ừ, con cũng bằng lòng à? Thật không phụ lòng phụ mẫu yêu thương con.

Vị phu nhân tay trái ẵm con, tay phải rút chiếc thắt lưng lụa vắt ở đầu giường lên, rồi mở cửa sổ, thót một cái nhảy vọt ra ngoài.

Lão nạp giật mình kinh ngạc. Không ngờ một phụ nữ yểu điệu kiều diễm như vậy mà lại có bản lãnh khinh công tài tình thế. Lão nạp vội đến bên cửa sổ, chọc thủng một lỗ nhỏ trên giấy dán ô cửa sổ nhòm ra ngoài, thấy trước cửa nhà có chừng hai ba chục tên đàn ông kẻ cao người thấp đứng lố nhố, ai trong tay cũng có binh khí, đang hò hét.

Vị phu nhân Hồ Nhất Ðao vung tay phải, dải lụa dài tung ra như một con rắn, quấn chặt thanh đơn đao của một tên cao to, lúc giật, lúc buông. Gã đại hán nọ kêu la ầm ĩ, rơi cả đao, ngã lăn xuống đất đánh huỵch một tiếng.

Bọn người còn lại hò la ầm lên, ùn ùn xông lại. Dưới ánh trăng, vị phu nhân với dải lụa trắng dài như con bạch long đang cuộn mình múa lượn, chập chờn lên xuống. Lần lượt những tiếng loảng xoảng, ối á vang lên, chẳng mấy chốc binh khí của mấy chục người kia đều bị giật mất, bọn người trên nóc nhà cũng bị té xuống đất. Cả bọn người này đâu còn dám đánh đấm gì nữa, chỉ lo lóp ngóp bò dậy mà chạy tháo thân, có người còn bỏ cả ngựa mà chạy thục mạng. Lão nạp trợn mắt há hốc mồm nhìn cảnh ấy, tim đập muốn văng ra khỏi lồng ngực, người run như cầy sấy.

Vị phu nhân Hồ Nhất Ðao nhảy lên nóc nhà, đá những thứ binh khí kia rơi xuống đất, chẳng buồn nhặt, rồi bế con vào nhà cho bú. Hồ Nhất Ðao vẫn ngáy vang như sấm, dường như chẳng hề biết chuyện vừa xảy ra.

Sáng hôm sau, vị phu nhân lại làm cơm, bảo lũ tiểu nhị thu lượm đống binh khí, buộc lại rồi treo lên mái hiên, nào là đao, nào là kiếm, trùy, roi sắt. Gió bấc thổi, chúng va chạm nhau kêu leng keng nghe thật vui tai.

Ăn cơm sáng xong, Kim Diện Phật lại đến. Nghe thấy các âm thanh ấy, y ngẩng đầu lên nhìn thấy binh khí lổn ngổn, liền hiểu rõ nguồn cơn. Kim Diện Phật bực bội trợn mắt nhìn bọn người đi theo, bọn họ đều cúi gầm mặt, không dám nhìn lại.

Kim Diện Phật mắng lớn:

– Thật là quân mặt dày! Vậy mà cũng gọi là nam tử hán sao? Lũ vô liêm sỉ cút đi cho rảnh mắt ta!

Bọn họ không dám hó hé nửa lời, đều lùi lại vài bước. Lão nạp nghĩ, nếu đêm qua vị phu nhân có giết hết bọn kia thì cũng dễ như trở bản tay, hoặc muốn lần lượt đánh gục ngã cả bọn cũng chẳng khó gì, có điều làm thế thì bẽ mặt Kim Diện Phật quá.

Kim Diện Phật hậm hực, nói:

– Hồ huynh! Lũ đốn mạt đó đã làm ầm ĩ để huynh không ngủ được. Hôm nay chúng ta đình chiến vậy, huynh hãy ngủ cho đủ giấc, mai lại tỉ võ tiếp!

Hồ Nhất Ðao cười nói:

– Đó là chuyết kinh đuổi họ đi đấy! Đệ vẫn ngủ say có biết gì đâu! Nào, ta đấu đi!

Nói xong xốc thanh đao lên, thủ thế.

Kim Diện Phật hướng Hồ phu nhân nói:

– Cảm ơn phu nhân đã hạ thủ dung tình, rộng lòng tha mạng cho bọn họ.

Vị phu nhân tủm tỉm cười. Sau vài câu xã giao, Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng lại vung đao kiếm so tài cao thấp.

Ngày hôm ấy lại giao đấu cho đến tối, vẫn không phân thắng bại. Kim Diện Phật thu kiếm về, nói:

– Hồ huynh! Hôm nay đệ không về nhà nữa, muốn uống với huynh một bữa say tuý luý rồi gác chân lên nhau mà ngủ, bàn chuyện võ nghệ cho vui.

Hồ Nhất Ðao cười lớn, la lên:

– Thế thì tuyệt quá! Đệ muốn học hỏi kiếm pháp của Miêu huynh, nếu có chỗ nào chưa rõ, đêm nay huynh chỉ giáo cho.

Kim Diện Phật bèn nói với Phạm bang chủ và Ðiền tướng công:

– Các ngươi hãy về đi, đêm nay ta ở lại đây.

Phạm bang chủ không kiềm được cả kinh, thất sắc nói:

– Miêu đại hiệp, cẩn thận đề phòng gian kế của hắn…

Kim Diện Phật lạnh lùng đáp:

– Ta muốn làm gì thì làm, ngươi quản được ư?

Ðiền tướng công nói:

– Miêu đại hiệp chớ quên mối thù giết cha mà trở thành người con bất hiếu đấy!

Kim Diện Phật sa sầm nét mặt. Hai vị Phạm, Ðiền không dám nói gì thêm, dẫn đám thủ hạ ra về.

Ðêm ấy, hai người vừa uống rượu vừa bàn luận về võ công. Kim Diện Phật giảng giải tinh yếu của từng chiêu từng thức Miêu gia kiếm pháp cho Hồ Nhất Ðao nghe. Hồ Nhất Ðao cũng cặn kẽ truyền thụ cho Miêu đại hiệp đao pháp của Hồ gia. Hai người càng trò chuyện càng thấy tâm đắc, thật lòng nói cảm thấy tiếc vì gặp nhau quá muộn. Hai người cứ uống vài bát rượu lại đứng lên biểu diễn vài chiêu, xong lại ngồi xuống uống tiếp. Hai người họ chuyện trò với nhau về tinh tuý của võ công, tuy lão nạp nghe rõ cả, nhưng chẳng hiểu gì.

Chuyện trò mãi đến nửa đêm, Hồ Nhất Ðao bảo chưởng quỹ mở một gian phòng khác, hắn và Kim Diện Phật vào đó ngủ chung một gường thật. Lão nạp thầm suy diễn:

– Hai người còn sống này cùng vào một phòng, ngày mai trong phòng nhất định có một kẻ chết! Nhưng không rõ ai ra tay trước đây? Kim Diện Phật có vẻ không phải là người nham hiểm tiểu nhân, vậy chắc là y tiêu rồi!

Sau đó lão nạp lại nghĩ:

– Hồ Nhất Ðao tuy thô bạo lỗ mãng thật, nhưng không tinh tế bằng Kim Diện Phật. Võ công hai người ngang nhau, nhưng nói về đấu trí và mưu mẹo thì rõ ràng là Kim Diện Phật hơn một bậc. Thế thì ngày mai kẻ còn sống sót để ra khỏi phòng ắt phải là Kim Diện Phật chứ không phải là Hồ Nhất Ðao rồi.

Lòng hiếu kì của lão nạp nổi lên, lão nạp bèn rón rén đến sát cửa sổ phòng hai người để nghe trộm xem sao. Lúc đó, họ thôi không bàn chuyện võ công nữa, mà nói toàn là những chuyện kỳ lạ, bí mật trên giang hồ và những việc mà hai người họ đã từng làm khi xưa. Lúc thì Kim Diện Phật nói đã từng giết một tên hung đồ ở một nơi nào đó, lúc thì Hồ Nhất Ðao kể về chuyện đã cứu một người khốn khổ trong một dịp nào đó. Kể đến chỗ lí thú nhất, cả hai người đều vỗ tay cười ầm lên, làm lão nạp cứ há hốc mồm ra mà nghe. Lão nạp nghĩ một kẻ hung tợn dữ dằn như Hồ Nhất Ðao mà giết người này người nọ thì chẳng có gì lạ; nhưng Miêu Nhân Phượng có chữ “Phật” trong ngoại hiệu, thế mà y cũng giết người không chớp mắt.

Nói một hồi, bỗng Kim Diện Phật than thở:

– Ðáng tiếc! Ðáng tiếc quá!

Hồ Nhất Ðao hỏi:

– Ðáng tiếc cái gì?

Kim Diện Phật nói:

– Nếu như huynh không phải họ Hồ, hoặc đệ không phải họ Miêu thì nhất định hai ta sẽ kết nghĩa sinh tử có nhau. Xưa nay, Miêu Nhân Phượng này quá tự phụ, dịp này được gặp huynh, cảm thấy thực sự tâm phục khẩu phục huynh rồi! Ôi!. Thiên hạ tuy rộng lớn thật, nhưng ngoài Hồ Nhất Ðao ra, Miêu Nhân Phượng này chẳng thể kết giao với ai được!

Hồ Nhất Ðao nói:

– Nếu đệ có bị chết trong tay huynh, huynh có thể thường trò chuyện với chuyết kinh. Nàng là một hào kiệt trong giới nữ lưu, hơn hẳn lũ bạn chết nhát kia của huynh đấy!

Kim Diện Phật nổi cáu, nói:

– Hừ! Bọn chúng mà xứng làm bạn với đệ ư?

Bon họ nói hết chuyện này sang chuyện nọ, nhưng họ vẫn không đả động gì đến mối thù truyền đời của hai bên. Nếu ngẫu nhiên một người nói gần đụng chạm tới, thì người kia liền nói lảng sang chuyện khác ngay. Ðêm ấy, cả hai đều không ngủ, làm lão nạp đứng nghe trộm ở ngoài cũng mệt lây. Ngoài sân gió lạnh thấu xương, hai chân lão nạp lạnh tê cóng. Ðến lúc trời sáng hẳn, Kim Diện Phật bỗng đến bên cửa sổ, cười nhạt nói:

– Hừ! Ðã nghe chán chưa?.

Lại nghe “cách” một tiếng, Hồ Nhất Ðao nói:

– Miêu huynh! Người này là người tốt đấy! Tha cho y đi!.

Lúc ấy lão nạp chỉ kịp cảm thấy cái gì đó đập mạnh vào đầu rồi bất tỉnh nhân sự luôn.

Khi tỉnh lại, lão nạp thấy mình đã nằm ngủ trên gường lò của mình. Lúc này, trời đã quá trưa, lão nạp mới nghĩ lại, chắc Kim Diện Phật phát hiện lão nạp nghe trộm ở ngoài cửa sổ, nên đã mở cửa ra thoi cho lão nạp một quyền. Nếu không có Hồ Nhất Ðao xin hộ cho thì chắc cái mạng nhỏ của lão nạp đã sớm chầu diêm vương rồi! Lão nạp bò xuống giường, đầu nặng chình chịch, bèn lấy gương ra soi, thấy một nửa mặt bầm tím, sưng phồng lên có đến một phân. Lão nạp giật mình, hoảng quá buông cái gương rơi xuống đất, “choang” một cái, vỡ nát vụn trên nền nhà.

Ngày hôm đó, hai người lại tỉ võ ở sảnh đường, nhưng lão nạp không dám ra xem nữa. Lão nạp vẫn vốn mong Kim Diện Phật thắng, nhưng lúc này mặt sưng vù, từng cơn đau giần giật nổi lên, lão nạp lại mong Hồ Nhất Ðao báo thù cho lão nạp, con mẹ nó, chém Miêu Nhân Phượng một hai nhát đao mới hả dạ.

Ðến lúc trời tối, qua tấm vách gỗ, lão nạp lại nghe tiếng Kim Diện Phật nói:

– Hồ huynh! Đệ vốn muốn đêm nay lại nằm chung gường để trò chuyện với huynh nữa, nhưng lại e phu nhân trách. Tối mai, nếu vẫn không phân thắng bại thì chúng ta lại ngủ chung nói chuyện một đêm, được chứ?

Hồ Nhất Ðao cười ha hả, đáp:

– Ðược! Ðược!

Sau khi Kim Diện Phật đi rồi, vị phu nhân rót một bát rượu bưng tới cho Hồ Nhất Ðao, nói:

– Chúc mừng đại ca!.

Hồ Nhất Ðao đỡ lấy, uống một hơi cạn luôn, cười hỏi:

– Chúc mừng chuyện gì?

Vị phu nhân nói:

– Ngày mai đại ca sẽ đánh bại Kim Diện Phật!

Hồ Nhất Ðao ngạc nhiên, hỏi:

– Huynh đã đấu có đến vài ngàn chiêu rồi mà vẫn không thấy y có chút gì sơ hở, vậy ngày mai sao lại thắng?

Vị phu nhân cười mỉm, nói:

– Muội đã nhìn thấy chỗ sơ hở của y. Con ơi! Phụ thân con mới thực là người ”Ðả biến thiên hạ vô địch thủ” đấy!

Câu nói sau, vị phu nhân nói với đứa con nhỏ.

Hồ Nhất Ðao vội hỏi:

– Chỗ sơ hở nào? Sao ta không thấy nhỉ?

Vị phu nhân đáp:

– Chỗ sơ hở của y là ở phía sau lưng. Ðại ca chỉ mải đấu chính diện thôi, đương hiên là nhìn không ra.

Hồ Nhất Ðao trầm ngâm không nói gì. Vị phu nhân nói tiếp:

– Ðại ca đã đấu với y bốn hôm rồi, muội đã quan sát đường kiếm rất tỉ mỉ, quả nhiên phòng thủ nghiêm ngặt, không một chút sơ hở. Muội nhìn mà cảm thấy kinh hãi, thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục kéo dài như vậy thì thế nào đại ca cũng có lúc sơ suất thất thủ, còn y thì trước sau vẫn đứng ở thế bất bại. Nhưng đến chiều nay, muội mới phát hiện ra chỗ sơ hở của y. Ðại ca thử nói xem, trong kiếm pháp của y thì mấy chiêu nào là lợi hại nhất?

Hồ Nhất Ðao đáp:

– Có nhiều chiêu rất lợi hại, như các chiêu “Tẩy kiếm hoài trung bão nguyệt”, “Nghênh môn thoái phản phách Hoa Sơn, “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sí”, “Xung thiên chưởng Tô Tần bối kiếm”…

Vị phu nhân nói:

– Chỗ sơ hở là ở chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sí”!

Hồ Nhất Ðao nói:

– Chiêu ấy lấy công làm thủ, trong cương có nhu, vô cùng hiểm độc!

Vị phu nhân nói:

– Đại ca, khi huynh dùng những chiêu như “Xuyên thủ tàng đao”, “Tiến bộ liên hoàn đao” hay chiêu “Triển thân trích tâm đao” thì có lúc y dùng chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sí”để phản kích. Nhưng trước khi xuất chiêu đó ra thì giữa lưng thấy hơi hơi nhô lên, giống như là bị ngứa.

Hồ Nhất Ðao lấy làm lạ hỏi:

– Thật thế à?

Vị phu nhân đáp:

– Hôm nay trước sau y đã xuất chiêu đó hai lần, lần nào cũng thấy lưng nhô lên. Ngày mai trong khi tỉ võ mà muội lại thấy lưng nhô lên lập tức sẽ đằng hắng, lúc đó đại ca hãy ra tay trước khống chế, không để y xuất chiêu đó ra . Ðại ca hãy dùng chiêu “Bát phương tàng đao” mà tấn công thật dữ dội, y mà không thu kiếm xin nhận thua cũng không xong!

Hồ Nhất Ðao cả mừng, luôn miệng kêu:

– Diệu kế, diệu kế!

Nghe hai vợ chồng nói chuyện, lão nạp muốn chạy đi thông báo cho Kim Diện Phật biết để y phòng bị. Nhưng khi sờ lên mặt chỗ đau nhức thì lão nạp nhớ đến quả đấm nặng tay quá thể của y đã giáng vào mặt lão nạp thì lại nghĩ y thua cũng là đáng đời!

Hôm sau là ngày giao đấu thứ năm. Mặt đã hơi bớt sưng một chút, lão nạp lại đứng xem trận tỉ đấu. Ngày hôm ấy đấu tới trưa mà chẳng thấy Hồ phu nhân ho hắng gì cả, chắc là Kim Diện Phật không dùng chiêu kiếm kia. Ðến bữa ăn trưa, vị phu nhân rót rượu cho chồng và liên tiếp đưa mắt ra hiệu cho chồng vài lần, lão nạp đứng bên cạnh nhìn thấy rất rõ ràng, biết là vị phu nhân bảo chồng hãy nhử để Kim Diện Phật xuất chiêu kiếm đó để thừa cơ thủ thắng. Hồ Nhất Ðao lắc đầu, có vẻ như lòng thấy không nỡ. Vị phu nhân lại chỉ chỉ đứa con, giằn mạnh một cái làm cho nó ngã trên ghế, thằng bé khóc oà. Lão nạp hiểu được dụng ý của vị phu nhân muốn nói rằng nếu Hồ Nhất Đao tỉ võ lỡ tay thất thủ thì thằng bé sẽ mồ côi cha, chịu khổ cả đời. Hồ Nhất Ðao nghe con khóc ré lên, bèn thong thả gật đầu.

Buổi chiều, hai người tiếp tục giao đấu được vài chục hiệp, Hồ Nhất Ðao bỗng chém mạnh mấy nhát thì vị phu nhân ho lên mấy tiếng. Hồ Nhất Ðao hơi cau mày, không dấn lên mà lùi lại. Quả nhiên Kim Diện Phật xuất chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sí” ra. Lão nạp vốn không hiểu gì chiêu này nhưng vì đêm qua khi nghe lỏm hai vợ chồng họ bàn bạc với nhau, đã mấy lần nghe vị phu nhân nói đến chiêu này. Lão nạp thầm nghĩ:

– Vị phu nhân quả có con mắt tinh tường.

Nếu lúc này Hồ Nhất Ðao hành động theo kế của vợ thì hẳn đã giành phần thắng rồi, nhưng đúng lúc đó Hồ Nhất Ðao lại rụt tay, không phải vì thương cảm không nỡ sát hại Kim Diện Phật, mà vì nghĩ rằng có người giúp mình như vậy, dù có thắng cũng chẳng có tinh thần thượng võ chút nào!

Lão nạp bỗng nhớ lại lời Hồ Nhất Ðao dặn phu nhân, sau này con lớn lên hãy bảo cho nó biết cần phải mạnh mẽ và cứng rắn hơn cha. Ðủ thấy Hồ Nhất Đao tuy mặt mũi hung dữ, nhưng lòng dạ của hắn lại rất yếu mềm, chuyện đã đến nước này mà lại hành động không quả quyết!

Vị phu nhân bèn véo vào tay đứa con một cái làm nó khóc ầm lên. Tiếng đao kiếm va chạm nhau chát chúa xen lẫn với tiếng khóc trẻ con. Bỗng nhiên nghe vị phu nhân khẽ ho lên. Hồ Nhất Ðao dấn thêm một bước xuất chiêu “Bát phương tàng đao” ra, ánh đao lấp loáng, khóa ngay được đường kiếm của Kim Diện Phật.

Kim Diện Phật không cách gì chống đỡ, chỉ mới xuất được nửa chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”, theo chiêu kiếm đó, tay phải y cần đâm chéo, tay trái giơ lên tựa như con hạc trắng xoè đôi cánh ra. Nhưng Hồ Nhất Ðao đã sớm ra tay, nên khi Kim Diện Phật vừa mới định vung hai tay ra thì đã bị Hồ Nhất Ðao chém liền hai nhát đao liên hoàn, vậy chẳng khác nào Kim Diện Phật tự đưa cả hai tay ra hứng lấy đường đao của đối thủ chém xuống.

Nhưng nào ngờ võ công của Kim Diện Phật đã đến mức xuất thần nhập hóa, trong lúc nguy khốn đó, y gập hai tay lại, mũi kiếm quặc về phía ngực mình. Hồ Nhất Ðao cả kinh, nghĩ là y thấy thua, nên xoay kiếm lại để tự sát, bèn la lên:

– Miêu huynh! Ðừng làm thế!

Hồ Nhất Ðao quên rằng, ngay hôm tỉ võ đầu tiên, Miêu đại hiệp đã lấy ngón tay bẻ gẫy mũi kiếm. Bây giờ mũi kiếm đã cùn, y lại vận khí lên ngực, mũi kiếm ấy đâm vào ngực lại bật ngược trở ra. Một là chiêu này biến hoá thật kì ảo, hai là Hồ Nhất Ðao thật lòng khuyên Miêu đại hiệp đừng tự sát, không hề đề phòng y xuất chiêu kì ảo để giành phần thắng, nên khi thanh trường kiếm bật ngược ra lại điểm ngay vào huyệt “Thần tàng” trên ngực Hồ Nhất Ðao.

“Thần tàng” là đại huyệt trên người, vừa bị mũi kiếm điểm trúng là Hồ Nhất Ðao bủn rủn té nhào.

Kim Diện Phật giơ tay đỡ lên, nói:

– Ðắc tội rồi!

Hồ Nhất Ðao cười, nói:

– Kiếm pháp của Miêu huynh thật là quỷ thần cũng khó lường, tại hạ bái phục, bái phục.

Kim Diện Phật nói:

– Nếu chẳng phải vì Hồ huynh có hảo ý quan tâm thì tại hạ làm sao xuất được chiêu này?

Rồi hai người ngồi bên bàn uống liền ba bát rượu hâm nóng. Hồ Nhất Ðao cười khặc khặc, rồi giơ đao ngang cổ cứa luôn. Cổ họng phun máu tươi, hắn gục xuống bàn chết ngay.

Lão nạp sửng sốt, đờ người ra, khi nhìn vị phu nhân thì thấy nét mặt của bà vẫn thản nhiên, thấp giọng nói:

– Miêu đại hiệp, xin hãy đợi một chút, để tiện thiếp cho hài tử bú no đã!

Nói rồi đi vào gian phòng trong. Một lúc chừng ăn xong một bữa cơm, vị phu nhân Hồ Nhất Ðao lại bế con ra, hôn thật sâu đứa con, cười nói:

– Nó đã bú no rồi, đang ngủ say.

Rồi nàng đưa con cho Miêu đại hiệp, nói:

– Tiện thiếp vốn đã hứa với phu quân sẽ tự tay mình nuôi dạy con trưởng thành, nhưng năm ngày nay chính mắt thấy Miêu đại hiệp lòng dạ quân tử, nghĩa nặng như núi. Đại hiệp đã bằng lòng chăm sóc cho nhục tử, tiện thiếp xin đành chịu tiếng lười biếng để trốn cái khổ sở nhọc nhằn trong hai chục năm vậy.

Nói xong, vị phu nhân Hồ Nhất Ðao vái Kim Diện Phật mấy cái rồi cầm thanh đao của Hồ Nhất Ðao cũng cứa cổ mình một nhát. Hai vợ chồng ngồi sóng đôi trên chiếc ghế dài. Vị phu nhân cầm tay chồng, rồi từ từ nhũn người ra ngã trên xác chồng, bất động luôn.

Lão nạp không đành lòng nhìn, quay mặt lại thấy đứa trẻ trong tay Miêu đại hiệp đang ngủ say, khuôn mặt nhỏ bé dường như thoáng nét mỉm cười.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.