Tuyết Sơn Phi Hồ

Hồi 10

trước
tiếp

Hồ Phỉ thấy Miêu Nhân Phượng nổi giận thì thần uy lẫm liệt, trong bụng cũng thầm kinh hãi, ôm Miêu Nhược Lan không dám dừng chân. Chàng chạy một mạch tới bờ núi, một tay kéo thừng tuột luôn xuống dưới chân núi. Chàng biết gần đó có một sơn động rất ít người qua lại, liền thi triển khinh công chạy thẳng đến đó. Tuy chàng phải bế Miêu Nhược Lan nhưng người nàng rất nhẹ, hoàn toàn chẳng làm giảm tốc độ chạy chút nào.

Chừng chưa uống xong một chung trà, chàng đã bế Miêu Nhược Lan vào sơn động, quấn nàng trong chăn rồi để ngồi tựa vào vách động. Chàng thầm tính toán trong bụng:

– Nếu muốn giải huyệt đạo cho nàng thì không đụng đến người nàng không xong; còn nếu không giải cứu, nàng lại không biết nội công, càng để lâu chỉ sợ tổn hại cho sức khỏe của nàng.

Thực là vô cùng khó xử, chàng bèn lấy mồi lửa nhóm cháy một cành cây khô. Dưới ánh lửa, thấy đôi mắt Miêu Nhược Lan như gợn sóng thu, khuôn mặt ngời sáng, chàng bèn nói:

– Miêu cô nương, tại hạ tuyệt không có ý khinh bạc mạo phạm, nhưng muốn giải khai huyệt đạo cho cô nương thì khó tránh khỏi đụng chạm đến quý thể, vậy việc này nên như thế nào?

Miêu Nhược Lan tuy không thể gật đầu tỏ ý, nhưng ánh mắt nàng dịu dàng như thẹn thùng như cảm ơn, không hề có vẻ oán giận. Hồ Phỉ cả mừng, bèn thổi tắt lửa trước, đưa tay vào trong chăn khẽ ấn vào mấy huyệt đạo để làm thông kinh mạch cho nàng.

Tay chân Miêu Nhược Lan dần dần cử động được, nàng khẽ nói:

– Ðược rồi, xin đa tạ!

Hồ Phỉ vội rụt tay lại, định mở miệng nói nhưng lại không biết nói gì. Một lúc lâu sau, chàng mới nói:

– Vừa nãy mạo phạm, thực là lỗi không cố ý. Lòng này quang minh trong sáng, có trời cao chứng giám, chỉ mong cô nương thứ lỗi.

Miêu Nhược Lan khẽ đáp:

– Muội biết rồi!

Sau đó, hai người ngồi trong bóng tối, đối mặt nhau mà không nói gì. Ngoài sơn động tuy băng tuyết xuống đầy, nhưng hai người thấy lòng ấm áp, trong sơn động như có gió xuân dịu mát, nắng xuân reo vui.

Một lúc sau, Miêu Nhược Lan lên tiếng:

– Không biết gia phụ bây giờ thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Lệnh tôn là anh hùng vô địch, bọn chúng đâu phải đối thủ của lão nhân gia. Xin cô nương cứ yên tâm.

Miêu Nhược Lan khẽ thở dài, nói:

– Ðáng tiếc là gia phụ tưởng huynh… huynh không tốt với muội.

Hồ Phỉ nói:

– Cũng khó trách lệnh tôn. Tình thế hồi nãy cũng thật khó xử.

Miêu Nhược Lan đỏ mặt lên, nói:

– Gia phụ vì có chuyện thương tâm cho nên dễ kích động, xin Hồ gia đừng lấy làm lạ!

Hồ Phỉ nói:

– Chuyện gì vậy?

Vừa thốt ra lời, Hồ Phỉ biết ngay đã lỡ lời, toan nói gì đó để đánh trống lảng, nhưng nhất thời không biết nên nói gì. Chàng xưng hiệu là Tuyết Sơn Phi Hồ, ngày thường thông minh lanh lợi, cơ biến mưu trí, nhưng hôm nay trước người thiếu nữ dịu dàng thanh nhã này, không hiểu vì sao lại biến thành một người khác hẳn, tỏ ra hết sức vụng về.

Miêu Nhược Lan nói:

– Việc này nói ra thật xấu hổ, nhưng muội cũng không muốn giấu huynh, đó là câu chuyện về mẫu thân của muội.

Hồ Phỉ “à” một tiếng. Miêu Nhược Lan nói tiếp:

– Mẫu thân muội đã phạm một sai lầm.

Hồ Phỉ nói:

– Ai mà chẳng có lỗi lầm? Chuyện đó chẳng cần để bụng làm gì!

Miêu Nhược Lan chậm rãi lắc đầu, nói:

– Ðây là sai lầm lớn lắm, là việc mà một người đàn bà không thể mắc phải trong đời, dù chỉ một lần. Mẫu thân muội vì sai lầm đó mà hủy hoại một đời. Cả gia phụ cũng suýt vì nó mà hủy hoại cả một đời.

Hồ Phỉ im lặng, thầm đoán ra được mấy phần. Miêu Nhược Lan kể tiếp:

– Gia phụ là hào kiệt giang hồ, gia mẫu lại là thiên kim tiểu thư xuất thân từ nhà quan. Một lần tình cờ gia phụ cứu mạng gia mẫu, sau đó hai người thành thân. Hai người vốn không hợp với nhau lắm, thế cũng xong. Nhưng gia phụ đã làm một chuyện rất sai lầm là thường khen Hồ bá mẫu trước mặt gia mẫu.

Hồ Phỉ ngạc nhiên, hỏi:

– Khen mẫu thân tại hạ ư?.

Miêu Nhược Lan đáp:

– Ðúng thế. Hồi gia phụ tỉ võ với lệnh tôn, lão nhân gia thấy lệnh đường oai phong lẫm liệt, có khí phách hơn cả đám mày râu. Ngày thường nói chuyện phiếm, gia phụ tỏ ý hâm mộ lệnh tôn, nói rằng: “Hồ đại hiệp được vị phu nhân như thế, sống một ngày hơn người khác sống trăm năm!”. Mẫu thân muội nghe vậy, tuy không nói ra, nhưng trong lòng không vui. Sau đó, Ðiền Quy Nông của Thiên Long Môn đến nhà muội. Y tướng mạo tuấn tú, nói chuyện phong nhã, lại biết thủ thỉ làm vui lòng người. Gia mẫu trong một lúc thiếu suy nghĩ, đã bỏ muội lại, trốn đi theo y.

Hồ Phỉ nhè nhẹ thở dài, không còn biết nói gì. Miêu Nhược Lan nghẹn ngào, kể tiếp:

– Lúc ấy muội mới ba tuổi, gia phụ bế muội đuổi theo suốt đêm, lão nhân gia không ăn không ngủ suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng đã đuổi kịp họ. Ðiền Quy Nông thấy gia phụ sao dám động thủ? Còn mẫu thân muội thì ra sức bênh vực cho y. Gia phụ thấy gia mẫu thực lòng yêu y, không có cách nào khác đành bế muội đi. Về tới nhà, gia phụ ốm một trận suýt chết. Gia phụ nói với muội, nếu không vì sợ muội bị bơ vơ côi cút, sống trên đời này không ai chăm nom, thì lão nhân gia đã chết quách đi cho rồi. Liền ba năm, gia phụ không ra khỏi cửa lấy một bước, có lúc kêu lên: “Nam Lan ơi! Sao nàng dại dột như vậy?”. Tên của gia mẫu cũng có chữ Lan.

Nói đến đây, Miêu Nhược Lan hơi đỏ mặt. Phải biết thời ấy đàn bà con gái thường giữ kín tên của mình, người ngoài chỉ được biết họ mà thôi. Chỉ có những người chí thân, gần gũi nhất mới được nói cho biết tên. Miêu Nhược Lan nói thế thì cũng như là nói với Hồ Phỉ tên của mình.

Hồ Phỉ tuy không thấy vẻ mặt của nàng, nhưng nghe nàng mang câu chuyện tuyệt đối bí mật trong gia đình nàng kể cho mình nghe thì không kềm được xúc động, cuối cùng nghe nàng nói ra tên của nàng thì càng cảm thấy giống như say men rượu, lâng lâng ngây ngất, một hồi lâu mới lên tiếng, nói:

– Miêu cô nương, tên Ðiền Quy Nông bụng dạ xấu xa, chắc gì đã có tình ý với lệnh đường thật?

Miêu Nhược Lan thở dài, đáp:

– Gia phụ cũng nói như vậy, nhưng gia phụ thường tự trách mình, cho rằng nếu lão nhân gia ân cần chăm sóc mẫu thân muội hơn thì bà chẳng đến nỗi bị người khác lừa. Gia phụ xưng hiệu là “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, nhưng về mặt xử thế và giao tiếp với người thì thua xa Ðiền Quy Nông. Tên họ Ðiền lừa dối gia mẫu thực ra là muốn lấy bản đồ kho tàng gia truyền của nhà họ Miêu. Tuy y đã khiến gia đình muội tan nát, khiến muội không có mẹ từ thuở ấu thơ, nhưng rốt cuộc y vẫn uổng phí tâm cơ. Gia mẫu đã nhìn thấu tâm địa của y, nên trước lúc lâm chung đã gửi trả chiếc thoa ngọc có giấu tấm bản đồ lại cho gia phụ.

Sau đó Miêu Nhược Lan kể lại tất cả những điều Lưu Nguyên Hạc mắt thấy tai nghe lúc chui dưới gầm giường, kể tới việc bọn Bảo Thụ giật lấy tờ bản đồ, rồi dựa vào thanh quân đao của Sấm Vương và tấm bản đồ để đi tìm bảo tàng như thế nào cho Hồ Phỉ nghe.

Hồ Phỉ hầm hầm, nói:

– Lòng dạ tên họ Ðiền thật vô cùng thâm độc. Hắn sợ lệnh tôn, lại không lấy được tấm bản đồ bèn mượn tay quân qua bắt ông, để buộc ông phải giao ra tấm bản đồ. Nào ngờ lưới trời lồng lộng, cuối cùng cũng không thoát khỏi quả báo ứng! Ôi, kho tàng ấy không biết đã làm hại bao người rồi!

Ngừng giây lát rồi Hồ Phỉ lại nói:

– Miêu cô nương, gia phụ tại hạ thành thân với gia mẫu là nhờ kho tàng ấy đấy!

Miêu Nhược Lan kêu lên:

– Ôi! Thật thế sao? Mau kể cho muội nghe đi!

Nàng tuy giữ ý, nhưng dù sao cũng còn ít tuổi, lúc háo hức liền giơ tay nắm chặt lấy tay Hồ Phỉ. Có điều ngay sau đó nhận ra là không tiện bèn rụt tay về. Hồ Phỉ khẽ cầm lấy tay nàng, không chịu buông. Miêu Nhược Lan mặt đỏ lên, thôi không rút tay về nữa. Nàng cảm thấy sức nóng ở bàn tay chàng thấm sâu đến tận tim mình.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương biết mẫu thân tại hạ là ai không? Là biểu muội của Đỗ trang chủ, Đỗ Hi Mạnh đấy!

Miêu Nhược Lan càng lấy làm lạ, nói:

– Muội từ bé đã biết Ðỗ bá bá, nhưng gia phụ chưa nhắc đến chuyện ấy bao giờ.

Hồ Phỉ nói:

– Tại hạ biết được chuyện này là từ di thư của song thân để lại, thiết nghĩ lệnh tôn chưa chắc đã biết rõ chi tiết trong chuyện này. Ðỗ trang chủ lần được một vài manh mối, đoán rằng kho tàng phải ở quanh vùng Tuyết sơn này nên ở lâu dài trên núi để tìm kiếm. Có điều lão xưa nay suy nghĩ chậm chạp, lại không có cơ duyên, nên rút cục vẫn không tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Gia phụ ngầm tìm hiểu và tìm ra trước lão. Gia phụ vào trong sơn động nơi cất giấu kho tàng thì thấy phụ thân của Ðiền Quy Nông và nội tổ của cô nương chết trong sơn động. Lão nhân gia đang khai quật kho tàng thì bất ngờ gia mẫu cũng vào theo.

Bản lãnh gia mẫu cao hơn Ðỗ trang chủ nhiều. Mấy ngày liền gia phụ loanh quanh trong vùng gần đấy, nên gia mẫu đã nhìn ra được đầu mối. Bà vào tới kho tàng liền ra động thủ với gia phụ. Hai người đúng là không đánh nhau thì không quen nhau, rồi họ khâm phục lẫn nhau, thế là gia phụ ngỏ lời cầu thân. Gia mẫu nói, từ nhỏ bà được biểu ca là Ðỗ Hi Mạnh nuôi dưỡng, nếu để gia phụ lấy kho tàng thì bà có lỗi với biểu ca, hỏi gia phụ muốn lấy bà hay là muốn có kho tàng, trong hai chỉ được chọn một.

Gia phụ ha hả cười lớn, trả lời rằng có mười vạn cái kho tàng cũng không bằng gia mẫu. Lão nhân gia viết lại chuyện này trên giấy để trong sơn động, nhằm sau này hậu nhân có người nào tìm ra phải hiểu rằng thứ quý báu nhất trên đời này là tình yêu chân thành của hai trái tim cùng hạnh phúc bên nhau, chứ không phải là kho tàng trị giá liên thành.

Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác mơ màng, khẽ nói:

– Tuy lệnh tôn và lệnh đường mất sớm nhưng vẫn hạnh phúc hơn song thân của muội.

Hồ Phỉ nói:

– Có điều tại hạ từ nhỏ côi cút không cha không mẹ, đáng thương hơn cô nương nhiều.

Miêu Nhược Lan đáp:

– Gia phụ mà biết huynh còn sống trên đời này thì dù phải vứt bỏ mọi thứ ông cũng nuôi nấng huynh. Thế thì chúng ta đã được gặp nhau từ nhỏ rồi.

Hồ Phỉ đáp:

– Nếu tại hạ sống trong gia đình cô nương, chỉ e lại bị cô nương ghét bỏ.

Miêu Nhược Lan cuống lên, nói:

– Không, không đời nào! Làm sao có chuyện đó? Nhất định muội sẽ đối xử rất tốt với huynh, giống như đối với ca ca ruột thịt của mình!

Hổ Phỉ nghe tim đập rộn lên, nói:

– Bây giờ mới gặp mặt nhau có muộn không?

Miêu Nhược Lan không đáp, một lúc sau mới khẽ nói:

– Không muộn đâu!

Miêu Nhược Lan ngượng một hồi rồi lại nói thêm:

– Muội rất mừng!

Xưa nay lòng luyến ái giữa nam nữ chỉ cần một lời là đủ truyền hết ý cho nhau.

Hồ Phỉ nghe được câu ấy thì mừng như điên, nói:

– Suốt đời Hồ Phỉ không dám phụ lòng!

Miêu Nhược Lan nói:

– Muội nhất định học theo Hồ bá mẫu chứ không học theo gia mẫu.

Mấy câu này nàng nói với vẻ ngây thơ nhưng ý tứ trong lời nói tỏ ra đã quyết, đó là cả đời mình trao cho Hồ Phỉ, bất kể xấu hay tốt, bất kể mai sau khổ hay sướng cũng đều chia xẻ với chàng.

Hai người nắm tay nhau, không nói gì, dường như sơn động bé nhỏ này là cả một thế giới của họ, mà quên hết mọi thứ ngoài kia.

Qua một lúc lâu, Miêu Nhược Lan mới nhắc:

– Chúng ta đi tìm gia phụ đi, đừng thèm để ý những người của Ðỗ trang chủ.

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm!

Tuy nói vậy, nhưng trong đời Hồ Phỉ chưa từng có được niềm hạnh phúc như vừa rồi, nên thực tình chàng không muốn rời sơn động. Miêu Nhược Lan cũng có cùng tâm trạng này, cảm thấy còn muốn nói chuyện với nhau, gần nhau thêm được chút nào hay chút ấy, bèn hỏi:

– Ðỗ trang chủ là bậc trưởng bối của huynh, sao huynh lại làm khó y?

Hồ Phỉ hầm hầm, nói:

– Việc này nói ra thật đáng hận. Lúc lâm chung, gia mẫu nhờ lệnh tôn trông nom nuôi nấng tiểu huynh thành người. Trong mớ tã lót của huynh, lão nhân gia có để lại một số di vật và một di thư, trong đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của tiểu huynh, quê quán họ Hồ, tên họ tổ tông cùng họ hàng thân thuộc còn sống. Sau đó xảy ra bất trắc, Bình Tứ thúc ẵm tiểu huynh chạy trốn. Tứ thúc tưởng lệnh tôn muốn hại huynh nên thấy trong di thư có tên họ của Ðỗ trang chủ bèn bế tiểu huynh tìm tới. Nào ngờ Ðỗ trang chủ sinh lòng xấu xa, muốn lấy quyển võ học bí truyền của gia phụ. Lão lại lờ mờ đoán rằng gia phụ cùng gia mẫu biết bí mật của kho tàng, nên đã lục soát số di vật mà mẹ huynh để lại cho huynh. Bình Tứ thúc biết chuyện không hay, suốt đêm bế tiểu huynh chạy trốn xuống khỏi núi, mang theo được quyển võ học bí truyền đó, nhưng gói di vật gia mẫu để lại cho tiểu huynh thì lại đánh rơi trên sơn trang. Lần này tiểu huynh hẹn với lão ta là muốn hỏi tại sao lão lại bắt nạt tiểu huynh, một đứa trẻ mồ côi, và muốn đòi lại số di vật của gia mẫu.

Miêu Nhược Lan nói:

– Ðỗ trang chủ xưa nay đối xử với người ôn hoà khiêm tốn, lại rất hiếu khách, không ngờ lại đối xử với huynh tồi tệ đến vậy.

Hồ Phỉ đáp:

– Con người này giả nhân giả nghĩa, chỉ nội việc lão mưu hại lệnh tôn đủ suy ra những việc khác…

Nói đến đây, giọng dịu hẳn lại, Hồ Phỉ nói:

– Nhưng bây giờ huynh không còn oán hận lão nữa. Nếu không có lão, làm sao huynh gặp được muội?

Đang nói đến đây, bỗng nghe văng vẳng ngoài sơn động có tiếng binh khí choảng nhau, xen kẽ với tiếng quát tháo chửi bới. Có điều những âm thanh cực trầm, cực nhỏ, Hồ Phỉ lờ mờ nhận ra được, còn Miêu Nhược Lan chỉ tưởng đó là tiếng gió lào xào lay tùng bách, tiếng tuyết rơi từ trên núi.

Hồ Phỉ nói:

– Tiếng này vang lên từ lòng đất, thật là lạ! Muội ở đây, huynh ra xem sao!

Nói xong đứng dậy. Miêu Nhược Lan vội nói:

– Không, muội đi theo huynh!

Hồ Phỉ cũng không muốn để nàng một mình trong sơn động, liền nói:

– Được!

Rồi cầm tay nàng ra khỏi sơn động, lần theo tiếng động mà đi.

Hai người thong thả đạp tuyết đi chừng mấy chục dặm. Hôm ấy là ngày rằm tháng ba, trăng đang độ tròn, ánh trăng bạc chiếu xuống ánh tuyết trắng bạc, lại phản chiếu trên làn da trắng ngần của Miêu Nhược Lan, đúng là cảnh tiên trên cõi nhân gian, nào biết đêm nay cái đêm gì? Lúc này Hồ Phỉ đã cởi áo ngoài của mình khoác lên vai Miêu Nhược Lan. Dưới ánh trăng, bốn mắt nhìn nhau, quên hết mọi chuyện, thật không còn gì vướng bận trong lòng.

Hai người thấy lòng êm dịu, những câu thơ vịnh về tình thâm gắn bó của người xưa bỗng từng câu giống như muốn thoát ra từ miệng hai người. Hồ Phỉ bất giác ngâm khẽ:

Cùng nhau cạn chén rượu mời

Nguyện xin được sống trọn đời bên nhau

Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn lên vào mắt chàng, khẽ ngâm theo:

Sắt cầm hòa điệu bền lâu

Tuổi càng cao lại càng sâu nghĩa tình

Ðó là lời đối đáp của một đôi vợ chồng trong Kinh Thi, tình ý miên man, đầm ấm vô hạn. Chợt tiếng người dưới lòng đất vang rõ hơn, hai người dừng bước, nghiêng tai lắng nghe.

Hồ Phỉ phân biệt thanh âm tinh hơn, nói:

– Bọn họ đã tìm được nơi cất giấu kho tàng, đang tranh giành chém giết nhau dưới đó.

Chàng đọc di thư của phụ thân, biết địa điểm kho tàng, đã từng vào đó mấy lần và lấy ra tờ giấy song thân để ở đó năm nào, lấy cả cây bút vàng của phụ thân Ðiền Quy Nông. Sáng hôm nay, chàng búng cây bút vàng cho Ðiền Thanh Văn là có ý cảnh cáo. Tuy biết rõ chỗ của kho tàng nhưng thể theo ý song thân, chàng không muốn khai quật nó. Lúc này căn cứ theo hướng tiếng động, chàng đoán bọn Bảo Thụ đã thấy châu báu vàng bạc mà đỏ mắt lên, đang tranh đoạt với nhau.

Hồ Phỉ đoán không sai một ly. Trong sơn động dưới đất, các bọn người của các phái Thiên Long môn, Ẩm Mã Xuyên sơn trại, Bình Thông tiêu cục đang chém giết nhau để tranh giành báu vật. Bảo Thụ khoanh tay đứng xem, chỉ cười nhạt, thầm nghĩ:

– Bọn mi cứ đâm chém nhau một hồi đi cho thỏa đi, rồi lão hoà thượng ta sẽ thong thả thu thập từng tên một.

Chu Vân Dương đang giằng co với Hùng Nguyên Hiến, hai người ôm nhau lăn lộn dưới đất. Bỗng cả hai lăn đến cạnh đống lửa. Lúc đầu cả hai đều muốn đè đối phương vào đống lửa, nào ngờ lăn lộn một lúc suýt nữa làm tắt cả lửa. Bảo Thụ mắng:

– Muốn chết cóng cả lũ hay sao mà dập lửa thế?

Lão thò chân phải móc dưới người Chu Vân Dương rồi hất tung cả hai người cùng bay lên rồi rơi bịch xuống đất.

Bảo Thụ cười khặc khặc, cúi xuống nhặt mấy thanh củi to bỏ thêm vào đống lửa. Ðang định thẳng lưng đứng lên, chợt thấy dưới ánh lửa bập bùng có hai bóng người rọi trên vách băng trước mặt. Hai bóng người này cùng đang chuyển động. Bảo Thụ giật mình quay lại nhìn, thì thấy ở cửa sơn động có hai người đứng sánh vai nhau, một người mặt có vẻ e lệ, đó là Miêu Nhược Lan, người kia râu ria tua tủa, ánh mắt lộ sát khí, đó là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.

Bảo Thụ “A!” lên một tiếng, vẫy tay phải ra, một xâu tràng hạt sắt bay đi. Tràng hạt lúc đầu ném ra liền như một chuỗi nhưng thực ra dây xâu đã bị lão ngắt từ trước, nên mấy chục hạt bỗng chia ra các hướng trên dưới, tả hữu nhắm vào các huyệt quan trọng trên người Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan. Ðây là tuyệt kỹ lão đã khổ luyện hơn mười năm, chỉ dùng trong lúc nguy cấp nhằm giữ tính mạng, chưa bao giờ dùng khi lâm địch. Lúc này, gặp đại địch, sự tình quá đột ngột, lão lập tức tung chiêu sát thủ này ra.

Hồ Phỉ cười nhạt một tiếng, bước tới một bước, che trước người Miêu Nhược Lan. Bảo Thụ thấy chàng không có công phu kì lạ nào chống đỡ thì cả mừng, thầm nghĩ:

– Thì ra ngươi chỉ làm bộ làm tịch, công phu chẳng qua có vậy. Phen này phải cho ngươi chết không đất chôn thây mới được!

Đang lúc đắc ý chợt thấy Hồ Phỉ vung hai tay áo ra, cuộn hết mấy chục hạt sắt đang vun vút bay tới, tay áo rũ mạnh, có tiếng lách tách như tiếng băng rơi, mấy chục viên sắt đã bay tạt cả sang vách băng, làm băng vỡ vụn bắn toé ra tứ phía.

Bảo Thụ thấy thế thì bở vía, vội vàng nhảy lùi ra phía sau Tào Vân Kỳ. Lão sợ Hồ Phỉ đuổi theo, liền hô lên:

– Hỏng rồi!

Hai tay chộp lấy lưng Tào Vân Kỳ, nhấc tấm thân cao lớn của hắn lên ném vào đống lửa. Lão định dập tắt lửa để Hồ Phỉ không thấy mình, nào ngờ đống lửa vừa được bỏ thêm củi khô đang rực cháy. Tào Vân Kỳ ngã vào lửa, lửa bén vào quần áo hắn khiến trong sơn động càng sáng hơn.

Hồ Phỉ thấy Bảo Thụ vừa thấy mình đã giở ngay độc thủ với mình và Miêu Nhược Lan, lại nghĩ tới những lời Bình A Tứ, đủ biết lão hoà thượng này bỉ ổi ham tiền, đã hại tính mạng phụ thân mình thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, chẳng khác gì đống lửa đang cháy trong sơn động vậy. Chàng cúi nhặt một vốc châu báu, đặt lên lòng bàn tay trái, dùng ngón tay trỏ bên phải không ngừng búng đi.

Chỉ thấy nào trân châu, san hô, bích ngọc, mã não, phỉ thuý, bảo thạch, ngọc mắt mèo… thôi thì đủ thứ vật quý hiếm bay như mưa nhắm vào người Bảo Thụ. Mỗi một thứ bắn tới đều khiến lão đau đớn kịch liệt. Bảo Thụ vọt lên, hụp xuống cố tránh, nhưng hễ ngón tay Hồ Phỉ búng ra, châu báu bắn tới đều thật chính xác, không chệch chút nào. Bảo Thụ làm sao tránh được. Người trong sơn động không ít, vậy mà số châu báu này không bắn trúng ai khác.

Nhìn thấy cảnh đó, bọn Lưu Nguyên Hạc, Ðào Bách Tuế đều nép sát người vào vách động không dám động đậy. Lúc đầu Bảo Thụ còn né đông tránh tây, sau mắt cá chân trúng liền hai viên ngọc bích, lão ngã ngay xuống, không đứng dậy được, đành kêu la lăn lộn dưới đất. Lúc nãy, lão chỉ sợ châu báu không nhiều, lúc này lão lại mong châu báu càng ít càng hay.

Hồ Phỉ càng búng kình lực càng lúc càng nặng, nhưng cố ý tránh những chỗ nguy hiểm đến tính mạng, để cho lão nếm đủ mùi cay đắng. Những người kia lùi cả vào một góc động, chăm chú nhìn xem, ai nấy hồn xiêu phách lạc, tay chân bủn rủn, ngay cả thở cũng không dám thở mạnh.

Miêu Nhược Lan thấy Bảo Thụ kêu la thê thảm quá, trong lòng không nỡ, bèn nói nhỏ:

– Người này rất xấu xa, nhưng lão bị thế cũng đủ rồi, huynh tha cho lão đi!

Bình sinh Hồ Phỉ đã trừ ác là trừ tận gốc, huống hồ người này chính là đại cừu nhân đã giết hại chết cha mẹ mình, nhưng vừa nghe Miêu Nhược Lan nói, chàng bỗng thấy mình đã được hưởng hạnh phúc cực lớn, vui vẻ vô tận, nên lòng căm giận tên đại ác nhân cũng vơi đi nhiều. Chàng bèn vung tay trái ra, hơn mười mảnh ngọc quý còn lại trên tay bắn ra, kêu lách tách một trận, găm hết vào trong vách băng.

Mọi người đều kinh hãi quá mức, thầm nghĩ: “Số châu báu ấy nếu cho Bảo Thụ nếm mùi, thì chỉ một mảnh thôi cũng đủ lấy mạng lão!”.

Hồ Phỉ trừng mắt quét từ trái sang phải, ánh mắt lướt đến mặt người nào, người ấy bất giác cúi gầm xuống, không dám chạm ánh mắt chàng. Trong hang im lặng như tờ, Bảo Thụ tuy cả người đau đớn nhưng không dám rên nửa tiếng.

Một lúc sau, chàng quát:

– Các vị tham châu báu đến thế thì ở lại trong động này mà làm bạn với châu báu nhé!

Nói xong chàng dắt tay Miêu Nhược Lan quay gót bước ra.

Cả bọn không ngờ chàng chịu buông tha bon họ dễ dàng đến thế, ai nấy đều mừng rỡ nhìn ra, khi nghe tiếng bước chân của hai người xa dần trong đường hầm. Họ cùng reo hò, rồi cúi xuống nhặt châu báu.

Hồ Phỉ cùng với Miêu Nhược Lan ra tới ngoài hai khối đá tròn, Hồ Phỉ nói:

– Chúng mình ngồi đây đợi một lát xem họ có chịu ra không. Ai ít lòng tham, chịu ra ngoài thì tha mạng người đó.

Lúc này trong động mọi người dùng tay bới nhặt lung tung, chỉ giận cha mẹ không sinh cho mình thêm vài cái tay nữa. Một lúc lâu sau, bỗng trong đường hầm vang lên mấy tiếng ầm ầm nặng nề, lúc đầu bọn họ không hiểu, sau mới nghĩ ra thì ai nấy đều hoảng sợ, mặt mày xám xịt, cùng la lên:

– Trời ơi, nguy mất rồi!

– Hắn lấp chặt lối ra rồi!

– Mau đuổi theo liều mạng với hắn!

Trong lúc nguy cấp, mọi người tranh nhau ùa ra. Ðến được chỗ hai tảng đá tròn thì hai tảng đá đó đã bị Hồ Phỉ đẩy về chỗ cũ, bít hết cửa động.

Cửa động rất hẹp, bên ngoài còn có chỗ để đẩy, còn phía trong chỉ đủ chỗ cho một người đứng. Mặt đá lại trơn bóng, không bám vào đâu được mà xê dịch, bị lấp kín như thế này, chỉ một lúc sau số nước băng sẽ đông cứng lại, nếu bên ngoài không có người đến cứu thì người trong hang động không sao thoát ra ngoài được.

Miêu Nhược Lan thấy không nỡ, nói:

– Huynh định chôn sống bọn họ hay sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Muội nói đi, trong số đó ai là người tốt, đáng được tha mạng nào?

Miêu Nhược Lan thở dài, nói:

– Trên đời này, ngoài gia phụ và huynh ra, muội không còn biết ai thực sự là người tốt cả. Nhưng huynh không thể giết hết kẻ xấu trong thiên hạ được.

Hồ Phỉ ngẩng người, hỏi:

– Tiểu huynh cũng được kể là người tốt sao?

Miêu Nhược Lan ngẩng đầu lên nhìn chàng, đáp:

– Muội biết huynh là người tốt. Khi chưa gặp huynh, muội đã biết rồi kia! Ðại ca, đại ca có biết trái tim muội đã thuộc về đại ca tự lúc nào rồi không?

Ðây là lần đầu tiên nàng buộc miệng gọi chàng là “đại ca”, nhưng âm thanh nghe thật tự nhiên, dường như đã thuận miệng quen gọi như thế từ rất lâu. Hồ Phỉ không sao kềm chế được nữa, dang tay ra ôm chặt lấy nàng. Miêu Nhược Lan cũng vòng tay ôm lại, tựa cả người vào lòng chàng. Hai người ôm lấy nhau, chỉ mong sao giây phút này kéo dài vô tận.

Hai người ôm nhau như thế không biết đã được bao lâu thì ngoài cửa động truyền vào tiếng bước chân. Hồ Phỉ thầm nghĩ:

– Hỏng rồi, mình lấp cửa đường hầm để chôn sống bọn kia thì lại có con chim sẻ rình con bọ ngựa bắt con ve, có kẻ khác lấp cửa động chôn sống mình!

Tay vẫn ôm Miêu Nhược Lan không buông ra, Hổ Phỉ gấp rút đưa nàng ra khỏi động.

Dưới ánh trăng, họ thấy trên tuyết có hai người ra sức chạy trối chết, hiển nhiên là các hào khách võ lâm đã động thủ với Hồ Phỉ trên đỉnh Tuyết sơn. Chàng cười, bảo:

– Lệnh tôn đang đuổi bọn chúng chạy đấy.

Chàng cúi xuống vốc một nắm tuyết, vận kình ra ngón tay nắm tuyết thành hòn cứng như đá. Chàng vung tay ra, hòn tuyết bay thẳng tới, trúng vào lưng một người. Người đó ngã chúi xuống không đứng dậy được. Người chạy sau thất kinh, ngoái cổ lại nhìn, thì một hòn tuyết khác bay trúng vào ngực, lập tức ngã ngửa ra. Tuy hai người té hai kiểu ngã khác nhau, nhưng cả hai đều không sao đứng dậy được.

Hồ Phỉ cười ha hả, rồi bỗng dịu giọng hỏi:

– Trái tim muội thuộc về tiểu huynh từ khi nào? Tiểu huynh nghĩ chắc không thể sớm hơn tiểu huynh được. Ngay lúc mới lần đầu nhìn thấy muội, tiểu huynh… tiểu huynh đã không còn làm chủ được bản thân nữa.

Miêu Nhược Lan thủ thỉ:

– Mười năm trước, khi mới lên bảy, muội nghe gia gia kể về song thân của đại ca, lòng muội chỉ toàn nghĩ tới đại ca. Muội tự nhủ, nếu cậu bé đáng thương đó còn sống trên đời này thì muội sẽ chăm sóc cho cậu ta suốt đời suốt kiếp, để cậu ta đưọc sung sướng, hạnh phúc, quên thủa nhỏ đã bị người ta bắt nạt, xử tệ sao đó.

Hồ Phỉ cảm kích trong lòng, không biết nói gì, chỉ biết ôm chặt nàng vào lòng. Mắt nhìn qua vai nàng, bỗng chàng thấy trên đỉnh Tuyết sơn có mấy bóng đen đang bám dây tuột xuống.

Hồ Phỉ kêu lên:

– Chúng mình chặn bọn xấu xa này cho lệnh tôn nhé!

Nói xong, chàng vận kình vào bàn chân rồi ôm Miêu Nhược Lan vụt chạy, chốc lát đã tới chân đỉnh Tuyết sơn.

Lúc này hai tên tào khách đã xuống tới chân núi, mấy người khác đang gấp rút tuột xuống theo. Hồ Phỉ đặt Miêu Nhược Lan xuống, song thủ nắm hai hòn tuyết rồi cùng lúc vung ra, hai tên hào khách la “oái” lên một tiếng ngã liền xuống đất.

Hồ Phỉ đang định vung hòn tuyết đánh bọn chưa xuống tới đất, chợt nghe lưng chừng núi có tiếng người nói vọng xuống:

– Ta thả chúng đi đấy, người ngoài đừng có cản!

Từng tiếng một trong hai câu này vang từ lưng chừng núi xuống, giọng vang lớn và rất rõ, chính là tiếng của Miêu Nhân Phượng.

Miêu Nhược Lan mừng rỡ gọi:

– Gia gia! Gia gia!

Hồ Phỉ nghe tiếng nói ấy xa ngoài trăm trượng nhưng âm thanh truyền tới chẳng khác nào người nói ở ngay trước mặt, thấy nội lực Kim Diện Phật quả thực thâm hậu hơn mình, bất giác rất khâm phục. Chàng vung hai tay ra, hai hòn tuyết nằm trong tay chàng lại cùng bay đi, lại trúng vào huyệt đạo hai người nằm dưới đất, nhưng lần trước là điểm huyệt, lần này là giải huyệt. Hai người này cựa mình mấy cái rồi chống tay đứng lên, bỏ chạy như điên.

Nghe tiếng Miêu Nhân Phượng từ lưng chừng núi lại vang lên:

– Quả nhiên hảo công phu, chỉ tiếc là học chưa đến nơi!

Lời bình gồm mười mấy chữ, mỗi tiếng lại gần thêm ra, rồi một người cao gầy bám thừng tụt xuống. Chữ “nơi” vừa ra khỏi miệng thì người này đã đứng ngay trước mặt Hồ Phỉ.

Hai người giương mắt nhìn nhau, đều không nói gì, chỉ nghe xung quanh tiếng lạo xạo, đó là tiếng bước chân trên tuyết của những kẻ lên núi lần này được thoát chết chạy tứ tán.

Dưới ánh trăng, thấy một người khập khiễng bước tới gần, chính là Đỗ trang chủ Ðỗ Hi Mạnh. Lão đưa một cái bọc dài chừng hai gang tay cho Hồ Phỉ, run run nói:

– Ðây là di vật của mẫu thân tiểu diệt, trong này không thiếu một thứ gì, tiểu diệt hãy nhận lấy đi!

Hồ Phỉ nhận lấy cái bọc, cảm thấy như có một luồng hơi nóng từ nó truyền vào tim, khiến chàng run rẩy cả người.

Miêu Nhân Phượng nhìn theo bóng Ðỗ Hi Mạnh đang lê bước xa dần trên tuyết, thầm nghĩ người này văn võ toàn tài, kết giao khắp thiên hạ, cũng xem như một hào kiệt, giao tình với mình đã hơn hai mươi năm, chỉ vì một niệm sai lầm mà thân bại danh liệt, thực đáng tiếc. Ông không biết Ðỗ Hi Mạnh và mẹ Hồ Phỉ là chỗ họ hàng gần gũi, càng không biết Hồ Phỉ là đứa con côi mà mình thương nhớ không quên trong hơn hai chục năm qua. Ông thong thả quay người lại, thấy con gái mình đang khoác áo đàn ông thẹn thùng đứng trên tuyết. Thầm nghĩ, người này tuy vừa cứu mình thoát chết, nhưng lại làm hoen ố sự thanh bạch của con gái mình, lại nhớ đến chuyện người vợ thất tiết đã mất, hận không thể giết hết bọn đàn ông vô hạnh khinh bạc trong thiên hạ. Nghĩ đến đây ngực Miêu Nhân Phượng như muốn vỡ ra, khàn khàn bảo Hồ Phỉ:

– Đi theo ta!

Nói xong sải chân bước đi.

Miêu Nhược Lan kêu lên:

– Gia gia, Hồ đại ca là…

Miêu Nhân Phượng vốn trầm mặc ít nói, xưa nay không thích nói thừa dù chỉ một tiếng, cũng không thích nghe thừa một lời nào, lúc này lại đang cơn giận bèn không cho con gái nói nữa. Thấy Hồ Phỉ đưa tay toan dắt con gái mình đi theo, ông quát to:

– To gan thật!

Miêu Nhân Phượng lướt tới giơ tay trái lên, bàn tay to bè bè như chiếc quạt nắm chặt lấy cánh tay trái của Hồ Phỉ, nói:

– Lan Nhi, con đứng đây. Ta có mấy câu cần nói với y.

Nói rồi chỉ một ngọn núi bên phải. Ngọn núi này tuy không cao vút tận mây như ngọn Ngọc Bút, nhưng phần nguy nga hiểm trở cũng chẳng kém là bao. Ông bỏ cánh tay Hồ Phỉ ra, chạy nhanh lên núi. Hồ Phỉ nói:

– Lan muội, lệnh tôn đã nói như vậy, tiểu huynh phải đi một lát đây. Muội đợi ở đây nhé!

Miêu Nhược Lan nói:

– Ðại ca nhận lời với muội một việc…

Hồ Phỉ đáp:

– Ðừng nói một việc, ngàn việc vạn việc huynh cũng theo ý muội cả.

Miêu Nhược Lan nói:

– Nếu gia gia muốn đại ca lấy muội…

Hai tiếng cuối cùng nhỏ như tiếng muỗi kêu cơ hồ không nghe được, nàng cúi mặt xuống, thẹn không ngửa mặt len.

Hồ Phỉ trao cái bọc vừa nhận từ Ðỗ Hi Mạnh lúc nãy cho Miêu Nhược Lan, dịu giọng nói:

– Muội yên tâm. Tiểu huynh giao di vật của gia mẫu cho muội. Trong thiên hạ không còn một vật ước định nào trang trọng như vật này cả.

Miêu Nhược Lan nhận lấy cái bọc, bất giác toàn thân run rẩy, khẽ nói:

– Tất nhiên muội tin huynh rồi, có điều muội hiểu tính gia gia. Nếu gia gia giận dữ thậm chí đánh mắng huynh, thì xin huynh hãy vì muội mà nhường nhịn gia gia lần này.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Ðược, tiểu huynh nhận lời!

Nhìn ra xa, bóng Miêu Nhân Phượng lúc ẩn lúc hiện giữa những mõm đá phủ tuyết trắng, đang chạy cực nhanh lên đỉnh núi. Hồ Phỉ hôn nhẹ lên má Miêu Nhược Lan, rồi đề khí chạy theo Miêu Nhân Phượng.

Chàng theo dấu chân trên tuyết mà chạy lên núi, ngoặt qua mấy khúc quanh co, thấy đường lên mỗi lúc càng hiểm trở, không dám sơ ý, chỉ e sẩy chân một cái là thịt nát xương tan. Chạy đến đoạn sau, vách núi đều là băng tuyết đông cứng, rất trơn, không có chỗ để chân bám mà lên. Chàng thầm nghĩ:

– Miêu đại hiệp cố ý chọn đường núi hiểm trở này hẳn là muốn kiểm tra võ công của mình đây!

Rồi triển khai khinh công, dốc toàn lực ra thi thố, đường núi càng hiểm trở chàng chạy càng nhanh. Lại chuyển qua một khúc ngoặt nữa, chàng bỗng thấy bóng người cao gầy đứng trên một phiến đá lồi ra bên vách núi, hình dáng nổi bật trên nền trời xanh thẫm như một cây cổ thụ khô cằn, chính là” Đả biến thiên hạ vô địch thủ” Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng

Hồ Phỉ sững người, vội vàng dừng bước, hai chân sử dụng công phu “Thiên cân trụy”, người vững chãi bên vách núi thẳng đứng. Miêu Nhân Phượng trầm giọng nói:

– Tốt, ngươi có giỏi thì tới đây!

Ông quay lưng về phía mặt trăng, mặt âm trầm nên không nhìn rõ được thần sắc.

Hồ Phỉ thở ra một hơi, đối diện với người mà mình đã nghĩ tới ngàn vạn lần này, nhất thời chàng không biết tính sao cho phải:

– Ông ta là kẻ thù giết cha ta nhưng lại là phụ thân của Miêu Nhược Lan. Ông đã khiến ta một đời côi cút buồn đau, nhưng nghe Bình Tứ thúc thúc nói ông hào hiệp trượng nghĩa, không hề có ý gì không phải với song thân mình. Ông lấy hiệu là “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, võ công cái thế, nhưng ta chưa phục, muốn thử xem ông mạnh hay ta mạnh?

Nhà họ Miêu của ông với nhà họ Hồ ta là thù địch nhiều đời, trăm năm nay đối đầu không dứt, nhưng ông không truyền võ công cho con gái, phải chăng thật lòng mong muốn mối thù truyền kiếp này đến đời ông thì cởi bỏ? Mới hồi nãy ta cứu tính mạng của ông, nhưng chính mắt ông thấy Miêu Nhược Lan chung chăn chung giường với ta, tin chắc ta đã giở trò vô lễ với con gái ông, không biết ông có tha lỗi cho ta không?

Miêu Nhân Phượng thấy dáng vẻ hào kiệt thô kệch, râu ria tua tủa của Hồ Phỉ thì mường tượng ra dáng vẻ Hồ Nhất Ðao năm xưa, trong lòng rung động, nhưng sau đó lại nhớ con trai Hồ Nhất Ðao đã bị người ta hại, ném xuống sông ở Thương Châu rồi. Người này tướng mạo khá giống, có lẽ là ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Lại nghĩ đến chuyện hắn làm nhục con gái yêu độc nhất của mình thì lửa giận bừng bừng. Tay trái vung lên, tay phải đấm vù một cái, phóng thẳng tới ngực Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ chỉ đứng cách có vài bước chân, thấy Miêu Nhân Phượng vung quyền đánh tới, thế cực kỳ uy mãnh, đành xuất chưởng ra đỡ. Hai người quyền, chưởng giao nhau, hai bên đều thấy chấn động trong người.

Miêu Nhân Phượng từ khi so tài với Hồ Nhất Ðao đến nay, hơn hai chục năm qua chưa gặp được địch thủ nào, lúc này đường quyền của mình bị Hồ Phỉ hóa giải, biết đối phương luyện được chưởng pháp tinh diệu và nội lực thâm hậu, thì lòng hiếu thắng càng tăng. Ông vận chưởng thành luồng gió, liên tiếp ra liền ba chiêu.

Hồ Phỉ lần lượt hoá giải, đến chiêu thứ ba thì chưởng lực của Miêu Nhân Phượng cực mạnh, chàng tuy nhanh nhẹn né tránh nhưng người cũng lảo đảo mấy cái, suýt nữa rơi xuống vực. Hồ Phỉ thầm nghĩ:

– Nếu nhường nhịn nữa thì ông ta sẽ ép mình rơi chết mất thôi!

Thấy Miêu Nhân Phượng phi chân trái đá thẳng vào bụng dưới, Hồ Phỉ lập tức tay phải ra quyền, tay trái ra chưởng cũng đánh vỗ vào mặt đối phương. Chiêu đánh này khiến kẻ địch không thể không lui, cốt để hoá giải cú đá chân trái của đối phương.

Chiêu này tuy Hồ Phỉ ra tay rất nặng nhưng chưa phải toàn lực. Có điều cao thủ tỉ võ không hề có chút nhường nhịn. Miêu Nhân Phượng giơ cánh tay đón đỡ với mười thành công lực. Bốn cánh tay chạm nhau, hai tiếng tiếng “cạch cạch”. Hồ Phỉ thấy ngực âm ẩm đau, vội vàng vận khí chống đỡ.

Nào ngờ quyền pháp Miêu Nhân Phượng cương mãnh vô song, một khi đã chiếm lợi thế thì thế quyền ra càng lúc càng mạnh, không để cho địch nhân có cơ hội lấy hơi. Nếu ở chỗ đất bằng, Hồ Phỉ có thể nhảy ra khỏi vòng đấu, chạy mấy bước để tránh luồng chưởng phong của ông ta, sau đó quay trở lại đấu tiếp. Nhưng ở nơi vách đá dựng đứng này, thực là không có đất để lùi, chàng đành nghiến chặt răng, sử dụng “Xuân tàm chưởng pháp”, che kín những chỗ trọng yếu trên toàn thân.

Mọi chiêu trong “Xuân tàm chưởng pháp” đều là thế thủ, ra tay cực ngắn, tay đánh giơ chân đá không quá hai gang tay, nhưng chiêu pháp nghiêm mật vô song, toàn thân không hề lộ một chút sơ hở nào. Lộ chưởng pháp này vốn dùng khi bị người vây đánh trong tình thế bất lợi, không mong tấn công mà chỉ cần không sơ hở mà thôi. Tuy chưởng pháp này thủ rất kín đáo nhưng có một điểm hết sức bất lợi là ngay từ đầu đã đứng ở thế “không thắng” .Tên gọi “Xuân tàm chưởng pháp” có nghĩa là con tằm nhả tơ tự trói buộc mình, không thể phản kích, cho dù trong chiêu số của kẻ địch có sơ hở lớn đến mấy. Nếu không thay đổi chưởng pháp thì vĩnh viễn khó mà đánh thắng đối thủ được.

Miêu Nhân Phượng ra chiêu mỗi lúc một gấp, thấy đối phương ở trong tình thế rất bất lợi, nhưng dù ông có tấn công mạnh mẽ đến bao nhiêu, Hồ Phỉ cũng có cách hoá giải. Có điều chàng chỉ giữ thế thủ chứ không phản kích, thành thử ông không hề gặp nguy hiểm, bèn không cần phòng ngự nữa dốc toàn lực ra tấn công.

Ðánh nhau đang lúc say sưa, Miêu Nhân Phượng tung ra một quyền, Hồ Phỉ tránh được, quyền đó đánh vào vách núi, băng tuyết văng tung toé, một mảnh nhỏ văng bắn vào mi mắt trái của chàng. Mi mắt là chỗ mềm nhất, lần này ngoài dự liệu, khó phòng bị nên Hồ Phỉ thấy mắt đau nhói nhưng không dám giơ tay lên giụi, quyền cước thế là chậm đi. Miêu Nhân Phượng thừa thế xông tới, tựa người vào vách núi, bức Hồ Phỉ ra mé ngoài.

Lúc này thế ưu liệt đã rõ ràng, Hồ Phỉ nửa người lơ lửng, bàn chân phải hơi dịch ra, chỉ cần người hơi đứng không vững là rơi xuống sơn cốc ngay. Miêu Nhân Phượng lưng hướng vách núi, chiêu nào cũng bức đối phương phải lấy cứng chọi cứng. Nhưng Hồ Phỉ cực kỳ lanh lẹ, vẫn không nao núng, xuất thủ mềm dẻo trơn tru, cố sức hóa giải, quyết không đối đầu trực tiếp.

Nếu so võ công của hai người, ở trong điều kiện ngang nhau mà giao đấu, chưa chắc Hồ Phỉ đã thắng Miêu Nhân Phượng, hiện giờ thêm nhiều điểm bất lợi, làm sao có thể chống đỡ lâu được? Lại đấu thêm mấy chiêu, Miêu Nhân Phượng bỗng nhảy lên, liên tiếp tung ra ba cước. Hồ Phỉ tức tốc né tránh, nhưng thấy cước thứ ba của đối thủ vừa qua thì song quyền cùng xuất ra, đánh thẳng vào ngực mình. Hai quyền này khó mà hóa giải, chỗ Hồ Phỉ đứng lại không thể xoay trở tránh né, chàng đành cử song quyền lấy cứng chọi cứng để tiếp chiêu.

Bốn quyền chạm nhau, Miêu Nhân Phượng thét lớn một tiếng, kình lực ra tới chưởng tâm. Hồ Phỉ dao động thân mình, vội vàng vận kình phản kích. Hai người đều dồn hết công lực bình sinh vào hai lòng bàn tay. Đây là chiêu pháp lấy chứng chọi cứng, không một chút xảo thuật. Hai người khí tụ đan điền, bốn mắt nhìn nhau, không động đậy.

Miêu Nhân Phượng thấy võ công chàng cao như vậy thì không khỏi ngầm kinh hãi, thầm nghĩ:

– Mấy năm gần đây trên giang hồ im ắng, ngờ đâu trong võ lâm lại xuất hiện một nhân vật lợi hại thế này!

Ông hơi rùn hai chân, lưng đã tựa vào vách núi, một tay thu một tay đẩy, trước tiên dẫn chưởng lực của Hồ Phỉ qua một bên, sau đó mượn lực của vách núi xô mạnh ra, quát lớn:

– Rơi xuống!

Cú xô này kình lực mạnh mẽ tuyệt luân, lại mượn thêm sức phản kích của vách núi, càng khó mà chống đỡ. Hồ Phỉ thân ngươi chao mấy cái, chân trái đã hụt hẫng, nhưng hạ bàn chàng vẫn ổn định, thật không thể nào ngờ, chân phải chàng vẫn đứng vững trên bờ vực giống như một cây cọc thép. Miêu Nhân Phượng xô liên tiếp ba lần, nhưng cũng chỉ làm cho người chàng dao động, mà không thể khiến chân phải của chàng xê dịch được nửa phân.

Miêu Nhân Phượng ngầm kinh hãi và thán phục, nghĩ bụng:

– Công phu như thế có thể nói trên đời hiếm có, đáng tiếc đi lầm vào con đường tà. Tuổi hắn còn trẻ, hôm nay nếu không giết hắn, ngày sau chắc gì ta đối đầu với hắn nổi. Hắn mà thị mạnh làm ác thì trên đời này có ai khống chế hắn nổi?

Nghĩ thế, ông bỗng nhấc chân trái tung một cước, xuất chiêu “Phá bi cước”, đá mạnh vào đầu gối phải của Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ toàn thân chỉ trụ trên một chân, thấy Miêu Nhân Phượng đạp cước tới mà không có cách nào tránh được thì than thầm:

– Thôi rồi! Thôi rồi! Rốt cuộc hôm nay mình lại mất mạng dưới tay ông ta!

Trong lúc nguy cấp, cầu sống trong cái chết, chàng đạp chân phải một cái, người vọt lên hơn một trượng rồi lộn ngược như con diều hâu bổ từ trên không xuống. Miêu Nhân Phượng kêu to:

– Hay lắm!

Rồi dùng vai đầu hích mạnh ra. Song quyền của Hổ Phỉ đánh trúng vai đầu của ông ta, nhưng bị ông ta hích mạnh, bắn ra khỏi bờ vực rơi thẳng xuống dưới.

Hồ Phỉ cười thê thảm, một ý nghĩ tóe lên trong đầu như tia chớp:

– Ta từ nhỏ mồ côi khổ sở, nhưng trước khi chết được Lan muội yêu thương, thế cũng không uổng một đời.

Bỗng cánh tay chàng bị nắm chặt, cú rơi lập tức dừng ngay lại, thì ra Miêu Nhân Phượng đã kịp chộp lấy cánh tay chàng, kéo lên. Ông quát:

– Ngươi đã từng cứu tính mạng ta, bây giờ ta tha cho ngươi để đáp lại. Một mạng đổi một mạng, chẳng ai nợ nần ai. Nào, chúng ta đánh tiếp đi!

Nói rồi đứng sang một bên, song song với Hồ Phỉ, không chiếm lợi thế dựa vào vách núi nữa.

Hồ Phỉ từ trong cõi chết trở về, không còn ý chí chiến đấu nữa, chắp tay nói:

– Vãn bối không phải là đối thủ của Miêu đại hiệp, còn tỉ thí làm gì? Miêu đại hiếp muốn xử trí như thế nào, vãn bối xin nghe theo là được rồi.

Miêu Nhân Phượng chau mày, nói:

– Lúc đầu ra tay ngươi có ý nhường, lẽ nào ta không biết? Ngươi khinh Miêu Nhân Phượng ta tuổi cao sức yếu, không đáng đối thủ của ngươi chăng?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối không dám.

Miêu Nhân Phượng quát:

– Xuất chiêu đi!

Hồ Phỉ muốn giải thích việc mình cùng giường chung chăn với Miêu Nhược Lan chỉ là chuyện bất ngờ, tuyệt không có ý khinh bạc, bèn nói:

– Chuyện trong gian phòng ấy…

Miêu Nhân Phượng vừa nghe thấy hai tiếng “gian phòng” thì lửa giận bùng cháy, vỗ luôn một chưởng vào giữa mặt chàng. Hồ Phỉ đành đón đỡ. Trải qua cuộc so tài lúc rồi, chàng biết chỉ cần hơi nhượng bộ thì lập tức bị chưởng lực của ông ta chộp lấy ngay, nên đành dốc toàn lực ra thi triển. Hai người đều thí thố tuyệt nghệ bình sinh, quyền qua cước lại trên bờ vực, vừa đấu trí, vừa đấu lực, đấu quyền pháp, đấu nội công, qua hơn ba trăm chiêu cũng chưa phân thắng bại.

Miêu Nhân Phượng càng đánh càng thấy ngờ ngợ, không ngớt nhớ lại cuộc tỉ thí giữa mình và Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu năm nào. Ông đột ngột nhảy lùi ra sau hai bước, la lên:

– Dừng tay! Ngươi có biết Hồ Nhất Ðao không?

Hồ Phỉ nghe nhắc tới tên tiên phụ, nỗi buồn hận ngổn ngang trong lòng, nghiến răng nói:

– Hồ đại hiệp là anh hùng tiền bối, không may bị kẻ gian giết hại. Nếu vãn bối có phúc lão nhân gia dạy bảo mấy câu thì dù chết ngay cũng cam lòng.

Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ:

– Phải rồi, Hồ Nhất Ðao đã mất đã hai mươi bảy năm. Người này chẳng qua cũng chỉ ngoài hai mươi tuổi, sao quen biết được? Hắn nói mấy câu nghe được lắm, nếu không vì hắn làm nhục Lan Nhi thì chỉ nghe mấy câu đó thôi, ta đã muốn kết giao bằng hữu rồi.

Rồi thuận tay, ông bẻ hai cành cây cứng cáp bên núi, nhắc nhắc thấy nặng bằng nhau, ném một cành cho Hồ Phỉ, bảo:

– Chúng ta giao đấu, quyền cước đã khó phân cao thấp, dùng binh khí để quyết sống chết vậy!

Nói rồi cầm cành cây nhứ một cái, tay trái biến thành kiếm quyết, tay phải đâm cành cây tới giống như kiếm đâm ra, đúng là Miêu gia kiếm pháp tuyệt nghệ chốn võ lâm, thiên hạ vô song. Tuy là một cành cây nhỏ nhưng khi đâm tới, thế kiếm kéo theo kình phong, vừa lợi hại vừa chuẩn xác, nếu bị đầu nhọn cành cây đâm trúng thì không khác gì bị mũi kiếm đâm trúng.

Hồ Phỉ thấy thế kiếm lợi hại, chẳng dám sơ suất, vung cành cây, hoành ngang lên đỡ. Thế đỡ này trong cương có nhu, đúng là thủ pháp bậc danh gia. Miêu Nhân Phượng sững sờ, thầm nghĩ:

– Sao võ công của hắn lại giống hệt Hồ Nhất Ðao như thế?

Nhưng khi các cao thủ giao đấu, đao kiếm đã chạm nhau thì sau đó chiêu thức phải tung ra tới tấp, quyết không cho đối phương rảnh tay mà nghĩ ngợi. Thấy Hồ Phỉ đưa cành cây lên đỡ, sau đó hất lên. Miêu Nhân Phượng huơ kiếm phản kích, khiến chàng không thể không rút đao về đón đỡ.

Hồ Phỉ cả đời chưa từng trải qua trận đấu nào ác liệt như thế. Võ công của chàng toàn dựa vào quyển sách do phụ thân truyền lại mà luyện tập thành tựu, chiêu số tuy tinh diệu nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, công lực tuổi trẻ nên hỏa hầu còn hạn chế, chưa đạt tới mức thượng thừa. May nhờ trẻ tuổi trai tráng, tinh lực hơn hẳn đối phương, nên trong vòng mấy chục chiêu vẫn bất phân thắng bại.

Cả hai đều gặp phải những chiêu cực hiểm, nhưng đều biết dùng những chiêu số khéo léo hoá giải trong những lúc nguy cấp. Hồ Phỉ đấu say sưa mà cảm phục trong lòng:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp quả nhiên danh bất hư truyền, nếu ông ta trẻ lại hai mươi tuổi thì ta thua lâu rồi. Thảo nào năm xưa ông đấu ngang với gia gia ta, đúng là anh hùng thực sự!

Hai người biết nếu chỉ dựa vào chiêu số thì không dễ gì thắng được đối phương, mà phải chiếm được địa thế thuận lợi là dựa lưng vào vách núi thì mới mong thắng trong trận tỉ võ này. Vì thế cả hai đều cố hết sức dồn đối phương ra mép vực để giành lấy lợi thế. Nhưng cả hai đều ra chiêu rất nghiêm mật, chỉ cần người nào bước nửa bước vào phía trong là lập tức bị đối phương đâm trúng ngay.

Ðánh đến lúc như say, Miêu Nhân Phượng xuất chiêu “Hoàng long chuyển thân thổ tu thế”, đâm vụt vào ngực đối phương, mắt thấy chàng không có chỗ tránh né, mà cây đao que lại đang chém xuống mé ngoài, không kịp thu về cứu.

Hồ Phỉ thất kinh, vội giơ tay trái gạt ngang kiếm que của Miêu Nhân Phượng, tay phải ra chiêu “Phục hổ thức” chém xuống. Miêu Nhân Phượng buộc miệng kêu:

– Hay lắm!

Rồi rung kiếm khiến mấy ngón tay trái Hồ Phỉ tê buốt, vội vàng buông ra.

Miêu Nhân Phượng dấn thêm nửa bước, đang tính đâm chiêu “Thương bộ trích tinh thức”, nào ngờ vách đá cứng bên bờ vực bị họ giẫm đạp đã lâu, lúc này dần nứt lở ra. Thế kiếm của ông hướng tới phía trước, trọng lượng toàn thân dồn cả xuống chân trái phía sau, nghe hai tiếng “lắc rắc” vang lên, thế là một tảng đá kéo theo băng tuyết lao nhanh xuống vực.

Miêu Nhân Phượng bị hụt chân, cả người bất giác cũng rơi xuống. Hồ Phỉ hoảng quá vội đưa tay kéo lên. Có điều thế rơi của Miêu Nhân Phượng rất mạnh nên tuy Hồ Phỉ nắm được tay áo ông kéo lên nhưng cả hai níu kéo nhau khiến chàng cũng ngã ra ngoài mép vực. Hai người không hẹn mà cùng lộn người trong không trung, nép vào sát vách núi, thi triển công phu “Bích hổ du tường” để bò lên núi. Nhưng vách núi băng tuyết bám đầy, trơn vô cùng, khiến công phu “Bích hổ du tường” không sao thi triển được. Đừng nói con người, mà ngay cả loài thằn lằn thật e rằng cũng không thể bò lên nổi. Tuy bò lên chẳng được nhưng thế rơi nhờ đó mà chậm đi.

Hai người từ từ rơi xuống. Thấy rơi thêm độ hơn mười trượng nữa là một phiến đá nhô lơ lửng ra ngoài, họ thấy nếu rơi không đúng xuống phiến đá này thì cả hai chỉ thịt nát xương tan. Ý nghĩ đang xoay chuyển trong đầu thì họ đã rơi được trên phiến đá. Võ công hai người ngang nhau, ý nghĩ cũng giống nhau, bèn cùng thi triển công phu “Thiên cân trụy” để đứng được vững vàng.

Mặt phiến đá rất nhẵn, bị băng phủ lại càng trơn hơn. Nhưng hai người võ công cao cường, vừa rơi xuống đã định thần, nên không trượt lấy nửa bước. Chợt nghe tiếng răng rắc khẽ vang lên, phiến đá nặng hàng mấy trăm cân rung nhè nhẹ. Thì ra phiến đá này nhô ra sườn núi đã nhiều năm, đá vụn bên dưới rơi rụng dần, vốn dĩ có thể rơi xuống lúc nào không biết. Nay thêm trọng lượng của hai người nữa khiến đá vụn xen lẫn băng rơi lả tả, phiến đá mỗi lúc một rung nhiều hơn.

Hai thanh kiếm đao bằng cành cây theo người rơi xuống trên phiến đá. Miêu Nhân Phượng thấy tình thế nguy cấp quá, vội đánh một chưởng bằng tay trái, thì tay phải đã lượm được một cành cây, ngay sau đó ra chiêu “Thượng bộ vân biên bích nguyệt”, vung kiếm đâm xiên lên. Hồ Phỉ vội hụp người xuống né tránh, và cũng nhặt được cành cây lên, phản kích lại bằng chiêu “Bái phật thính kinh”. Lúc này hai người sử dụng toàn chiêu số tấn công, chiêu nào chiêu ấy cực hung hiểm, cực lợi hại, nhưng tiếng răng rắc càng lúc càng nhiều hơn, họ khó mà đứng vững chân được.

Hai người đều nghĩ:

– Phải ép cho đối phương rơi xuống, giảm bớt trọng lượng trên phiến đá thì nó mới không đến nỗi rớt ngay, có thế ta mới mong sống được.

Lúc này sống chết quyết định trong nháy mắt, ra tay không còn nể tình gì nữa. Trong khoảnh khắc họ đã giao đấu với nhau hơn mười chiêu. Miêu Nhân Phượng thấy đối phương sử dụng binh khí giống hệt đao pháp năm xưa của Hồ Nhất Ðao, thì càng ngờ vực; nhưng vì tình thế không cho phép, không hở lúc nào để mà hỏi. Một chiêu “Phản uyển Dực Ðức sấn trướng” vừa chém ra, tiếp liền theo là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Chiêu này kiếm và chưởng cùng đánh ra, thế nào cũng ép được đối phương phải rơi xuống vực, có điều từ nhỏ đã thành thói quen, nên lúc Miêu Nhân Phượng xuất chiêu này bất giác vai hơi nhô lưng lên một chút.

Lúc này trăng sáng vằng vặc, xanh biếc tầng không, trăng soi vách đá thành một vùng sáng rỡ. Vách đá đó toàn là băng tuyết đông lại trong vắt, sáng chẳng khác gì gương, phản chiếu rõ phía sau lưng Miêu Nhân Phượng. Nhìn thấy cảnh ấy, Hồ Phỉ nhớ lại tình hình phụ thân cùng Miêu Nhân Phượng tỉ thí năm xưa qua lời kể của Bình A Tứ. Lúc ấy mẹ chàng đang ở đằng sau lưng ông ta, bà đã đặng hắng để ra hiệu; còn lúc này sau lưng ông ta là một tấm gương, không cần người ngoài nhắc nhở cũng biết chiêu tiếp theo phải là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Hồ Phỉ bèn nhanh tay ra chiêu “Bát phương tàng đao thức”, chiếm lấy tiên cơ.

Thế là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” của Miêu Nhân Phượng mới ra được nửa chừng thì cả người đã bị thanh đao bằng cây của Hồ Phỉ chộp lấy. Lúc này, Miêu Nhân Phượng không còn nghi ngờ gì nữa, biết rằng người đang ở trước mặt ông phải có gốc rễ sâu xa với Hồ Nhất Ðao, than rằng: “Báo ứng! Báo ứng!” rồi nhắm mắt chờ chết.

Hồ Phỉ giơ thanh đao bằng cành cây lên, chỉ một chiêu là chém cho Miêu Nhân Phượng ngã xuống vực, nhưng chàng nhớ đã từng nhận lời với Miêu Nhược Lan là sẽ không hại tính mạng ông ta. Nhưng nếu không bổ kiếm xuống, để ông ta ra hết chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” thì mình cũng chết. Lẽ nào vì nhường đối phương để chuốc lấy cái chết?

Trong chớp nhoáng đó, trăm ngàn ý nghĩ ngổn ngang trong lòng Hồ Phỉ:

– Người này đã từng hại chết song thân ta, khiến ta côi cút khổ sở một đời, nhưng ông ta lại có hào khí ngang trời, là một đại anh hùng hào kiệt, lại là phụ thân của ý trung nhân, theo lẽ đó thì không thể chém đao xuống được. Nhưng nếu không chém thì bản thân ta đừng hòng thoát chết, mà ta đang ở tuổi tráng niên, chịu chết được sao? Còn nếu giết ông ta, lúc trở về còn mặt mũi nào gặp Miêu Nhược Lan nữa? Nếu suốt đời tránh mặt nàng, không gặp nhau thì sống trên đời trong lòng rất thống khổ, sống không bằng chết.

Lúc đó Hồ Phỉ khó nghĩ vạn phần, thực không biết nhát đao này nên chém xuống hay không? Chàng không muốn chém đối phương nhưng cũng không muốn mình mất mạng.

Nếu Hồ Phỉ không phải là người hào hiệp trọng nghĩa khí thì nhát đao đó tất nhiên đã chém xuống rồi, chẳng cần trù trừ. Nhưng một người dù khảng khái hào hiệp đến đâu cũng không thể dễ dàng bỏ đi tính mạng mình. Trong lúc này, muốn quyết đoán thật là ngàn vạn lần khó khăn…

Miêu Nhược Lan đứng trong tuyết đợi rất lâu, rất lâu mà không thấy hai người trở lại, bèn thong thả mở cái bọc mà Hồ Phỉ giao cho nàng. Trong bọc là mấy chiếc áo, một đôi giày trẻ sơ sinh và một mảnh vải vàng làm bọc. Dưới ánh trăng thấy rất rõ bảy chữ “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ” thêu bằng chỉ đen trên đó. Ðây chính là mảnh vải năm xưa phụ thân nàng lấy ra quấn vào người Hồ Phỉ.

Nàng đứng trên tuyết dưới ánh trăng, nhìn mấy cái áo và đôi giày của trẻ sơ sinh, trong lòng dậy lên biết bao tình cảm êm đềm, không sao tả xiết.

Rốt cuộc Hồ Phỉ có bình yên trở về gặp lại nàng hay không? Nhát đao của chàng rốt cuộc có chém xuống hay không?

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.