Bích Huyết kiếm

Hồi 20: Không thỏa chí giúp dân - Đành lên thuyền rời nước

trước
tiếp

Người bị Tôn Trọng Quân đuổi là một nam nhân ngoài ba mươi tuổi. Y có vẻ phẫn nộ, vừa vung đao chém bừa vừa thóa mạ luôn mồm, “Đồ giặc cái! Đồ tiện nhân!” Võ công của y không bằng Tôn Trọng Quân nên phải lùi liên tiếp, nhưng không chạy trốn xuống núi mà cứ đợi sơ hở là quay lại phản kích.

Phùng Bất Thôi nói: “Chúng ta chặn tên kia lại, đừng để hắn chạy thoát.”

Thạch Tuấn bảo: “Tôn sư tỉ không thích người khác giúp đâu. Tên này sư tỉ thừa sức đối phó.”

Bỗng nghe người kia điên cuồng mắng chửi: “Ngươi giết vợ và ba đứa con của ta còn có thể hiểu được. Nhưng mẹ ta đã hơn bảy mươi tuổi, vì sao ngươi giết?”

Tôn Trọng Quân quát lại: “Cuồng đồ vô sỉ như ngươi, trong nhà có bao nhiêu người đều phải giết sạch.”

Hai người càng đấu càng quyết liệt. Phùng Bất Phá bỗng lên tiếng: “Tại sao Tôn sư cô không dùng kiếm? Đơn câu dùng không thuận tiện chút nào.”

Thạch Tuấn cũng thấy ả dùng đơn câu không thuận tay, bèn xoay ngược trường kiếm của mình lại, đưa chuôi kiếm ra phía trước, hô lớn: “Tôn sư tỉ, đón kiếm!”

Hắn ném trường kiếm về phía Tôn Trọng Quân. Đột nhiên từ lùm cây bên cạnh một người nhảy ra, đưa tay chặn bắt thanh kiếm. Cả ba đều kinh hãi. Thân pháp người kia vừa nhanh vừa đẹp, khi dừng chân mới thấy rõ là Mạt ảnh tử Mai Kiếm Hòa, môn hạ của Quy Tân Thụ. Thạch Tuấn la lên: “Mai sư ca!”

Mai Kiếm Hòa gật đầu chào, ném trả kiếm cho hắn rồi nói: “Tôn sư muội đã luyện binh khí khác, không dùng kiếm nữa.”

Thạch Tuấn kinh ngạc “À” một tiếng. Hắn không biết Tôn Trọng Quân đã bị Mục sư tổ cấm sử kiếm vì tội vô cớ đả thương người khác.

Thạch Tuấn quay lại xem hai người tỉ đấu, thấy nam nhân kia cố sức liều mạng, nhưng dù sao võ công cũng kém hơn, nên đao pháp dần dần tán loạn, không ra chiêu thức gì nữa. Trong nháy mắt Tôn Trọng Quân tung người lên, đá trúng cổ tay phải của y, đơn đao tuột tay văng tuốt ra ngoài. Mũi câu của Tôn Trọng Quân chĩa vào trước ngực y. Bỗng Mai Kiếm Hòa la lên: “Dừng tay!”

Tôn Trọng Quân ngẩn ra. Người kia vội vã tránh qua một bên, bỏ chạy xuống núi. Mai Kiếm Hòa mỉm cười bảo: “Sư muội tha mạng hắn đi, để sư tổ hài lòng.”

Tôn Trọng Quân cũng gượng cười. Không ngờ người kia chỉ chạy vài chục bước rồi ngoảnh lại, tiếp tục trỏ mặt Tôn Trọng Quân mà thóa mạ: “Đồ đàn bà trộm cướp! Đồ tiện nhân thối tha!”

Bây giờ thì Mai Kiếm Hòa, Thạch Tuấn cũng nổi giận. Tôn Trọng Quân lại càng tức tối, la lên: “Muội phải giết thằng súc sinh này! Bị sư tổ chặt đứt thêm một ngón tay cũng được.”

Ả lại vung câu đuổi theo. Mai Kiếm Hòa sợ ả giết người sẽ bị trách mắng, bèn nghĩ: “Ta phải bắt lấy tên đó để sư muội đánh một trận cho hả dạ.” Y vọt ra, chạy vòng lại chặn đường xuống núi. Khinh công của y hơn hẳn mọi người, nên chỉ trong chốc lát đã đứng trước mặt người kia.

Người kia thấy tình thế không ổn, đột nhiên rẽ qua con đường nhỏ bên trái. Thạch Tuấn và anh em họ Phùng liền phóng ám khí. Một viên phi hoàng thạch của Phùng Bất Phá đánh tới sau lưng, người kia nghe tiếng gió, biết có ám khí liền né sang bên phải. Nhưng “phụp” một tiếng, sau đùi đã trúng một mũi tụ tiễn của Thạch Tuấn, y loạng choạng rồi té nhào.

Mai Kiếm Hòa nhảy tới, định đưa tay ấn đối phương xuống đất. Đột nhiên có tiếng gió rít lên, thân hình người kia bất thình lình bay vọt lên trời. Mai Kiếm Hòa giật mình, lạng người tránh né rồi quay lại nhìn kỹ. Thì ra có người quăng ra mấy chục sợi dây quấn lấy y rồi giật tung lên.

Bọn Tôn Trọng Quân đã chạy đến nơi, thấy người vừa xuất thủ là một nữ nhân xinh đẹp, y phục toàn một màu trắng, tóc dài bỏ xõa ngang vai, đi chân đất, cổ tay cổ chân đều đeo vòng vàng. Cô gái mỉm cười đứng đó, phục sức không ra người Hán mà cũng không phải người Di, cánh tay phải trắng ngần như tuyết đang nắm một chùm mấy chục sợi dây không phải vải cũng chẳng phải da.

Phía sau cô gái còn có một thiếu nữ khoác áo cừu bằng lông cáo trắng, trên đầu đội mũ bằng da bạch hổ, trông dung mạo đẹp như tranh vẽ nhưng thần thái rất mệt mỏi.

Hai người này chính là Hà Thiết Thủ và A Cửu.

Ngày Viên Thừa Chí cùng mọi người rời khỏi kinh thành, phát hiện tung tích Ôn Thị Tứ Lão và Hà Hồng Dược cùng đi với Thanh Thanh trong phạn điếm trên đường đến Uyển Bình, hôm sau Hồ Quế Nam quay về thông báo với mọi người.

Hà Thiết Thủ biết hai con độc vật gắn dưới chân tường là tín hiệu của Ngũ Độc Giáo triệu tập giáo chúng đến cứu viện. Nàng sợ Thanh Thanh trúng phải độc thủ, phải tới đó ngay lập tức. Hơn nữa, Viên Thừa Chí cũng đã dặn nàng dẫn A Cửu rời khỏi kinh thành lánh nạn. Nghe Hà Thiết Thủ tỏ ý, A Cửu nghĩ phen này có thể gặp Viên Thừa Chí, nên gật đầu đồng ý đi với nàng để cứu người.

Đêm hôm đó hai người để lại một lá thư, lặng lẽ rời kinh. A Cửu mang theo Kim Xà Kiếm. Hà Thiết Thủ muốn thuê xe ngựa cho A Cửu ngồi, nhưng trong lúc binh hoang mã loạn thế này, không tên phu xe nào chịu đi. May mà nàng thấy có một chiếc xe vừa ra khỏi kinh thành, bèn đuổi hết khách trên xe xuống, ép mã phu đánh xe đi về hướng tây.

Tuy A Cửu bị thương nặng, nhưng Hà Thiết Thủ đã từng trải giang hồ từ lâu; nhẹ tay thì có tiền bạc, thuốc độc; nặng tay thì có quyền cước, đao kiếm; đi tới đâu cũng chiếm phần lợi thế, nên dọc đường hai người không đến nỗi gió sương cực khổ. Hà Thiết Thủ hiểu biết về y dược, lại xem A Cửu vừa là tiểu muội vừa là sư mẫu tương lai, nên chăm lo rất chu đáo.

Vết thương trên tay A Cửu dọc đường đã dần dần liền miệng. Ngựa khỏe, xe nhẹ, chẳng mấy chốc đã tới chân núi Hoa Sơn. Hà Thiết Thủ cõng A Cửu trên lưng, thi triển khinh công chạy nhanh lên núi chẳng khác gì đi trên đất bằng. Đúng lúc Hồng Thắng Hải trúng ám khí sắp bị bắt, Hà Thiết Thủ liền tung Nhuyễn hồng châu sách ra giật y về.

Bọn Mai Kiếm Hòa, Tôn Trọng Quân không biết Hồng Thắng Hải cùng phe Viên Thừa Chí, lại càng không biết Hà Thiết Thủ là nhân vật thế nào. Họ thấy nàng đi chân đất, dáng vẻ quái lạ, tưởng là bọn yêu ma tà đạo lên núi Hoa Sơn phá rối, đều rất giận dữ. Tôn Trọng Quân quát hỏi: “Ngươi ở môn phái nào? Có phải phái Bột Hải không?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi lại: “Xin hỏi cao tính đại danh tỷ tỷ. Không hiểu vị bằng hữu này đã đắc tội với tỷ tỷ như thế nào, tiểu muội đứng ra giải hòa có được không?”

Tôn Trọng Quân nghe nàng nói giọng yểu điệu nhõng nhẽo, thầm nghĩ: “Đúng là loại người không đoan chính.” Ả chửi luôn: “Ngươi là yêu nhân tà giáo gì? Có biết đây là nơi nào không?”

Hà Thiết Thủ nghe xong, mỉm cười không trả lời. Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Hà cô nương! Tên giặc cái này cực kỳ độc ác, gọi là Phi Thiên Ma Nữ. Vợ và ba đứa con của tại hạ cùng lão mẫu ngoài bảy mươi tuổi đều bị tên giặc cái này hạ độc thủ giết chết.”

Y vừa nói vừa nghiến răng trèo trẹo, ánh mắt như bắn lửa ra ngoài.

Mai Kiếm Hòa từ lúc được Viên Thừa Chí giáo huấn, tính tình ngạo mạn đã bớt đi nhiều. Hơn nữa y biết hôm nay sư tổ sẽ về nên không muốn gây thêm phiền phức. Y bèn dõng dạc nói: “Các ngươi mau mau xuống núi đi, đừng đứng đây lải nhải nữa.”

Phùng Bất Thôi la lên: “Sư thúc ta nói gì, các ngươi có nghe không? Cút đi cho lẹ!” Vừa nói, hắn vừa đi về phía A Cửu, giơ tay xua đuổi.

A Cửu cầm Thanh trúc trượng bên tay phải, giận dữ liếc nhìn Phùng Bất Thôi. Nàng xuất thân vương giả, từ nhỏ đã quen sai xử, dĩ nhiên thần sắc đầy vẻ tôn quý. Phùng Bất Thôi bất giác khiếp sợ, nhưng lập tức giận dữ hét lên: “Các ngươi muốn chết phải không?”

Hắn đưa tay xô đẩy A Cửu. A Cửu đã được Trình Thanh Trúc chỉ điểm căn bản võ công, lập tức đưa Thanh trúc trượng sang bên trái, rồi móc ngược lại bên phải. Phùng Bất Thôi hoàn toàn không phòng bị, lại càng không ngờ một tiểu cô nương yếu đuối, gió thổi cũng bay mà xuất thủ nhanh đến thế. Mắt cá chân hắn bị Thanh trúc trượng khều trúng, đứng không vững, té nhào xuống đất.

Võ công Phùng Bất Thôi không kém A Cửu, chỉ vì vô ý mà trúng đòn này. Lưng vừa chạm đất, hắn lập tức bật người nhảy lên. Thiếu niên hiếu thắng, dĩ nhiên không chịu mất thể diện. Hắn vung cây roi sắt lên, hầm hừ chỉ muốn phóng tới nện cho A Cửu một trận.

Hà Thiết Thủ vừa cười vừa nói: “Các vị ở phái Hoa Sơn phải không? Chúng ta là người một nhà mà.”

Phùng Bất Phá quát lên: “Ai một nhà với con yêu quái này?”

Mai Kiếm Hòa bôn ba giang hồ đã lâu, kiến thức rộng hơn. Y thấy lúc nãy Hà Thiết Thủ dùng châu sách cứu Hồng Thắng Hải thủ pháp rất cao, nhất định phải có lai lịch, bèn liếc mắt ra hiệu với anh em họ Phùng rồi hỏi Hà Thiết Thủ: “Xin hỏi lệnh sư là vị nào?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Sư phụ của ta họ Viên, là Viên Thừa Chí. Hình như ông ấy cũng là môn hạ phái Hoa Sơn, nhưng không biết là thật hay mạo nhận.”

Mai Kiếm Hòa với Tôn Trọng Quân nhìn nhau một cái, bán tín bán nghi. Thạch Tuấn cười rộ lên nói: “Viên sư thúc chỉ là một chú bé, công phu bản môn không biết đã học được ba thành chưa, làm gì dám nhận đồ đệ?”

Hà Thiết Thủ nói: “Thật vậy ư? Thế thì lạ quá, không chừng tiểu sư phụ của ta đã mạo nhận. Hì hì, đúng rồi! Chắc võ công của tiểu huynh đệ này còn giỏi hơn tiểu sư phụ của ta.”

Tôn Trọng Quân từng thua dưới tay Viên Thừa Chí, sau này bị sư tổ trách phạt, chặt một ngón tay, nguyên nhân cũng từ Viên Thừa Chí mà ra. Mỗi khi nghĩ đến vị tiểu sư thúc này là ả khó chịu, ngứa tai ngứa mắt. Chỉ vì Viên Thừa Chí bản lãnh cao cường, bối phận cao hơn, lại từng cứu mạng đứa con yêu của sư phụ ả. Mỗi khi sư phụ sư mẫu nhắc đến Viên Thừa Chí đều ra vẻ cảm kích, nên ả chỉ biết nuốt hận vào lòng mà thôi. Bây giờ nghe Hà Thiết Thủ tự xưng là đồ đệ của Viên Thừa Chí, bất giác lửa giận bừng bừng, ả la lên: “Nếu ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn, sao lại cùng đường với tên cuồng đồ vô sỉ này?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Y là tùy tùng của sư phụ ta, không biết đã làm chuyện gì vô sỉ? Thắng Hải! Sao huynh lại vô sỉ với vị cô nương này? Trời ơi, ta không hiểu nổi, con người như huynh sao không biết xấu hổ, không sợ người khác chê cười?”

Nàng vừa nói vừa cười châm chọc. Tôn Trọng Quân nghe càng giận dữ hơn, nhất thời không nói được tiếng nào.

Mọi người cãi vã phía sau núi một hồi, âm thanh đã vọng ra trước núi. Chẳng bao lâu Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh cùng mấy tên đệ tử khác đã chạy tới. Phùng Bất Thôi cứ đưa cặp mắt giận dữ nhìn A Cửu, nhưng càng nhìn càng cảm thấy cô gái này xinh đẹp tuyệt trần. Bất giác hắn cúi mặt xuống, lửa giận đã nguội lạnh tự bao giờ, chuyển thành lòng hâm mộ.

Phùng Bất Phá nói với cha: “Cô gái này tự xưng là đệ tử của tiểu… tiểu sư thúc tổ.”

Phùng Nan Địch hừ một tiếng, hỏi: “Cãi nhau chuyện gì vậy?”

Phùng Bất Thôi kể lại câu chuyện vừa rồi. Trong các đệ tử đời thứ ba của phái Hoa Sơn thì Phùng Nan Địch lớn tuổi nhất, nhập môn sớm nhất, lại có oai danh trên giang hồ, đương nhiên là lãnh tụ. Nghe con trai kể xong, y quay lại hỏi Tôn Trọng Quân: “Tôn sư muội! Người này đã đắc tội với sư muội chuyện gì?”

Mặt Tôn Trọng Quân hơi đỏ lên. Mai Kiếm Hòa đáp hộ: “Tên cuồng đồ này có một người anh không biết tự soi gương, vác cái mặt dày tới cầu thân Tôn sư muội, bị Tôn sư muội chửi mắng đuổi về…”

Hồng Thắng Hải nói xen vào: “Không chịu thì thôi, sao lại xẻo mất hai tai của nghĩa huynh ta?”

Phùng Nan Địch trừng mắt quát: “Ai hỏi ngươi?”

Mai Kiếm Hòa chỉ Hồng Thắng Hải, nói tiếp: “Nào ngờ tên cuồng đồ này hẹn với số đông đồng bọn, thừa lúc Tôn sư muội có một mình mà bắt cóc đi. May mà sư nương của đệ đến kịp trong đêm, nên cứu được sư muội.”

Phùng Nan Địch đảo cặp mắt sáng quắc nhìn khắp một vòng, quát lên: “To gan thật! Thế mà ngươi chưa chịu thôi ư?”

Hồng Thắng Hải vẫn ngang tàng hỏi lại: “Bà ấy đã giết nghĩa huynh của ta, thế còn chưa đủ hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Bắt cóc người ta để ép thành hôn, đúng là không tốt. Nhưng Tôn tỷ tỷ đã giết chết nghĩa huynh của y, thế là hả dạ rồi. Cô chưa bái đường thành thân, đâu có mất mát gì? Hơn nữa, người ta vừa nhìn cô đã tương tư khổ sở như vậy, chỉ vì cô đẹp như tiên. Tại sao người ta không tương tư ai khác? Tôn tỷ tỷ lấy oán báo đức, tìm đến nhà giết hết năm người, không phải quá ác hay sao? Tuy giết người cũng là một cách trả thù, nhưng phải tìm người có võ công mà giết. Mẹ già hơn bảy mươi tuổi của y hình như không biết võ công, cũng chẳng phạm tội gì, chẳng qua là đẻ ra đứa con trai hơi thiếu lễ nghĩa. Vợ và ba đứa con nhỏ của y, lại càng không biết đã phạm phải đại tội gì. Giết những người này không phải là hành động của phái Hoa Sơn. Đại giới của phái Hoa Sơn, điều thứ ba có phải là cấm giết người vô cớ hay không? Ta mới học, nhớ không chắc lắm.”

Mọi người nghe vậy đều biết Tôn Trọng Quân lạm sát, phạm vào đại giới bản phái, đều bất giác chau mày. Phùng Nan Địch giận dữ hỏi Hồng Thắng Hải: “Đầu đuôi cũng là tại ngươi không tốt. Bây giờ người chết đã chết rồi, còn biết làm sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Trước kia ta cũng có lúc giết người tốt, nhưng từ khi bái Viên Thừa Chí làm tiểu sư phụ, ông ấy cứ lải nhải với ta cả đống môn quy phái Hoa Sơn, nào là không được lạm sát vô cớ gì gì đó. Nhưng ta thấy Tôn tỷ tỷ giết người bừa bãi như vậy, có bị gì đâu? Chuyện này khiến ta phải nghi ngờ, lát nữa phải tìm tiểu sư phụ để nhờ chỉ điểm lại.”

Lưu Bội Sinh nói: “Viên sư thúc đang bận, sợ không rảnh nói chuyện với cô nương.”

Mai Kiếm Hòa hỏi: “Sư phụ đâu?”

Lưu Bội Sinh đáp: “Cả bốn vị sư phụ, sư nương, sư bá, sư thúc cùng Mộc Tang đạo trưởng đang lo cứu chữa vị cô nương kia.”

Phùng Nan Địch “À” một tiếng rồi nói: “Bây giờ chúng ta trói bọn này lại trước, lát nữa sẽ xin ý kiến sư phụ, sư thúc.”

Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi cùng vâng dạ bước lên, định ra tay bắt người.

Hà Thiết Thủ thấy bọn này chẳng coi mình ra gì. Nàng từng ở ngôi giáo chủ, quen làm bá chủ một phương, không thể nhẫn nhịn được nữa, bèn mỉm cười hỏi: “Muốn trói người phải không? Ta có dây đây.”

Nàng đưa mớ dây Nhuyễn hồng châu sách ra trước mặt. Phùng Bất Thôi liếc nàng một cái, hỏi: “Ai cần dây của ngươi?” Vừa nói, hắn vừa bước tới Hồng Thắng Hải.

Anh em họ Phùng vừa định ra tay, đột nhiên nghe tiếng cười khúc khích rồi dưới chân bị cái gì quấn lại, thân hình bị giật lên trời như đằng vân giá vũ vậy. Hai người chưa hiểu gì, đang bay như diều bỗng nghe tiếng cười nói yểu điệu của Hà Thiết Thủ: “Úi chà, xin lỗi nhé! Lý Ngư Phiên Thân, mau lên.”

Phùng Bất Phá nghe lời, ra chiêu Lý Ngư Phiên Thân quả nhiên hai chân chạm đất, đứng yên vô sự. Còn Phùng Bất Thôi tuổi trẻ quật cường hơn không chịu nghe lời, bèn ra chiêu Phi Bộ Lưu Tuyền nhảy tạt ngang ra, toan đáp xuống bằng một tư thế đẹp, nào ngờ rơi xuống nhanh quá, mông hắn đập phẹt xuống đất, ngồi đó vừa hổ thẹn vừa đau đớn, mặt đỏ đến tận cổ.

Phùng Nan Địch thấy con mình bị đánh, giận dữ hét lên: “Ngươi tự xưng là đệ tử bản môn, lúc nãy ta còn tin được ba phần. Bây giờ thấy chiêu công phu hạ tiện này, làm sao là nhân vật bản môn được? Ngươi qua đây!”

Phùng Nan Địch không kịp cởi khuy áo, đưa tay trái giật vạt áo ra. Soạt một tiếng, cả dãy khuy áo bị kéo đứt. Y quẳng trường bào xuống đất, để lộ áo chẽn màu xanh, thần thái rất oai vũ, tráng kiện như một tòa thiết tháp.

Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Vị sư huynh này muốn đối chiêu với muội phải không? Hay lắm, sư huynh muội đồng môn tỷ thí một chút chắc cũng không sao. Để xem mấy chiêu tiểu sư phụ của muội dạy có dùng được không. Chúng ta đánh cược gì đây?”

Phùng Nan Địch đã thấy nàng xuất thủ rất nhanh, nhưng vẫn nghĩ mình được chân truyền tuyệt nghệ, oai trấn một vùng, chẳng sợ hãi gì cô gái này. Nhưng thấy nàng yểu điệu như thế, cơn tức giận của y giảm dần, nảy sinh lòng thương xót, bèn dõng dạc nói: “Bọn ta còn dễ nói chuyện. Lát nữa Quy thẩm thẩm ra đây, bà ấy vốn xem kẻ ác như kẻ thù, thấy bọn yêu quái như ngươi thì không chịu buông tha đâu. Rời khỏi đây là hơn.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Ông không phải là tiểu sư phụ, dựa vào cái gì mà bảo ta rời khỏi đây?”

Phùng Bất Thôi té nhào hai lần, đang hổ thẹn vô cùng. Hắn đưa mắt nhìn anh trai, la lên: “Chúng ta thi triển công phu chân thực đi, đừng để ả này dùng quỷ kế ám hại nữa.”

Hai anh em cầm roi sắt, lại nhảy vào. Hà Thiết Thủ cười nói: “Hay lắm! Thế thì ta đứng yên không động đậy, cũng không đánh trả. Như vậy được chưa?” Nàng bèn cất Nhuyễn hồng châu sách vào lưng, dùng tay áo phủ cả hai tay lại.

Anh em họ Phùng vung roi đánh xuống, thấy nàng không tránh né gì cả. Vì thế khi roi sắt gần đến đỉnh đầu đối thủ, không hẹn mà cùng thu hồi lại. Hai người từ nhỏ đã được giáo huấn, tuy tuổi trẻ có phần lỗ mãng, nhưng trước nay chưa từng vô cớ đả thương người khác. Phùng Bất Thôi la lên: “Lấy binh khí ra đi!”

Hà Thiết Thủ nói: “Hình như so với hai vị thì vai vế ta lớn hơn một cấp, đâu thể dùng binh khí? Hai vị cứ thế mà tiến lên, chỉ cần chân ta động đậy nửa bước, hoặc tay ta thò ra ngoài tay áo, thì coi như ta thua. Được không?”

Phùng Bất Phá nói: “Nếu anh em ta lỡ tay đả thương, ngươi đừng trách nhé.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười bảo: “Ra chiêu đi! Thanh niên gì mà cứ lải nhải hoài, chẳng sảng khoái chút nào.”

Phùng Bất Phá đỏ ửng mặt lên, liền ra chiêu Kính Đức Ngự Giáp đánh chéo xuống người Hà Thiết Thủ. Nàng hơi nghiêng mình cho cây roi sắt trượt qua. Phùng Bất Thôi tức giận nàng vừa hất mình té nhào, dùng hết toàn lực đập cây roi sắt lên vai Hà Thiết Thủ, nhưng khi thiết tiên tới nơi thì đối phương hầu như đã biến mất.

Hai chân của Hà Thiết Thủ cắm chặt dưới đất, thân hình thì nghiêng bên này, ngả bên nọ, lắc lư giữa bóng Thiết tiên trùng điệp như một cành hoa trước gió. Anh em họ Phùng múa song tiên càng lúc càng nhanh, Hà Thiết Thủ vẫn mỉm cười bình thản, thủy chung hai cây roi vẫn không chạm tới áo nàng.

Mọi người trong phái Hoa Sơn ngẩn ra nhìn nhau, không biết cô gái này ở môn phái nào mà võ công cao như thế. Nàng tự xưng là đệ tử bản môn, thế mà từ võ công đến thân pháp đều hoàn toàn không có dấu vết gì của phái Hoa Sơn.

Ba người đánh tiếp vài chiêu, anh em họ Phùng bỗng huýt một tiếng sáo, cúi xuống quét hai cây roi là là mặt đất. Chúng nghĩ: “Nếu thật sự chân ngươi không di chuyển, thì làm sao đỡ được chiêu này?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười bảo: “Cẩn thận đấy!”

Nàng ngả người tới trước, khuỷu tay trái đẩy vào người Phùng Bất Phá, khuỷu tay phải đánh lên lưng Phùng Bất Thôi. Hai anh em cảm thấy toàn thân tê liệt, buông roi rơi xuống đất, loạng choạng rồi ngã ra ngoài.

Phùng Nan Địch khẽ nói: “Mai sư đệ! Cô ả này thật là cổ quái. Để ta lên trước, thử một chút.”

Mai Kiếm Hòa gật đầu. Phùng Nan Địch nhảy ra, hô lớn: “Để ta lãnh giáo.”

Hà Thiết Thủ thấy bộ pháp vững chãi, biết người này có căn bản võ học thâm sâu. Nàng vẫn mỉm cười để lộ má lúm đồng tiền, nhưng trong lòng đề phòng nghiêm ngặt, lên tiếng: “Nếu muội tiếp chiêu không nổi, sư ca đừng chê cười nhé.”

Phùng Nan Địch la lên: “Hay lắm! Xuất chiêu đi.”

Y hơi khom xuống, hữu quyền tả chưởng chắp lại vái chào, gió lộng ào ào. Đó là chiêu Khởi Thủ Thức của Phá Ngọc Quyền. Hà Thiết Thủ nhún chân chào kiểu vạn phước, nghiêng người đáp lễ, hai tay khẽ đưa ra trước.

Phùng Nan Địch thấy nàng vừa trả lễ vừa tiếp chiêu, không khỏi khen thầm: “Bản lãnh tuyệt diệu!” Y đang định xuất chiêu, đột nhiên từ lưng núi vẳng lên tiếng hò hét, có người đuổi nhau đến gần.

Y ngừng tay, nhìn sang Hà Thiết Thủ. Nàng mỉm cười hỏi: “Sư ca nghi ngờ muội dẫn theo viện thủ ư? Chúng ta xem rõ trước đã, rồi hãy tỷ thí tiếp được không?”

Phùng Nan Địch nghe tiếng hò hét đến gần xen lẫn tiếng nữ nhân mắng chửi, liền gật đầu nói: “Cũng được!”

Mọi người chạy đến bên vách núi, nhìn xuống thì thấy một nữ nhân áo đỏ đang gấp rút chạy lên núi, bốn đại hán cầm binh khí đuổi riết theo sau. Nữ nhân đó thấy trên đỉnh núi có người, tinh thần lập tức phấn chấn hẳn lên, chân chạy càng nhanh. Nàng nhận ra thân hình khôi vĩ của Phùng Nan Địch, liền kêu lớn: “Bát Diện Oai Phong! Mau cứu ta!”

Phùng Nan Địch kinh hãi la lên: “Thì ra Hồng Nương Tử!” Y lập tức chạy tới đón.

Trên mặt Hồng Nương Tử dính đầy máu tươi, bây giờ không gượng được nữa, ngất xỉu tại chỗ. Bốn tên đuổi theo thấy đông người nhưng cứ mặc kệ, hung hãn chạy tới định bắt Hồng Nương Tử.

Phùng Nan Địch đưa tả chưởng ra chặn tên đầu tiên, quát lên: “Bằng hữu biết điều một chút! Đây là nơi nào, biết không?”

Tên kia đưa chưởng ra cản trở. Hai chưởng giao nhau nghe một tiếng “chát”, cả hai đều chấn động phải lùi mấy bước. Té ra võ công tên kia không phải tầm thường.

Hai người nhìn nhau một cái, đều cảm thấy kinh ngạc. Tên kia hét lên: “Ta phụng lệnh Quyền tướng quân Đại Thuận hoàng đế tọa hạ, đi bắt nghịch tặc vợ của Lý Nham. Sao ngươi dám cản trở?”

Hà Thiết Thủ biết Lý Nham là nghĩa huynh của sư phụ, nữ nhân áo đỏ là vợ của Lý Nham dĩ nhiên phải cứu. Nàng lập tức bước ra, mỉm cười lên tiếng: “Lý Nham tướng quân là anh hùng hào kiệt, khắp thiên hạ chẳng ai không biết. Các vị đừng làm khó cô nương này nữa.”

Tên kia kiêu ngạo đã quen, ỷ mình võ công cao cường, dưới tay Lưu Tông Mẫn rất có quyền thế, không đếm xỉa gì đến một cô gái nhỏ nhắn như Hà Thiết Thủ nên không thèm trả lời. Hắn vẫy tay một cái, sai ba tên thuộc hạ bước tới trói người.

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Được! Thì ra ngươi không muốn sống nữa.”

Tay phải nàng đang chống bên hông, khẽ ấn vào nút, độc châm Hàm sa xạ ảnh bắn ra vèo vèo. Võ công bọn kia không phải tầm thường, nhưng chẳng thể nào tránh nổi loại ám khí bắn ra bất ngờ này. Tên chỉ huy lập tức bị bảy tám mũi độc châm ghim vào da thịt, chưa la được tiếng nào đã mất mạng. Ba tên còn lại biến hẳn sắc mặt, đồng thanh quát hỏi: “Ngươi là ai?”

Hà Thiết Thủ đưa tay trái ra. Lúc đánh nhau với anh em họ Phùng, nàng vẫn giấu cái móc sắt dưới tay áo, bây giờ mới để lộ ra. Một tên khiếp sợ đến nỗi mặt trắng bệch, run rẩy nói: “Ngươi… ngươi… là Ngũ… Hà…”

Hà Thiết Thủ khẽ mỉm cười, vung cây kim câu sáng chói bên tay phải lên. Cả ba tên đều hồn bất phụ thể, lập tức quay lưng chạy trốn. Tên chạy đầu sợ quá cuống chân, vấp phải một tảng đá, lộn thẳng xuống vực sâu.

Phùng Nan Địch cùng mọi người đều rất kinh ngạc, nghĩ bụng: “Tại sao ba gã đại hán lại sợ cô gái này đến mức như thế? Vừa rồi nàng giết người trong nháy mắt, không biết đã dùng pháp môn cổ quái gì. Nhưng nàng là bạn chứ không phải địch, nhất định là vậy.”

Phùng Nan Địch dìu Hồng Nương Tử dậy, định hỏi han. Đột nhiên bên núi có một đạo nhân thân hình cao ốm lớn tiếng quát lên: “Người phái Hoa Sơn ở đây cả rồi chứ?”

Tiếng quát này vừa dõng dạc vừa thanh thoát, nội lực thâm hậu làm chấn động một vùng sơn cốc.

*

*   *

Mọi người thấy đạo nhân này mặc áo bào vải thô nhưng viền gấm lụa trông rất sang trọng, thắt lưng khảm một miếng bạch ngọc lấp loáng sáng ngời. Lưng hắn đeo trường kiếm, tay trái phe phẩy phất trần, đầy vẻ tiêu sái. Tướng mạo hắn tuấn nhã, thần thái thanh cao, không biết khoảng bốn mươi hay năm mươi tuổi, trông hệt như một vị cao nhân đắc đạo.

Phùng Nan Địch bước tới chắp tay thi lễ, lên tiếng: “Xin thỉnh giáo pháp hiệu đạo trưởng. Đạo trưởng có phải là bằng hữu của tổ sư tệ phái hay không?”

Đạo nhân kia không đáp lễ, phẩy nhẹ phất trần rồi nhìn quanh mọi người một lượt, lại hỏi: “Các ngươi có phải người phái Hoa Sơn không?”

Phùng Nan Địch đáp: “Đúng vậy. Đạo trưởng có gì chỉ giáo?”

Đạo nhân hỏi: “Mục Nhân Thanh tới đây chưa?”

Phùng Nan Địch nghe hắn thuận miệng gọi thẳng tên tổ sư mình, ra vẻ bằng hữu rất thân. Y không dám chậm trễ chút nào, đáp ngay: “Tổ sư chưa đến.”

Đạo nhân mỉm cười, đưa phất trần chỉ ba cô Tôn Trọng Quân, Hà Thiết Thủ, A Cửu rồi nói: “Con khỉ già họ Mục thu nhận được không ít nữ đồ đệ xinh đẹp, thật là diễm phúc vô cùng! Này, ba mỹ nhân tới đây cho ta nhìn kỹ một chút.” Nói xong, hắn cài phất trần vào thắt lưng.

Mọi người nghe hắn buông lời khiếm nhã, đều tỏ vẻ bất bình. Tôn Trọng Quân giận dữ hỏi: “Ngươi là loại người gì?”

Đạo nhân mỉm cười đáp: “Mỹ nhân theo về đi, từ từ ta sẽ nói cho mà biết.”

Tôn Trọng Quân thấy hắn cười đầy vẻ dâm đãng, lập tức giận dữ bước lên một bước, hét lên: “Dám tới đây giở thói lưu manh!”

Đạo nhân vẫn mỉm cười, đưa tay sờ lên mặt ả, rồi rút tay về đưa lên mũi hít hít, cười nói: “Thơm quá!”

Tay hắn đưa ra thu về không nhanh gì lắm, nhưng Tôn Trọng Quân không thể nào tránh được. Ả càng giận dữ, thuận tay vung câu đâm tới. Đạo nhân nhẹ nhàng đưa tay trái ra cản trở, rồi xoay tay lại nắm chặt lấy cổ tay ả.

Tôn Trọng Quân vừa bị túm lấy cổ tay là lập tức toàn thân bủn rủn, không còn chút sức lực nào. Đạo nhân kéo ả lại ôm vào lòng, đưa miệng hôn lên má rồi cất tiếng tán dương: “Con gà này không tệ!”

Phùng Nan Địch, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, mọi người đều vừa giận vừa sợ đến biến sắc mặt, đồng thời xông tới.

Đạo nhân đứng thẳng dậy, tung người nhảy lùi mấy bước. Tay trái hắn vẫn ôm Tôn Trọng Quân không chịu thả, nhưng nhảy lên rơi xuống vẫn rất linh hoạt, tiêu sái hơn cả người tay không. Tôn Trọng Quân bị ôm không động đậy được, mà có giãy giụa cũng không sao thoát khỏi vòng tay của hắn.

Mọi người đều hoảng sợ, biết không địch nổi nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn, đều rút binh khí ra xông tới. Đạo nhân đưa tay phải lên vai, đột nhiên ánh sáng xanh lóe lên chói mắt. Trường kiếm trên lưng đã ra khỏi vỏ, nắm trong tay rồi.

Mai Kiếm Hòa quan tâm đến Tôn Trọng Quân nhất, cầm kiếm đâm ngay. Y thấy trường kiếm của đạo nhân phát ra ánh sáng xanh như nước biếc, rõ ràng là lợi khí, nên không dám để kiếm mình chạm vào, chỉ soạt soạt đâm hờ ba kiếm, cố tìm chỗ sơ hở để tấn công. Năm ngoái y tỉ kiếm với Viên Thừa Chí ở Nam Kinh, bị chấn gãy mấy cây kiếm liền một lúc, mới biết võ công phái mình tinh ảo lạ thường, mình chỉ mới học được tí xíu ngoài da. Từ đó y giảm bớt tính khí ngông cuồng, xin sư phụ chỉ giáo thêm kiếm pháp, nửa năm không bước ra khỏi cửa để khổ công luyện tập, quả nhiên tiến bộ rất nhiều. Ba chiêu kiếm vừa rồi đều là những tuyệt chiêu y mới học, vừa nhanh chóng vừa hung hãn, có được mấy phần tinh yếu của Hoa Sơn kiếm pháp.

Đạo nhân khen ngợi: “Không tệ!”

Lời còn chưa dứt đã nghe “keng” một tiếng, hắn chém trường kiếm của Mai Kiếm Hòa đứt thành hai khúc. Đúng ra Mai Kiếm Hòa phải lập tức ném thanh kiếm gãy về phía địch thủ để đề phòng hắn thừa cơ tấn công rồi mới lo tránh né, nhưng y sợ đả thương nhầm sư muội nên không dám ném kiếm, vội lùi lại ngay. Khinh công của y đã khá lắm rồi, nhưng kiếm của đạo nhân vẫn kịp đâm tới, cắt đứt dải vải buộc tóc trên đầu.

Mấy chiêu này chỉ xảy ra trong chớp nhoáng. Mai Kiếm Hòa chưa hết sợ hãi, Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh, Thạch Tuấn, Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi và Tứ đệ tử, Ngũ đệ tử đã cùng lúc xông lên. Đao thương kiếm kích đồng thời tấn công, chỉ có Lưu Bội Sinh là tay không.

Đạo nhân vung trường kiếm xuất chiêu đón đỡ. Nghe một loạt những tiếng “keng keng”, nhiều binh khí đã bị chặt đứt, nhiều người đã bị đá văng ra ngoài. Chỉ còn Phùng Nan Địch và Lưu Bội Sinh, hai người võ công cao nhất, là còn miễn cưỡng chống đỡ.

Mai Kiếm Hòa nhặt dưới đất lên một thanh kiếm, lại nhảy xổ vào. Tay trái đạo nhân vẫn ôm Tôn Trọng Quân, tay phải cầm trường kiếm đánh trả ba người, miệng mỉm cười ra vẻ hờ hững. Trong lúc đánh nhau, hễ rảnh tay một chút là hắn lại kề miệng hôn lên má Tôn Trọng Quân, khiến ả tức giận đến suýt ngất đi.

Qua lại mấy chiêu, đạo nhân đột nhiên quẳng trường kiếm bay tít lên trời. Lưu Bội Sinh ngẩn ra, không biết hắn sử dụng quái chiêu gì. Mai Kiếm Hòa la lên: “Cẩn thận!”

Nghe “bình” một tiếng, ngực Lưu Bội Sinh đã trúng một quyền. Y lùi lại vài bước rồi ngồi phịch xuống đất.

Đạo nhân cười nói: “Ngươi cứ tưởng quyền pháp mình giỏi. Nếu ta dùng binh khí đả thương ngươi, sợ ngươi không phục.”

Sau đó hắn đưa tay đón thanh bảo kiếm từ trên không rơi xuống, “xoảng” một tiếng lại chặt đứt kiếm của Mai Kiếm Hòa. Tay phải hắn cong lại, hất khuỷu tay trúng vào sườn trái Phùng Nan Địch. Họ Phùng đau thấu tận xương, chóng mặt hoa mắt, liên tiếp thối lui mấy bước.

Thế là chỉ trong chớp nhoáng mà quần đệ tử phái Hoa Sơn thua tan tác, không ai dám bước lên nữa. Đạo nhân nhìn quanh tứ phía, cười ha hả rồi nói: “Lão Mục cứ tự khoe khoang quyền kiếm thiên hạ vô song, thế mà dạy ra một đám đệ tử hỏng bét thế này. Khi sư tổ các ngươi hỏi, cứ nói là Ngọc Chân Tử ghé thăm, thấy hắn không biết dạy dỗ đồ đệ, nên mang đi ba nữ đồ đệ để dạy giùm. Ba năm sau, dạy chán rồi, đương nhiên ta sẽ đem trả lại.”

Hắn thuận tay hất ra sau một cái. Mọi người chưa kịp chớp mắt, bảo kiếm đã cắm trở vào trong vỏ. Hắn vẫn ôm Tôn Trọng Quân, bước về phía Hà Thiết Thủ, mỉm cười nói: “Cô cũng đi theo ta.”

Hà Thiết Thủ biết mình không địch nổi, quay lại bảo Hồng Thắng Hải: “Mau đi gọi sư phụ!”

Hồng Thắng Hải vừa đi khỏi, đạo nhân đã tới trước mặt. Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Đạo trưởng! Công phu của đạo trưởng thật là lợi hại! Đạo hiệu của đạo trưởng là gì vậy?”

Đạo nhân thấy nàng mỉm cười chẳng sợ hãi gì, thật sự bị bất ngờ. Hắn nhìn khuôn mặt mỹ lệ, đôi chân trần trắng như tuyết, khóe miệng cười nói xao động lòng người, bất giác thấy sướng đến tận xương. Hắn lại bước thêm một bước, mỉm cười nói: “Ta là Ngọc Chân Tử. Cô nương tên là gì vậy? Cô khen công phu ta giỏi, thế thì theo ta về đi, ta sẽ từ từ dạy cho cô.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Ông không lừa người ta đấy chứ? Đã nói ra rồi, không được nuốt lời đâu đấy.”

Ngọc Chân Tử cười hỏi: “Ai nỡ lừa gạt mỹ nhân? Đi thôi!” Hắn đưa tay ra, định nắm lấy tay nàng.

Hà Thiết Thủ cười nói: “Khoan đã! Để ta đợi sư phụ đến, hỏi xem có được hay không.”

Ngọc Chân Tử nói: “Sư phụ của cô ư? Dù học được hết bản lãnh của hắn cũng chẳng ích gì! Ha ha…”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Bản lãnh sư phụ ta giỏi lắm. Nếu sư phụ biết ta đi theo ông thì không được đâu.”

Bọn Phùng Nan Địch thấy Tôn Trọng Quân đang bị đạo nhân ôm chặt trong lòng hết đường động đậy, thế mà con yêu nữ lại cười nói đùa giỡn, liếc mắt đong đưa, người nào cũng tức giận bừng bừng. Mai Kiếm Hòa la lên: “Tặc đạo kia! Ta liều mạng với ngươi.” Y nhặt một thanh kiếm, lại xông lên.

Ngọc Chân Tử không thèm quay đầu lại, nói với Hà Thiết Thủ: “Để ta biểu diễn công phu cho cô xem thử sư phụ cô lợi hại hay ta lợi hại.”

Hắn vừa tránh né những chiêu kiếm của Mai Kiếm Hòa đâm tới vừa nói chậm rãi: “Kiếm pháp như gã này, trong phái Hoa Sơn các ngươi có thể gọi là cao thủ rồi. Nhưng chạm phải tay ta thì… Hừ! Cô cứ đếm từ một đến mười, ta sẽ dùng một bàn tay không mà đoạt lấy thanh kiếm của hắn.”

Mai Kiếm Hòa thấy đạo nhân này coi thường mình như vậy, càng tức giận hơn. Y ra chiêu càng lúc càng nhanh.

Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Từ một đến mười phải không? Được! Một, hai, ba, bốn, năm…” Nàng không nghỉ lấy hơi, đếm nhanh như ma đuổi.

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Mỹ nhân chơi ăn gian quá! Xem đây.”

Mai Kiếm Hòa đang vung kiếm đâm tới, đột nhiên thấy địch thủ nghiêng người vươn tay, hai ngón tay đã điểm tới cặp mắt mình, khoảng cách chỉ chừng vài tấc. Y không nén nổi sợ hãi, vội thu kiếm về gạt. Nhưng cánh tay của Ngọc Chân Tử đã rút lại, khuỷu tay thừa thế hất trúng cổ tay y. Mai Kiếm Hòa lập tức tê chồn, trường kiếm tuột khỏi tay rồi bị Ngọc Chân Tử dùng hai ngón tay đoạt lấy nhanh như điện chớp. Lúc đó Hà Thiết Thủ mới kịp đếm đến số chín.

Ngọc Chân Tử cười ha hả, tay trái giữ kiếm, hai ngón trỏ và giữa tay phải kẹp chặt lưỡi kiếm. Rắc một tiếng, lưỡi kiếm gãy đoạn. Sau đó nghe thấy những tiếng răng rắc không dừng, thanh trường kiếm đã bị hắn dùng hai ngón tay làm kéo, cắt thành những đoạn sắt vô dụng dài đúng một tấc. Ngọc Chân Tử quẳng chuôi kiếm chỉ còn dính ba tấc lưỡi xuống đất, hú dài một tiếng, lại vươn tay ra nắm lấy cổ tay Hà Thiết Thủ.

Hà Thiết Thủ biết mình không phải là địch thủ của đạo nhân này, nên cố dùng kế hoãn binh để kéo dài thời gian đợi Viên Thừa Chí tới. Nàng nhẹ nhàng đưa tay trái giấu trong tay áo ra cho hắn nắm. Ngọc Chân Tử cứ tưởng mình sẽ nắm lấy một bàn tay mềm mại dịu dàng như ngọc, nhưng đột nhiên chạm phải một vật cứng ngắt lạnh băng, lập tức thả tay ra. Hắn phản xạ quá nhanh nên chưa kịp dính thuốc độc, nhưng trước mắt đã thấy ánh vàng nháy động, kim câu vạch vào chỗ giữa lông mày.

Chiêu này của Hà Thiết Thủ vừa nhanh vừa chuẩn, Ngọc Chân Tử võ công tuyệt diệu mà cũng suýt mất mạng. Trong lúc nguy cấp hắn vội ngửa đầu ra sau cho mũi nhọn của kim câu sượt qua trước mũi. Bỗng hắn ngửi thấy một mùi tanh tưởi, thì ra trên cái móc này có chất kịch độc.

Ngọc Chân Tử nằm mơ cũng không ngờ được một cô nương dịu dàng khêu gợi mà xuất thủ ác độc như thế. Hơn nữa, binh khí của phái Hoa Sơn lại tẩm thuốc độc là chuyện chưa từng có, nên hắn bất giác hoảng sợ, vã mồ hôi lạnh đầy người. Chưa kịp bình tĩnh lại, thiết câu đã đánh tới bốn chiêu như chớp giật.

Ngọc Chân Tử không cầm binh khí, tay trái lại ôm một người nên nhất thời hoảng loạn tay chân. Hắn dùng sức quẳng Tôn Trọng Quân sang một bên, tung người nhảy lùi ba bước, rút được trường kiếm ra rồi cười ha hả nói: “Không ngờ cô nương cũng có mấy chiêu. Được, chúng ta tỉ thí tiếp!”

Vừa rồi Hà Thiết Thủ bất ngờ tấn công trong lúc đối phương không phòng bị nên mới chiếm được thượng phong; tỉ thí thật sự thì đương nhiên nàng không phải là đối thủ, nhưng đã tới nước này không thể không đấu. Nàng mỉm cười nói: “Ông không được đánh thật đấy nhé! Chúng ta chỉ đùa một chút thôi.”

Ngọc Chân Tử đã biết cô gái này dung mạo đẹp đẽ, lời nói nghe động lòng người nhưng ra tay không chút dung tình. Hắn ỷ võ công mình thiên hạ vô địch nên chẳng sợ hãi gì, mỉm cười nói: “Nếu cô nương thua thì phải theo ta về.”

Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Còn ông thua thì sao? Ta không muốn dắt ông theo đâu.”

Nàng vung tít song câu tấn công. Ngọc Chân Tử không dám sơ ý, thấy chiêu nào đỡ chiêu đó, hai bên bắt đầu tỉ đấu.

Mai Kiếm Hòa bước tới dìu Tôn Trọng Quân dậy. Mọi người lúc đầu thấy Hà Thiết Thủ đánh ngã anh em họ Phùng, cứ tưởng hai thiếu niên đó học nghệ chưa tới đâu. Bây giờ thấy nàng tử đấu với tên ác đạo, thân pháp nhẹ nhàng linh hoạt, song câu biến thành một làn kim quang, một đường hắc khí, cố sức phong tỏa trường kiếm của Ngọc Chân Tử, ai cũng phải chắc lưỡi khen thầm.

Mọi người đều muốn tiến lên trợ giúp, nhưng thấy hai người tỉ đấu kịch liệt như vậy, binh khí phát ra tiếng gió, tiến thoái nhanh chóng không sao tả được, chiêu nào thức nào cũng cực cao siêu. Họ nhìn cũng không hiểu lắm chứ đừng nói đến chuyện chống đỡ, đều cảm thấy võ công mình không sánh kịp người ta, nên không dám nhúng tay vào.

Hai bên càng đấu càng hăng, chiêu thức càng lúc càng nhanh. Đột nhiên nghe “keng” một tiếng, kim câu đã bị Ngọc Chân Tử dùng bảo kiếm chém đứt một khúc. Hà Thiết Thủ vẫy tay, trong tay áo bay ra một vật gì đó. “Bùm” một tiếng, vật đó nổ ngay trước mặt Ngọc Chân Tử, hóa thành một đám khói hồng. Lúc này mặt trời vừa mọc, nắng mai rọi vào đám mây hồng trông rất đẹp mắt.

Ngọc Chân Tử nhảy sang một bên, giận dữ hỏi: “Ngươi là bọn Ngũ Độc Giáo phải không? Sao ở chỗ này?”

Một cơn gió thoảng qua. Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi đứng dưới gió, lập tức chóng mặt ngất xỉu.

Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Bây giờ ta đã cải tà quy chính, đầu nhập phái Hoa Sơn. Ông cũng cải tà quy chính đi, bái ta làm sư phụ được không? Tiểu đạo sĩ kia! Mau khấu đầu đi!”

Ngọc Chân Tử vung tả chưởng đẩy ra một luồng gió, thổi tan đám khói hồng trước mặt rồi lại thi triển chưởng pháp đánh tới như dời non lấp biển. Hà Thiết Thủ thấy kiếm pháp hắn đã tinh diệu, chưởng lực cũng lợi hại không kém. Nàng tức tốc xoay tay lôi cây Yết Vĩ Tiên trong áo ra, đảo người né tránh phát chưởng, vẫy roi cuộn vào cổ tay Ngọc Chân Tử.

Hôm nay Ngọc Chân Tử lên núi, cứ tưởng một mình một kiếm đại phá phái Hoa Sơn. Nào ngờ chưa gặp chủ nhân đã bị cô bé này hóa giải rất nhiều chiêu thức. Hắn quyết không để nàng đón đủ ba chiêu nữa, bèn nhìn chính xác chỗ đầu roi đánh tới rồi đưa tay trái ra. Hai ngón giữa và trỏ đã kẹp cứng lấy Yết Vĩ Tiên. Ngón tay hắn có đeo bọc thép nên không sợ gai độc trên roi.

Hà Thiết Thủ cố giật roi về mà không nổi. Trường kiếm của đối phương đã chém tới nơi, nàng gấp rút buông roi, mỉm cười nói: “Ta thua rồi. Thôi thì bái ông làm sư phụ vậy.”

Ngọc Chân Tử cười ha hả, ném Yết Vĩ Tiên xuống đất. Đột nhiên trước mắt ánh sáng xanh nhấp nháy, hắn biết có chuyện không hay, vội vàng vẫy tay áo bào, nhảy vọt lên không. Một trận mưa cương châm nhỏ xíu ghim hết vào bụi cỏ.

Hà Thiết Thủ giả vờ quỳ xuống, âm thầm phát xạ ám khí Hàm sa xạ ảnh. Diễn biến trong chớp nhoáng, lại hoàn toàn không có dấu hiệu báo trước, lẽ ra phải trúng. Không ngờ Ngọc Chân Tử trong khoảng cách không chêm được sợi tóc mà vẫn tránh được. Vạt đạo bào của hắn bị xuyên mấy lỗ, đúng là thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Hắn vừa kinh hãi vừa giận dữ, người đang lơ lửng trên không trung bỗng như một con chim ưng chụp xuống đầu Hà Thiết Thủ.

A Cửu đứng bên quan sát, lúc nào cũng lo lắng cho Hà Thiết Thủ, chỉ vì vết thương bị chặt tay chưa lành hẳn, võ công lại yếu nên không thể ra tay trợ giúp. Thấy Ngọc Chân Tử nhảy xổ xuống hung hãn, nàng vẫy tay bắn hai mũi Thanh trúc tiêu về phía hắn.

Ngọc Chân Tử chỉ liếc qua đã thấy A Cửu đẹp đẽ thoát tục, chưa từng gặp cô gái nào như thế. Bây giờ thấy mỹ nhân xuất thủ, hắn không nỡ đả thương nên không hất trả trúc tiêu về chủ cũ, chỉ vẫy tay áo gạt trúc tiêu bắn về phía Hà Thiết Thủ.

Hà Thiết Thủ vung câu gạt trúc tiêu, tập trung tinh thần nghênh chiến. Nàng biết địch thủ quá mạnh, mình không thắng nổi, chỉ lo tự vệ cẩn mật để kéo dài thời gian.

Ngọc Chân Tử đánh đã lâu mà không hạ được đối phương nên trong lòng không khỏi lo lắng, bèn rút nốt phất trần ra để tấn công. Binh khí của hắn có cương có nhu, oai thế tăng hẳn lên.

Mọi người thấy nguy, không hẹn mà cùng xông lên tương trợ. Lưu Bội Sinh nghe soạt một tiếng, trên vai đau đến tận xương tủy. Trong phất trần có xen kẽ những sợi kim ti, cộng thêm nội lực hùng hậu, nên người nào võ công hơi kém là lập tức bị phất trần của hắn đánh ngã.

Mai Kiếm Hòa la gọi Tôn Trọng Quân: “Mau mau đi mời sư phụ, sư nương, sư bá, sư thúc!” Y thấy võ công của Ngọc Chân Tử cực cao, trên đời hiếm thấy, e rằng mấy cao thủ hiệp sức lại mới kiềm chế nổi.

Tôn Trọng Quân vâng dạ quay lưng, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đạo trưởng! Đến đây, mau mau đến đây!”

Mọi người đang tỉ đấu khẩn trương, không rảnh để quay lại nhìn. Bỗng nghe một âm thanh già nua vọng đến: “Hay lắm! Ngươi đến đây rồi.”

Ngọc Chân Tử xuất liền mấy chiêu đẩy mọi người ra, lạnh nhạt nói: “Sư ca! Sư ca khỏe chứ?”

Bây giờ mọi người mới nhìn thấy, thì ra Mộc Tang đạo trưởng đang cầm bàn cờ và túi quân cờ đứng ở phía sau. Đệ tử Hoa Sơn đều biết Mộc Tang đạo trưởng là hảo bằng hữu của sư tổ, võ công cũng tương đương sư tổ. Có đạo trưởng ở đây, đối thủ lợi hại đến đâu cũng khó chiếm được lợi thế. Nhưng họ nghe Ngọc Chân Tử gọi lão là sư ca, đều không khỏi kinh ngạc.

Mộc Tang đạo nhân xanh hẳn mặt, nghiêm giọng hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”

Ngọc Chân Tử mỉm cười đáp: “Ta đến tìm người. Phải đòi một món nợ của thằng lỏi họ Viên phái Hoa Sơn, nhân tiện thu nhận ba nữ đồ đệ.”

Mộc Tang đạo nhân chau mày nói: “Mười mấy năm rồi, thế mà tính khí của ngươi chẳng thay đổi chút nào. Mau xuống núi đi!”

Ngọc Chân Tử hừ một tiếng rồi nói: “Năm xưa, ngay cả sư phụ cũng không quản thúc được ta. Bây giờ sư ca lại muốn dạy dỗ ta ư?”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Ngươi nghĩ thử xem mấy năm nay đã gây ra bao nhiêu chuyện thương thiên hại lý. Ta muốn đi Tây Tạng tìm ngươi từ lâu rồi.”

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Thế thì hay lắm. Anh em ta đã lâu không được gặp nhau.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Hôm nay ta khuyên ngươi lần cuối. Nếu ngươi tiếp tục làm ác, không chịu sửa đổi, đừng trách sư huynh vô tình.”

Ngọc Chân Tử cười nhạt, nói: “Ta một mình một kiếm hoành hành thiên hạ, xưa nay không ai dám vô lễ nửa câu.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Phái Hoa Sơn xưa nay với ngươi như nước sông không phạm vào nước giếng. Bây giờ ngươi bức hiếp đám đệ tử của Mục sư huynh, khi Mục sư huynh trở về ta phải cư xử sao đây?”

Ngọc Chân Tử lại cười nhạt, đáp: “Ta với ngươi đã tuyệt tình đoạn nghĩa từ lâu, ai mà không biết. Mục Nhân Thanh chỉ có hư danh. Ngọc Chân Tử này đã có gan đến Hoa Sơn, dĩ nhiên không hề bận tâm đến con khỉ già đó. Ai bảo phái Hoa Sơn không phạm đến ta? Ta không hề đắc tội với con khỉ già họ Mục đó, sao hắn lại phái người đến Thịnh Kinh quấy rối ta?”

Mộc Tang đạo nhân không biết Viên Thừa Chí đã cùng Ngọc Chân Tử giao đấu một phen ở Thẩm Dương, bây giờ cũng không có thời gian mà hỏi. Lão thở ra một hơi rồi xách cái bàn cờ lên, nói: “Cuối cùng thì hai người chúng ta lại phải động thủ. Phen này ngươi đừng mong ta tha ngươi nữa. Lên đi!”

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Ngươi muốn động thủ với ta? Hừ, xem cái gì đây.”

Nói xong, hắn thò tay vào bọc lấy ra một thanh thiết kiếm nhỏ xíu, đưa cao lên đầu. Hắn cầm ngang thiết kiếm, để lộ ra chuôi kiếm bằng gỗ trắng. Mộc Tang nhìn thấy hai dòng chữ đen ghi trên chuôi kiếm, chần chừ hồi lâu rồi đổi hẳn sắc mặt, run giọng nói: “Được, được! Ngươi ở Tây Tạng nửa năm thật là không uổng, quả nhiên đã lấy được rồi.”

Ngọc Chân Tử quát lên: “Mộc Tang! Đã thấy thiết kiếm của tổ sư, còn không quỳ xuống?”

Mộc Tang đạo nhân thả cả bàn cờ lẫn túi cờ xuống, cung kính quỳ xuống dập đầu lạy Ngọc Chân Tử.

Đệ tử phái Hoa Sơn đều mong Mộc Tang đạo nhân xuất thủ thu phục tên ác đạo, nào ngờ Mộc Tang đạo nhân lại khấu đầu hành lễ. Ai cũng vừa kinh ngạc vừa thất vọng.

Ngọc Chân Tử cười nhạt rồi nói: “Ngươi đã nhiều lần sỉ nhục ta. Trước đây ta vẫn nể ngươi là sư huynh, lần nào cũng nhường nhịn. Bây giờ thì sao?”

Mộc Tang cúi đầu không đáp. Ngọc Chân Tử nhấc tả chưởng lên, một luồng kình phong đập từ trên xuống. Mộc Tang đạo nhân không đánh trả cũng không tránh né, chỉ vận khí lên lưng chống đỡ. “Bình” một tiếng, đạo bào rách thành trăm mảnh, lão lắc lư mấy cái nhưng vẫn tiếp tục quỳ ở đó.

Ngọc Chân Tử tái mặt, lại đánh lên vai Mộc Tang đạo nhân. Chưởng này hoàn toàn không phát âm thanh, cũng không xé rách áo, nhưng nội kình cực lớn, chẳng dễ chịu gì. Mộc Tang đạo nhân bò xoài ra đất, ọe một búng máu lớn, phun lên tảng đá bên cạnh. Ngọc Chân Tử chẳng chút dung tình, tiếp tục đưa chưởng lên, lần này nhằm đánh vào đỉnh đầu Mộc Tang đạo nhân.

Mọi người đều biết phen này Mộc Tang đạo nhân mất mạng, tới tấp phóng ám khí tấn công Ngọc Chân Tử. Hắn khua tay như một cây quạt sắt, vẫy vẫy mấy cái đánh rơi tất cả ám khí bắn tới, rồi lại nhấc bàn tay lên.

A Cửu đứng gần Mộc Tang đạo nhân nhất. Nàng thấy lão râu tóc bạc phơ lại bị bức hiếp như thế, bỗng khích động tấm lòng nghĩa hiệp. Nàng nhảy xổ tới, dùng thân mình bảo vệ đỉnh đầu Mộc Tang đạo nhân.

Ngọc Chân Tử ngơ ngẩn nghĩ thầm: “Thiên hạ có người xinh đẹp đến thế hay sao? Ta chưa gặp bao giờ, phải thu chưởng mới được.”

Hắn bèn ngừng tay, phát chưởng đó không đánh xuống. Đột nhiên phía sau có tiếng ho khan. Một ông lão ăn mặc theo kiểu nho sinh đang bước tới.

Hà Thiết Thủ thấy người này xuất hiện bên A Cửu mà không ai hay biết, thân pháp trên đời hiếm thấy. Nàng tưởng bên địch có thêm cao thủ đến giúp, sợ A Cửu bị hại bèn lập tức nhảy vào, vừa vung hữu chưởng tấn công vừa quát: “Cút đi!”

Ông lão xoay tay trái lại đỡ. Hà Thiết Thủ cảm thấy một luồng đại lực ào tới, không sao đứng vững phải liên tiếp lùi lại bốn bước rồi mới cố dừng lại được. Nàng kinh hãi định phát ám khí, bỗng thấy đám đệ tử Hoa Sơn quỳ xuống thi lễ, đồng thanh hô lên: “Sư tổ!”

Thì ra Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh đã đến. Hà Thiết Thủ vừa hoảng sợ vừa xấu hổ, thầm la lên: “Hỏng bét! Phen này mình vô lễ với sư tổ như vậy, e rằng không được nhập môn phái Hoa Sơn nữa”. Nhất thời nàng không biết mình nên quỳ xuống hay không.

Lúc này Mộc Tang đạo nhân đã đứng dậy, lùi ra, tựa vào vai A Cửu, cố gắng điều hòa hơi thở, chốc chốc lại phun máu tươi ra.

Mục Nhân Thanh quay lại nói với Ngọc Chân Tử: “Nhất định đạo trưởng là Ngọc Chân Tử. Đối với sư huynh mà hạ độc thủ như thế… Hay lắm, hay lắm! Ta phải liều mấy khúc xương già này để đối chiêu với đạo trưởng.”

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Thiên hạ thường hỏi ta: Ngọc Chân đạo trưởng! Mục Nhân Thanh tự xưng là quyền kiếm thiên hạ vô song, nhưng so với đạo trưởng thì ai cao ai thấp? Ta vẫn đáp: Chưa biết, bao giờ ta gặp Mục Nhân Thanh tỉ thí rồi sẽ rõ. Từ nay về sau, có thể biết ai là vô địch trong thiên hạ rồi.”

Quần đệ tử thấy sư tổ đích thân ra tay đối phó với ác đạo, ai cũng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Đa số chưa được chứng kiến võ công của sư tổ, đây quả là cơ hội khó gặp trong đời.

Lưu Bội Sinh thì nghĩ sư tổ tuổi tác đã cao, tuy võ công tuyệt đỉnh nhưng sợ tinh thần và khí lực không bằng tên tặc đạo đang tuổi tráng niên, liền chạy về mời sư phụ, sư nương. Vào trong thạch thất, y thấy Viên Thừa Chí ràn rụa nước mắt đứng trước giường; sư bá, sư phụ, sư nương, Hồng Thắng Hải, ông câm đều ủ rũ, sư nương còn khóc thút thít.

Lưu Bội Sinh giật mình kinh hãi, đến gần thì thấy Thanh Thanh cặp mắt sâu lõm vào trong, sắc mặt sạm đen, thở hắt ra nhiều hơn hít vào, rõ ràng không thể sống nữa. Ngoài kia Ngọc Chân Tử quấy phá đất trời đảo lộn mà họ vẫn ở trong nhà, thì ra vì Thanh Thanh sắp nguy nên không ai ra ngoài quan sát.

Thanh Thanh hơi trước không tiếp được hơi sau, vừa khóc vừa nói: “Ca ca đã hứa với mẫu thân muội, suốt đời… suốt đời chăm sóc cho muội. Ca ca lừa gạt muội… lừa gạt cả mẫu thân muội…”

Viên Thừa Chí nắm lấy tay nàng, nói: “Ca ca không lừa gạt muội. Ca ca sẽ chăm sóc đến muội suốt đời.”

Lưu Bội Sinh khẽ nói: “Sư phụ! Tên ác đạo kia lợi hại quá, sư tổ phải đích thân ra trận.”

Quy Tân Thụ thấy thần sắc Lưu Bội Sinh nghiêm trọng, biết đối thủ là đại kình địch. Ông bỗng thấy lo lắng cho sư phụ, lập tức chạy ra ngoài. Hoàng Chân bảo Quy nhị nương và Viên Thừa Chí: “Chúng ta cũng ra đi!”

Viên Thừa Chí cúi xuống ôm lấy Thanh Thanh, cùng mọi người rảo bước chạy ra. Mọi người ra phía sau núi, từ xa đã thấy Mục Nhân Thanh tay cầm trường kiếm, còn Ngọc Chân Tử tay phải cầm bảo kiếm, tay trái nắm phất trần, đứng đối diện nhau chuẩn bị giao đấu.

Viên Thừa Chí nhận ngay ra Ngọc Chân Tử, mùa thu năm ngoái đã hai lần giao đấu với chàng. Lần đầu, chàng bị bọn bố khố đông đúc quấn chặt tay chân, bị hắn điểm trúng ba chỉ. Lần sau, hắn bị Hồ Quế Nam trộm hết áo quần, quấn chăn lúng túng nên bị chàng đánh cho một quyền một chưởng, đá thêm một cước. Hai lần tỉ thí đều ở hoàn cảnh đặc biệt, nên không thể nói là đã phân thắng bại. Chàng lập tức hô lớn: “Sư phụ! Để đệ tử đối phó với hắn.”

Mục Nhân Thanh và Ngọc Chân Tử đều biết đối phương là cao thủ tuyệt thế, trận này chỉ cần sơ suất một chút thì chẳng những thanh danh cả đời trôi theo dòng nước, ngay cả tính mạng cũng khó mà giữ được. Vì thế cả hai đều tập trung tinh thần quan sát đối phương, Viên Thừa Chí hô hoán nhưng chẳng ai nghe thấy.

Viên Thừa Chí giao Thanh Thanh vào tay Hà Thiết Thủ, bảo: “Chăm sóc cho cô ấy.” Mới nói có thế, chàng đã thấy Ngọc Chân Tử vẫy phất trần lên, phất vào vai trái Mục Nhân Thanh. Chàng biết hai đại cao thủ này mà khai diễn cuộc đấu thì khó mà tách ra được nữa. Sư phụ tuổi tác đã cao, chẳng lẽ để lão nhân gia đích thân đối địch? Vì thế chàng vận hết kình lực xuống chân, như một con chim ưng bay vọt tới chỗ Ngọc Chân Tử. Hoàng Chân và Quy Tân Thụ cũng nghĩ như vậy, ba người không hẹn mà cùng lúc tấn công.

Ngọc Chân Tử thu lại phất trần, lùi hai bước. Hắn nghe tiếng gió như có người nhảy qua đầu, bèn lập tức rụt đầu xuống. Đột nhiên hắn cảm thấy đỉnh đầu mát lạnh, đạo quan trên đầu đã bị đánh rơi. Hắn giận dữ vung trường kiếm sử chiêu Long Quyển Bào Thân, chém nhanh như chớp về phía cánh tay trái đối phương. Chiêu này quá độc, Viên Thừa Chí lơ lửng trên trời khó bề tránh né. Chàng vội co cánh tay lại, nghe xoẹt một tiếng, tay áo đã bị lưỡi kiếm cắt đứt một miếng.

Tay áo mềm mại, lại đang lơ lửng không có chỗ chịu lực, thế mà bị nhát kiếm này hớt đứt. Chẳng những thanh kiếm sắc bén phi thường mà nội kình của người sử kiếm cũng kinh người. Viên Thừa Chí chạm đất, đứng vững lại; ba sư huynh đệ cùng đứng chắn trước mặt sư phụ.

Mọi người thấy hai người giao đấu chiêu này cực nhanh, nhoáng cái đã qua. Xong rồi nghĩ lại, ai cũng toát mồ hôi lạnh. Nếu Ngọc Chân Tử tránh né hơi chậm, sọ hắn đã bị chưởng lực Viên Thừa Chí chấn vỡ. Nếu cánh tay Viên Thừa Chí không giật về nhanh như chớp, đã bị bảo kiếm chém lìa.

Ngọc Chân Tử đã học hết tuyệt nghệ của sư môn, ở Tây Tạng lại gặp kỳ duyên nên gần đây võ công tiến bộ rất nhiều. Hắn tự tin trong thiên hạ không còn ai thắng nổi mình, ngay cả sư huynh Mộc Tang cũng không phải là đối thủ. Dĩ nhiên hắn biết oai danh của Mục Nhân Thanh, nhưng nghĩ rằng tuổi tác của ông đã già, khí lực giảm sút, chỉ cần phòng thủ thận trọng, kéo dài thời gian để đối phương mệt mỏi là chắc chắn chiếm được thượng phong. Hơn nữa hắn đang cầm thanh bảo kiếm chém sắt như chém bùn, có lợi thế về mặt vũ khí nên thắng chắc tám phần, nào ngờ có cao thủ đột nhiên tập kích.

Định thần nhìn lại, hắn thấy đối thủ chính là Viên Thừa Chí đã đánh mình trọng thương năm ngoái ở Thịnh Kinh. Hôm đó hắn không một mảnh vải che thân mà lăn ra té ngửa trước mặt Hoàng Thái Cực và mấy trăm tên võ sĩ, nỗi hổ thẹn không gì sánh nổi. Đêm đó Hoàng Thái Cực đột ngột băng hà, Cửu vương gia đổ cho dáng vẻ quái lạ của hắn làm hoàng thượng kinh hãi phát bệnh, sai bắt hắn trị tội. Lúc đó hắn bị trọng thương, không có sức phản kháng.

Bây giờ gặp lại kẻ thù, cơn giận bùng lên không thể kiềm chế được nữa. Hắn quát lớn: “Viên Thừa Chí! Hôm nay ta đến đây là để tìm ngươi. Mau mau tới đây nộp mạng.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bây giờ ngươi mặc quần áo đàng hoàng rồi, trận này chúng ta quyết đấu công bằng.”

Ngọc Chân Tử thấy tay chàng không cầm binh khí, liền quẳng bảo kiếm xuống đất rồi nói: “Hôm nay ta dùng quyền cước lấy mạng ngươi, để ngươi chết mà không oán trách.”

Từ lúc Viên Thừa Chí xuất hiện, ánh mắt của A Cửu chẳng lúc nào rời chàng. Bây giờ thấy chàng tỉ thí với Ngọc Chân Tử, nàng đã biết võ công Ngọc Chân Tử cực cao, trận này sống chết chỉ trong khoảnh khắc, không chừng sắp phải tử biệt sinh ly. Nàng bèn bước tới mấy bước, lên tiếng: “Đại ca! Tiểu muội ở đây. Muội khỏe rồi, vết thương trên tay đã lành hẳn.”

Nàng biết Viên Thừa Chí đối với mình tình cảm thâm trọng, sợ chàng vì lo lắng cho mình mà không tập trung được khi quyết đấu với cường địch.

Viên Thừa Chí đột nhiên gặp nàng ở đây, bèn quay đầu lại nhìn Thanh Thanh đang nằm trong lòng Hà Thiết Thủ, thở dài nói: “Muội nhất định phải bảo trọng…”

Chàng lại bảo Hà Thiết Thủ: “Thiết Thủ! Nhờ cô lo lắng cho cô ấy.”

Hà Thiết Thủ nháy mắt đầy vẻ giễu cợt, hỏi: “Sư phụ! Sư phụ bảo muội lo lắng cho cô nào?”

Nàng nghĩ bụng, tiểu sư phụ đúng là tam tâm lưỡng ý, đã ra vẻ chung tình với Thanh Thanh nhà họ Hạ, mà đối với A Cửu nhà họ Chu vẫn tình tứ vô cùng. Nếu chàng bảo mình lo lắng cho A Cửu, tức là bản thân chàng sẽ lo lắng cho Thanh Thanh. Nếu chàng bảo mình lo lắng cho Thanh Thanh, thế thì tự chàng sẽ lo lắng cho A Cửu muội muội. Nàng hỏi câu này bằng giọng nhõng nhẽo đùa nghịch, nghe rất khêu gợi.

Ngọc Chân Tử thấy vậy, không chịu nổi phải la lên: “Đồ đệ giỡn mặt sư phụ, chẳng ra thể thống gì nữa!”

Hắn xuất một quyền, đánh thẳng vào mặt Viên Thừa Chí nghe vù một tiếng. Viên Thừa Chí đưa tay trái cản trở, trong lòng bỗng âm thầm kinh hãi, cảm thấy so với năm ngoái ở Thịnh Kinh, tên ác đạo này đã tiến bộ rất nhiều về cả nội kình lẫn quyền pháp. Chàng lập tức tập trung tinh thần, thi triển Phá Ngọc Quyền của sư môn để phản kích.

Lúc này màn sương mù dày đặc đã tan hết, ngọn núi hiện ra một màu đỏ chói dưới ánh dương quang. Mọi người đứng quanh thành một vòng tròn lớn. Mục Nhân Thanh ở ngoài vòng, lo cứu chữa Mộc Tang đạo nhân. Hoàng Chân và Quy Tân Thụ đứng trong vòng, chăm chú quan sát đề phòng.

Ngọc Chân Tử nghiến răng lại nói: “Thằng ăn trộm kia đâu rồi? Gọi hắn ra đây cùng chết với ngươi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Huynh ấy bận đi ăn trộm y phục của người khác.”

Qua lại mười mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã biết tuy đối phương mạnh hơn, nhưng sau này võ công mình cũng có phần tiến bộ, tuy khó thắng nhưng cũng khó thua. Trong lòng chàng thoải mái, khí thế càng tăng. Hai bên tỉ đấu ngang ngửa một lúc, chàng lại nghĩ: “Giả tỉ mình không thắng nổi tên này, Nhị sư ca sẽ tiến ra, cũng có thể giao đấu ngang tay. Sau đó tới sư phụ mình, Mộc Tang đạo trưởng, Thiết Thủ ba người cùng lên. Nếu vẫn không thắng, mình và Nhị sư ca lại nhảy vào. Mỗi người cứ giao đấu một giờ, sử dụng phép xa luân chiến thì dù tên ác đạo này có bản lãnh thần thông cũng phải mệt mỏi mà chết. Phe ta chỉ thắng chứ không bại được, dù phải đánh tới ba ngày ba đêm cũng chẳng sao.”

Sau này chàng thường gặp gỡ những tướng lĩnh của Sấm Vương, nghiên cứu binh pháp khá nhiều, hiểu được lẽ thắng bại không phải chốc lát là xong. Suy nghĩ rõ ràng rồi, quyền cước chàng liền chậm lại, không mong đánh trúng địch thủ ngay, chỉ mong không bị sơ hở. Chàng tập trung cả thần khí lẫn nội công, giữ gìn môn hộ nghiêm mật vô cùng. Ngọc Chân Tử thì không ngớt thay đổi chiêu thức tấn công mãnh liệt, còn Viên Thừa Chí cứ tà tà chiết giải, thấy chiêu đỡ chiêu trông rất thoải mái.

Quyết định xong đấu pháp, trên mặt chàng bỗng lộ ra một nụ cười. Thanh Thanh thấy chàng cười, bèn hỏi Hà Thiết Thủ: “Chàng… sao chàng lại cười? Có gì đáng cười đâu?”

Hà Thiết Thủ cũng không hiểu, đành nói bừa: “Huynh ấy biết cô nương đang ở bên cạnh, nên trong lòng vui vẻ.”

Thanh Thanh liếc xéo nàng một cái, bảo: “Đừng xạo nữa.”

Võ công của Ngọc Chân Tử cao cường, kiến thức dĩ nhiên cũng hơn người. Hắn thấy Viên Thừa Chí xuất chiêu ổn định, biết chàng cố giữ không thua rồi mới tìm chỗ sơ suất mà thắng, lập tức quyết định cũng dùng đấu pháp “hậu phát chế nhân” để đỡ hao phí sức. Những người đứng xem, ai võ công hơi thấp chỉ thấy hai người nhìn nhau là chính, thân pháp trì trệ, chiêu thức lỏng lẻo. Nào ngờ lúc này thắng bại quyết định chỉ trong chớp nhoáng, sinh mạng của hai đấu thủ cùng treo trên sợi tóc, so với lúc nãy hăng hái đối chiêu, la hét dữ dội, còn nguy hiểm hơn rất nhiều.

Tôn Trọng Quân hận Ngọc Chân Tử vừa sỉ nhục mình, trước bao nhiêu cặp mắt mà cứ hôn lia lịa lên má mình, thế nhưng mình lại hoàn toàn bất lực. Nỗi hận này thật khó tiêu hóa. Bây giờ ả thấy hai người đang tập trung tinh thần tỉ đấu, liền đưa đơn câu lên, muốn nhảy tới đâm lén tên ác đạo một nhát.

Mai Kiếm Hòa thấy ả cầm câu bước lên phía trước, bèn hoảng sợ đưa tay kéo lại, nói nhỏ: “Sư muội muốn mất mạng ư? Làm gì thế?”

Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Mặc kệ muội! Muội phải thí mạng với tên tặc đạo này.”

Mai Kiếm Hòa nói: “Tặc đạo đã biết tiểu sư thúc lợi hại, đang thi triển công phu thượng thừa để bảo vệ toàn thân. Sư muội lên đó chỉ mất mạng thôi.”

Tôn Trọng Quân ra sức giãy khỏi tay sư huynh, la lên: “Mặc kệ muội! Muội phải giúp sư thúc.” Trước đây ả rất hận Viên Thừa Chí, chưa từng nhắc đến hai chữ “sư thúc”. Bây giờ thấy Viên Thừa Chí đối địch với tên ác đạo, bao nhiêu ấm ức trong lòng bỗng tiêu tan hết.

Mai Kiếm Hòa bảo: “Thế thì sư muội dùng ám khí thử xem.”

Tôn Trọng Quân lấy ra một mũi cương tiêu, vận kình phóng vào lưng Ngọc Chân Tử. Ngọc Chân Tử đang tập trung toàn bộ tinh thần quan sát thân pháp Viên Thừa Chí, hình như không phát giác cây cương tiêu bay tới. Tôn Trọng Quân thấy chắc ăn, đang mừng rỡ bỗng nghe “vèo” một tiếng.

Mai Kiếm Hòa lạc giọng la lên: “Hỏng rồi!” Y vội ôm chầm lấy sư muội, xô ngã xuống đất.

Tôn Trọng Quân ngã chưa chạm đất, đã thấy cây cương tiêu bay ngược về sắp bắn vào ngực mình, không biết tên ác đạo kia làm thế nào để xoay chuyển tình thế. Ả không kịp tránh né gì nữa, trợn mắt lên chờ chết. Đột nhiên một vệt trắng loáng qua, một bàn tay xinh xắn đưa tới, dùng hai ngón tay kẹp lấy cương tiêu giữ lại. Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân đều thót tim, khi đứng dậy mới biết người vừa ra tay cứu mạng là Hà Thiết Thủ. Tôn Trọng Quân không nén nổi vừa hổ thẹn vừa cảm kích, gật đầu đa tạ.

Trận chiến giữa Viên Thừa Chí và Ngọc Chân Tử dần dần thay đổi. Hai bên đều dùng quyền pháp nhanh hơn, tấn công quyết liệt hơn. Viên Thừa Chí vẫn thi triển quyền cước chính tông của phái Hoa Sơn, thỉnh thoảng lại xen vào mấy chiêu cổ quái của Kim Xà Lang Quân. Trận này có nhiều chiêu thức kỳ lạ, ngay cả Mục Nhân Thanh cũng thấy mình được mở rộng tầm nhìn, vừa xem vừa gật đầu không ngớt. Mộc Tang đạo nhân cũng hé miệng mỉm cười, thều thào khen: “Nước đi hay, nước đi hay lắm.”

Hoàng Chân, Quy Tân Thụ, Quy nhị nương, Phùng Nan Địch đều vô cùng khâm phục. Bọn đệ tử Hoa Sơn khác lại càng hoa cả mắt, chắc lưỡi khen ngợi không dứt.

Lát sau, hai bên đều sử dụng công phu Thần Hành Bất Biến. Khi ở Thịnh Kinh, Ngọc Chân Tử từng thấy Viên Thừa Chí thi triển khinh công này, đoán chắc chàng là truyền nhân của Mộc Tang, thế thì tên đệ tử phái Hoa Sơn này có thể gọi là môn nhân Thiết Kiếm Môn. Phen này hắn muốn dùng thiết kiếm để đoạt mạng Viên Thừa Chí, rửa mối nhục năm ngoái.

Hai người chạy vòng vòng quanh nhau, tỉ đấu thêm mấy chục hiệp nữa, Ngọc Chân Tử đột nhiên nhảy ra ngoài. Hắn lấy cây thiết kiếm nhỏ xíu ra giơ lên, quát lớn: “Ngươi là đệ tử Thiết Kiếm Môn, thấy thiết kiếm sao không quỳ xuống?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta là đệ tử phái Hoa Sơn.”

Ngọc Chân Tử hét lên: “Nếu ngươi không phải đệ tử của Mộc Tang, sao lại biết công phu Thần Hành Bất Biến? Ngươi là đệ tử của hắn, dĩ nhiên là môn nhân Thiết Kiếm Môn. Thiết kiếm ở đây, mau mau quỳ xuống để ta xử phạt.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ngươi mau mau quỳ xuống để ta xử phạt.”

Ngọc Chân Tử quay lại hỏi Mộc Tang đạo nhân: “Công phu Thần Hành Bất Biến của hắn, chẳng lẽ không phải do ngươi truyền thụ?”

Mộc Tang đạo nhân lắc đầu đáp: “Không phải do ta truyền thụ.”

Ngọc Chân Tử biết sư huynh xưa nay không nói dối, nên hết sức ngạc nhiên. Hắn ngẫm nghĩ một chút, lại nhảy vào tái đấu với Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí vừa lo công thủ tiến thoái vừa nghĩ tới mấy câu đối đáp vừa rồi của hai người. Trước kia Mộc Tang đạo nhân dạy khinh công ám khí cho mình, chỉ coi như phần thưởng khi chơi cờ vây, nhất quyết không cho mình gọi là sư phụ. Sau này Thần Hành Bất Biến lại bảo Thanh đệ truyền thụ, thì ra bên trong có ý nghĩa sâu xa chứ không phải chuyện giỡn chơi.

Nghĩ đến Thanh Thanh chàng lại cảm thấy lo lắng, bất giác liếc mắt nhìn xem. Nàng đang ngồi tựa vào một tảng đá lớn, trong miệng ngậm một miếng gì đó màu đỏ chói, còn Hà Thiết Thủ đang cắt tay nàng để trích máu giải độc. Viên Thừa Chí vui mừng vô kể, nghĩ thầm: “Độc khí trong sơn động, chắc là phát xuất từ độc vật của Ngũ Độc Giáo. Hà Thiết Thủ đã biết cách giải, phen này chắc chắn cứu được rồi.”

Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí nhìn mình, cũng ngẩn ngơ nhìn lại. Ngọc Chân Tử phát hiện địch thủ không tập trung, đột nhiên đánh tới một chưởng từ phương vị rất bất ngờ. Viên Thừa Chí giật bắn người, vội phóng chưởng ra cản trở.

Thanh Thanh la lên: “Đại ca cẩn thận!”

Viên Thừa Chí “À” một tiếng, nghiêng mình tránh né một phát chưởng nữa của đối phương. Chàng lại thấy A Cửu bước lên nửa bước như muốn ra tay trợ giúp, vội bảo: “A Cửu! Đừng ra đây, ca ca không thua được đâu.”

Ngọc Chân Tử hô lớn: “Các ngươi nhìn kỹ, xem hắn có thua được không.”

Quyền cước hắn càng hung hãn. Viên Thừa Chí đã thi triển gần hết bộ Phá Ngọc Quyền, cả Hỗn Nguyên Chưởng cũng đã trút ra toàn bộ tuyệt chiêu rồi, thế mà không chiếm được thượng phong chút nào. Chàng bèn thay đổi bộ pháp, bắt đầu sử dụng Kim Xà quyền pháp biến hóa đa đoan.

Ngọc Chân Tử mắng: “Đúng là đồ bàng môn tả đạo! Ta chưa thấy loại quyền cước nào khốn nạn thế này.”

Kim Xà quyền pháp là do Kim Xà Lang Quân sáng chế trên đỉnh Hoa Sơn, lúc ông nhớ nhung Ôn Nghi yêu dấu. Trong đó có nhiều chiêu thức tựa như tâm sự với Ôn Nghi, chẳng ra vẻ gì khắc địch chế thắng cả. Không ít chiêu thức nhằm đánh vào chỗ trống, toàn là hư chiêu, trái hẳn quy luật bình thường, rõ ràng hoàn toàn vô ích. Những tôn sư võ học như Mục Nhân Thanh, Mộc Tang đạo nhân cũng chưa thấy quyền pháp nào như thế, đều phải ngạc nhiên.

Viên Thừa Chí sử dụng tới Kim Xà quyền pháp, mục đích chỉ là tiêu hao khí lực của địch thủ, để sư phụ, sư huynh dễ thắng, chứ không hy vọng sử dụng quyền pháp này đánh thắng Ngọc Chân Tử. May mà chàng còn trẻ tuổi, không phải cao thủ nổi tiếng của phái Hoa Sơn, nên trong lúc nguy cấp phải sử dụng công phu cổ quái cũng không làm tổn hại oai danh phái Hoa Sơn gì lắm.

Quyền pháp này chàng ít khi luyện tập, xuất thủ không thuần thục, mà cũng chưa nắm chắc chỗ tinh yếu bên trong. Sử đến chiêu Ý Giả Tình Chân, người chàng xoay tít mấy vòng, quyền đánh ra toàn là hư chiêu, đột nhiên chuyển hướng trái phải trên dưới loạn xạ, ngay cả chàng cũng không tự biết mình đánh về hướng nào.

Trong chớp nhoáng Viên Thừa Chí vừa nhìn Thanh Thanh vừa nhìn A Cửu, trong lòng đột nhiên nảy ra suy nghĩ: “Hai cô nương này đối với mình đều chân tình chứ không giả ý. Rốt cuộc thì mình yêu mến ai hơn? Mình quen Thanh đệ trước, đã nói là suốt đời thân thiết với nàng, lẽ ra không nên yêu người khác. Nhưng khi gặp A Cửu, trái tim của mình lại xoay chuyển sang cô tiểu mỹ nhân này cả ngày lẫn đêm, nghĩ đến nàng thì nhiều mà nghĩ đến Thanh đệ thì ít. Dường như điều mình mơ ước thật sự là suốt đời suốt kiếp ở bên A Cửu, vĩnh viễn không rời khỏi. Rốt cuộc mình phải làm gì đây?”

Nắng sớm vẫn còn xiên xiên, qua kẽ lá soi vào mặt A Cửu. Viên Thừa Chí ngẩn ngơ ngắm nhìn dung nhan diễm lệ của nàng, nhất thời mê mẩn, bộ pháp dần dần chuyển gần đến nàng. Đột nhiên chàng giật mình, hiểu được thế nào là ý giả tình chân. “Mình yêu hai cô gái này đều thành tâm thành ý. Ôi! Năm xưa chắc Kim Xà Lang Quân đối xử với Hà Hồng Dược cũng thành tâm thành ý, nhưng sau này gặp mẫu thân Thanh đệ thì cả tình lẫn ý đều thay đổi hết. Viên Thừa Chí ơi là Viên Thừa Chí! Ngươi đúng là một kẻ vô tình vô nghĩa.”

Chàng cố chuyển ánh mắt từ khuôn mặt A Cửu sang phía Thanh Thanh, nhưng không thể nào tự chủ được. Khí huyết rào rạt trong lòng, chàng chỉ muốn phóng đến bên A Cửu, ôm chặt lấy nàng, để Ngọc Chân Tử ra chiêu giết chết hai người cùng lúc. Như vậy mới giải quyết được tình trạng khó xử này.

Cao thủ tỉ võ, suy nghĩ về chuyện khác là đại kỵ. Tâm thần Viên Thừa Chí không tập trung, chiêu thức vừa lệch lạc vừa chậm chạp. Ngọc Chân Tử khó khăn lắm mới đợi được đối phương sơ suất, hữu quyền giáng xuống như sấm sét trúng vai Viên Thừa Chí nghe “bình” một tiếng. Viên Thừa Chí không dám đề khí để hứng thẳng vì sợ trọng thương, liền ngửa ra sau một chút để hóa giải bớt thế quyền.

Không ngờ Ngọc Chân Tử phóng quyền trúng đích lại đánh bồi thêm, đẩy tới một chưởng như bài sơn đảo hải. Viên Thừa Chí chân đứng không vững, ngã ngửa ra sau, té ngay trước mặt A Cửu. Ngọc Chân Tử đắc thắng, nhanh như chớp cúi xuống đất nhặt thanh bảo kiếm lúc nãy ném xuống, chém lên vai trái Viên Thừa Chí.

Vừa rồi hai người tỉ đấu kịch liệt đã thay đổi vị trí. Viên Thừa Chí không tự chủ được cứ bước đến gần A Cửu. Ngọc Chân Tử truy kích chàng về phía tây. Quy Tân Thụ và Hoàng Chân lại đứng ở phía đông, thấy sư đệ gặp nguy, muốn nhảy tới cứu viện nhưng khoảng cách quá xa, không thể kịp được. Quy Tân Thụ phóng thần quyền ra đánh mạnh vào sau lưng Ngọc Chân Tử. Hắn thấy thoi quyền còn xa nên mặc kệ, dùng tay trái hộ thân, lưỡi kiếm bên tay phải cứ chém xuống để lấy mạng Viên Thừa Chí trước.

A Cửu thấy Viên Thừa Chí té xuống ngay trước mặt mình, liền nhảy ra liều mạng. Nàng phóng lên trên người Viên Thừa Chí, thay chàng hứng lấy nhát kiếm đó, theo bản năng mà đưa tay phải ra đỡ thanh bảo kiếm.

Nào ngờ nghe “keng” một tiếng, bảo kiếm của Ngọc Chân Tử bị hất ngược về. Thì ra A Cửu đã mất cánh tay trái, nên giấu Kim Xà Kiếm trong tay áo bên phải. Chuôi kiếm hướng ra ngoài, nắm trong bàn tay, hễ Viên Thừa Chí cần tới là hất ra, đưa chàng lập tức. Nhát kiếm của Ngọc Chân Tử chém đúng ngay vào Kim Xà Kiếm. Cánh tay áo bằng da điêu của A Cửu bị rách, nhưng Kim Xà Kiếm đã cản được thanh kiếm của Ngọc Chân Tử. Hai thanh kiếm sắc bén như nhau, va chạm đều không sứt mẻ.

A Cửu giật mình kinh hãi, cánh tay phải thõng xuống, thả lỏng mấy ngón tay. Kim Xà Kiếm tuột từ trong tay áo ra. Viên Thừa Chí nhanh tay lẹ mắt, lập tức nắm lấy chuôi kiếm, tì đầu gối xuống đất để bật người đứng dậy. Trong lòng chàng vừa cảm kích vừa thương xót, vươn tay trái ôm lấy A Cửu mà hỏi: “Có bị thương không?”

A Cửu đưa tay phải lên ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, khẽ đáp: “Muội sợ gần chết. Ca ca không bị thương chứ?”

Biến diễn vừa rồi như sấm nổ giữa trời quang, tim mọi người đứng xem đều đập loạn xạ. Ngọc Chân Tử thét lên: “Tâm sự huynh huynh muội muội như vậy đã đủ chưa?”

Kim Xà Kiếm của Viên Thừa Chí đột nhiên xoay thành một vòng tròn, rồi từ giữa vòng tròn đó chém ra. Ngọc Chân Tử vội đưa kiếm đón đỡ. Thì ra chiêu Ý Giả Tình Chân của Viên Thừa Chí vẫn chưa sử hết. Trong lúc tâm thần xúc động, chàng tiện tay vẫy kiếm thi triển nốt nửa chiêu sau Ý Giả Tình Chân.

Kim Xà Lang Quân năm xưa sáng chế chiêu này trong lúc nhớ nhung Ôn Nghi khổ sở. Trong chiêu kiếm đó tràn đầy nỗi luyến ái tương tư, tình ý chân chân giả giả của nam nữ biến ảo vô cùng, có đó rồi lại mất ngay, triền miên như sóng nước. Lúc là thật, lúc là ảo; lại có lúc vừa thật vừa ảo; chốc lát đã biến đổi ngay. Tâm ý không nhất định, ngay cả mình cũng không biết mình đánh vào đâu, thì đối thủ làm sao biết được?

Viên Thừa Chí đang sử chiêu này, lại đúng lúc tâm phân ý loạn, lục thần vô chủ, chẳng suy nghĩ gì mà chỉ thuận tay vẫy kiếm. Ngọc Chân Tử chẳng biết chiêu này chân giả, hư thực thế nào, dĩ nhiên không đón đỡ được. Tay phải hắn cảm thấy mát rượi, cánh tay đã bị chém rơi xuống đất, năm ngón tay vẫn còn nắm chặt chuôi bảo kiếm.

Tả quyền của Viên Thừa Chí tiếp đó đánh ra, chứa đựng nội kình khủng khiếp Hỗn Nguyên Công. Chàng xuất chiêu Hỗn Nguyên Khai Công của Phá Ngọc Quyền, đánh trúng vào giữa ngực Ngọc Chân Tử nghe ầm một tiếng.

Ngọc Chân Tử bị đánh bật ra sau, la lên: “Chiêu kiếm gì thế?” Hỏi chưa xong, miệng hắn đã phun máu tươi, tắt thở ngay.

*

*   *

Tâm thần A Cửu vẫn còn xao động, vừa hổ thẹn vừa mừng rỡ. Nhân lúc Viên Thừa Chí buông cánh tay trái đang ôm mình để xuất quyền, nàng luồn ra, nép vào sau lưng Hà Thiết Thủ.

Quần đệ tử chứng kiến Viên Thừa Chí đả bại kình địch, không ai là không khâm phục. Phùng Nan Địch chạy đến quỳ xuống, vừa dập đầu vừa hô: “Viên sư thúc! Xin thứ lỗi cho đệ tử hôm qua vô lễ.”

Viên Thừa Chí mệt nhọc đến nỗi mồ hôi đầm đìa. Chàng vội vã dìu y dậy, nhưng mấy giọt mồ hôi đã nhỏ xuống đầu Phùng Nan Địch.

Tôn Trọng Quân lượm mấy viên đá lớn ném mạnh vào thi thể Ngọc Chân Tử, rồi quay lại nói: “Đa tạ Viên sư thúc đã trút hận cho đệ tử.”

Mộc Tang đạo trưởng thở dài sườn sượt, bảo ông câm thu liệm Ngọc Chân Tử rồi đem an táng. Lão cầm thanh thiết kiếm, kể lại câu chuyện cũ.

Thì ra Ngọc Chân Tử cùng Mộc Tang đạo nhân trước đây học võ một thầy. Môn phái đó là Thiết Kiếm Môn, tín vật của chưởng môn là cây thiết kiếm mà khai sơn tổ sư đã dùng, truyền lại từ đời này sang đời khác. Trên chuôi kiếm bằng gỗ trắng có hàng di huấn do chính tay tổ sư viết: “Thấy kiếm như thấy tổ sư”.

Năm xưa sư phụ của Mộc Tang đi Tây Tạng, rồi không trở về nữa. Thiết kiếm mất tích từ đó.

Lúc đầu Ngọc Chân Tử cũng siêng năng học võ, sống rất đàng hoàng. Không ngờ sư phụ vừa chết, không ai quản thúc, hắn kết giao với loại bạn bè bại hoại, hoàn toàn biến chất. Từ nhỏ hắn đã xuất gia, không gần nữ sắc; thế mà bây giờ gian dâm trộm cướp, chẳng việc ác nào không làm. Võ nghệ của hắn lại cao, chẳng ai làm gì được.

Mộc Tang đạo nhân trách mắng nhiều lần, sư huynh sư đệ cầm đao vạch đất, tuyệt tình đoạn nghĩa rồi trở mặt đánh nhau.

Ngọc Chân Tử không thắng nổi sư huynh, bèn đi Tây Tạng, vừa siêng năng rèn luyện võ công vừa tìm cây thiết kiếm. Sau này chẳng những hắn tìm ra thiết kiếm, còn được thêm một thanh bảo kiếm chém sắt như bùn. Quy luật trong Thiết Kiếm Môn là thấy thiết kiếm như thấy tổ sư, ai cầm thiết kiếm chính là chưởng môn, được ra hiệu lệnh cho mọi người trong môn phái, xử phạt tùy ý.

Lần gặp Viên Thừa Chí ở Nam Kinh, Mộc Tang đạo nhân đã biết tin Ngọc Chân Tử đi Tây Tạng tìm thiết kiếm. Lão biết chuyện này tai họa không nhỏ, bèn quyết chí đi Tây Tạng để âm thầm đoạt trước. Nào ngờ đi về phía tây chưa bao lâu, lão đã gặp một tay chơi cờ rất giỏi ở Hoàng Sơn. Mộc Tang đạo nhân thua lia thua lịa, thế mà càng thua càng không phục, bắt chơi liên tiếp cả tháng trời. Tay cao cờ kia không làm gì được, đành giả vờ thua hai ván mới thoát khỏi Mộc Tang đạo nhân quấy nhiễu. Vụ này khiến Mộc Tang đạo nhân bỏ bê đại sự đi Tây Tạng.

Mục Nhân Thanh nghe lão kể xong, bất giác lắc đầu than thở. Ông quay lại hỏi Hồng Nương Tử: “Sao họ truy đuổi cô nương?”

Hồng Nương Tử quỳ xuống đất, vừa khóc vừa nói: “Xin Mục lão gia cứu mạng chuyết phu.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, liền kinh hãi đỡ nàng dậy, hỏi: “Tẩu tẩu mau đứng dậy. Đại ca thế nào rồi?”

Hồng Nương Tử đáp: “Sấm Vương dẫn binh đại chiến với Ngô Tam Quế ở Nhất Phiến Thạch ngoài Sơn Hải Quan. Chưa phân thắng bại, không ngờ Ngô tặc đã âm thầm cấu kết với bọn Thát tử Mãn Châu, quân thắt bím đột nhiên xông ra chém giết. Quân ta bị bất ngờ, thua trận đó. Sấm Vương từ đó thua hoài, dẫn quân lùi khỏi Bắc Kinh, đến Tây An bèn lên ngôi hoàng đế. Không ngờ Thừa tướng Ngưu Kim Tinh và Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn tìm lời ly gián, vu cáo đại ca của đệ phản bội Sấm Vương. Sấm Vương sai quân bắt đại ca về trị tội. Ta trốn ra ngoài cầu cứu, suốt dọc đường bị thủ hạ của Lưu Tông Mẫn đuổi sát theo sau…”

Mọi người nghe nói quân Thanh đã nhập quan, Bắc Kinh đã mất, ai cũng kinh hãi đứng ngẩn ra. Hồi lâu Viên Thừa Chí mới la lên: “Chúng ta mau mau đi cứu! Để trễ sợ không kịp nữa.”

Chàng bỗng nghĩ lại: “Lần này sư phụ triệu tập môn nhân về Hoa Sơn, nhất định có việc quan trọng cần bàn. Vậy phải làm sao?” Nhìn qua sư phụ, chàng không nén nổi trong lòng bối rối, không biết giải quyết thế nào. Viên Thừa Chí tuổi còn quá trẻ, ít kinh nghiệm, thiếu khả năng ứng biến. Mỗi khi gặp chuyện khó, chàng lại bàng hoàng không quyết định được.

Mục Nhân Thanh nói: “Mọi người đã đến đủ rồi. Chúng ta lo xong một chuyện trước đã.” Nói xong, ông thỉnh di ảnh Phong tổ sư ra, bày hương án, thắp nhang đèn. Chúng đệ tử quỳ xuống hết. Hà Thiết Thủ rút vào một góc, lén đưa mắt nhìn Viên Thừa Chí.

Mục Nhân Thanh mỉm cười, bảo nàng: “Võ công của cô đã đủ ngang dọc giang hồ, thế mà cứ muốn xin vào môn phái của ta. Ta đã nghe kể, may mà có cô quấy rầy Ngọc Chân Tử, không thì bọn đồ tôn của ta phải thiệt thòi không ít. Có thể nói là cô đã lập đại công cho phái Hoa Sơn. Cô quát ta “Cút đi!” Hà hà, ta không chịu cút. Ta đẩy một phát, cô chỉ lùi lại bốn bước rồi đứng vững được. Trong môn phái của ta, ngoài ba tên đệ tử ta đích thân truyền thụ, không có người thứ tư công lực được như thế. Được, được rồi! Cô nương quỳ xuống đi.”

Hà Thiết Thủ hoan hỉ quỳ xuống trước mặt Mục sư tổ, rồi theo Viên Thừa Chí đến khấu đầu trước di ảnh Phong tổ sư. Nàng nghĩ bụng: “Mục sư tổ nói chuyện khôi hài, dĩ nhiên tính nết hiền từ.”

Thi lễ xong xuôi, Mục Nhân Thanh đứng giữa dõng dạc nói: “Tuổi ta đã cao, không thể tiếp tục lo liệu những chuyện thế tục. Từ nay trở đi, môn phái Hoa Sơn giao cho đại đệ tử Hoàng Chân đảm nhiệm.”

Hoàng Chân giật mình nói: “Võ công đệ tử không bằng Nhị sư đệ, Tam sư đệ…”

Mục Nhân Thanh ngắt lời: “Chưởng quản môn hộ không cần tỉ võ với đồng môn, chỉ cần đôn đốc chư đệ tử hành hiệp trượng nghĩa. Ngươi cố mà lo liệu đàng hoàng.”

Hoàng Chân không dám chối từ nữa, tiếp tục bái lạy Phong tổ sư và sư phụ để nhận phù hiệu chưởng môn. Sau đó toàn bộ đệ tử quay lại tham kiến chưởng môn mới.

Viên Thừa Chí thấy mọi chuyện đã xong, lo lắng cho nghĩa huynh nên rất nôn nóng muốn xuống núi ngay. Chàng bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ! Muội cứ ở đây nghỉ ngơi. Ta cứu được nghĩa huynh, sẽ lập tức trở về thăm muội.”

Thanh Thanh không trả lời trả vốn gì, cứ trừng mắt nhìn A Cửu, tức giận đến khóe mắt đỏ lên. Đột nhiên nàng hỏi Viên Thừa Chí: “Lúc nãy ca ca té xuống, sao té trước mặt cô ấy mà không té trước mặt muội? Nếu ca ca té trước mặt muội, muội cũng sẽ bất kể tính mạng mà phóng lên người ca ca hứng kiếm.”

Viên Thừa Chí phân trần: “Ta bị tên ác đạo kia đánh ngã, đâu phải tự mình muốn té?”

Thanh Thanh giậm chân nói: “Ca ca lo nhìn người ta tình tứ như vậy, tâm trí không tập trung, hèn gì chẳng bị đánh ngã.” Nàng khóc òa lên, đột ngột quay lưng chạy đến bên vách núi.

Viên Thừa Chí la lên: “Thanh đệ! Muội làm gì vậy?”

Thanh Thanh quát trả: “Không được tới đây!”

Viên Thừa Chí thấy nàng đã chạy đến vách núi rồi, không dám đến gần. Thanh Thanh lại la lên: “Từ nay trong lòng ca ca chỉ có cô ấy. Muội thà chết cho xong.”

Nàng tung người ra, nhảy xuống vách núi. Dưới đáy vực thẳm toàn là đá cứng, nhảy thế này không thể không chết, ai nhìn thấy cũng kinh hãi. Khinh công của Mộc Tang tuyệt đỉnh thiên hạ, thi triển thần công Thiên Biến Vạn Kiếp vọt tới chụp lại, nhưng chỉ túm được một cánh tay áo của Thanh Thanh. “Soạt” một tiếng, nửa cánh tay áo đứt lìa. Lão không thể giữ nàng không cho rơi xuống, nhưng đã kéo nàng gần vào vách núi mấy thước.

Viên Thừa Chí thét lớn, chạy tới nhìn xuống thì thấy Thanh Thanh ngã vào một lùm cây dưới mười mấy trượng, người vắt ngang cành cây không biết sống chết thế nào. Chàng vô cùng lo lắng, liền men theo những tảng đá bên vách núi từ từ trèo xuống, nhảy lên cành cây to đó, đưa tay ôm lấy nàng. Đôi chân của nàng nhũn ra, hình như đã gãy xương, nhưng rất may là còn thở.

Không bao lâu Thôi Hy Mẫn, Hà Thiết Thủ, huynh đệ Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi, Hồng Thắng Hải cùng mọi người đều trèo xuống. Ai thấy Thanh Thanh chưa chết cũng thở phào nhẹ nhõm. Hoàng Chân chỉ huy ông câm từ trên vách núi thòng dây dài xuống, kéo Viên Thừa Chí ôm Thanh Thanh lên, đưa vào nhà để chữa trị chỗ gãy chân.

A Cửu đứng bên, nghĩ lại lúc nãy mình mặc kệ sống chết, phóng lên người Viên Thừa Chí để cứu mạng chàng, rồi lại không nén nổi tình cảm, trước mặt đông người mà ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, được chàng đưa tay ôm lại. Tuy sự việc xảy ra trong chớp nhoáng, nhưng đúng vào lúc sống chết treo đầu sợi tóc, nên cảm thấy dài như thiên trường địa cửu. Lần trước cùng Viên Thừa Chí đắp chung một chăn trên giường ở hoàng cung, da thịt sát vào nhau còn thân mật hơn nữa. Nghĩ đến đó nàng bất giác cảm thấy hổ thẹn, nhưng trong lòng dâng lên cảm giác ngọt ngào.

Khi A Cửu nghe Thanh Thanh trách Viên Thừa Chí tại sao té trước mặt mình, lại trách tại sao chàng nhìn mình tình tứ, nàng cảm thấy đúng là lúc đó Viên Thừa Chí nhìn mình đắm đuối, chẳng nghĩ ngợi gì khác nữa nên mới bị tên ác đạo kia đánh ngã. Chuyện đó là có thật.

Bây giờ A Cửu thấy Thanh Thanh tức giận nhảy xuống núi, Viên Thừa Chí trèo xuống ngay, ôm nàng vào lòng, tập trung toàn bộ tinh thần để cứu nàng. A Cửu nghĩ đến mình nhớ nhung Viên Thừa Chí nhiều như vậy, e rằng sau này kết quả không tốt đẹp. Suy đi nghĩ lại, bất giác lòng quặn thắt. Nàng bỗng nghĩ: “Nếu bây giờ mình cũng nhảy xuống vách núi, không biết chàng có xả thân cứu mình hay không? Tốt nhất là mình được chết trong lòng chàng, cho mọi việc xong xuôi.”

Mộc Tang đạo nhân không thể đọc hết những suy nghĩ đó, nhưng thấy hai thiếu nữ cùng yêu một chàng trai, cũng hiểu được phần nào. Thấy A Cửu thần sắc rũ rượi đáng thương, nghĩ đến vừa rồi nàng đã nhảy đến cứu mạng mình, lão bỗng nghĩ: “Đại ân không chỉ nói mấy câu là trả được. Ta phải phí sức suy nghĩ để giải khai lòng uất hận cho nàng. Hay là ta thu nàng làm đồ đệ để dạy võ công? Nếu dạy được nàng chơi cờ, ngày nào mình cũng có đối thủ thì thật là tuyệt diệu.”

Lão bèn đi tới chỗ A Cửu, nói: “Cô nương! Lão đạo vì sư môn có biến, trong lòng lo lắng nên suốt đời chưa nhận môn nhân nào. Bây giờ môn hộ đã trong sạch, vừa rồi lại được cô nương cứu mạng, lão đạo không có gì để báo đáp. Nếu cô nương không chê, để ta truyền thụ mấy chiêu công phu được không?”

A Cửu đang lúc hoang mang không biết làm gì, không biết đi đâu, lập tức khấu đầu bái sư.

Mục Nhân Thanh, Hoàng Chân, Quy Tân Thụ cùng mọi người đều bước tới chúc mừng hai thầy trò. Mộc Tang đạo nhân bảo: “Bây giờ chúng ta đi Tây Tạng để lòng thanh tĩnh, dễ học công phu. Sau này có thể so sánh với bọn đồ tử đồ tôn của Mục bá bá phái Hoa Sơn hay không, phải dựa vào công phu học tập của con.”

Mục Nhân Thanh nói: “Đương nhiên là thế.”

Viên Thừa Chí ghép lại xương cho Thanh Thanh, bó thuốc rồi đi ra ngoài. Biết A Cửu đã bái Mộc Tang đạo nhân làm sư phụ, chàng cũng hoan hỉ chúc mừng. A Cửu nắm tay áo chàng kéo qua một bên, ủ rũ nói: “Thừa Chí ca ca! Bây giờ muội theo sư phụ đến Tây Tạng để học công phu. Ngàn dặm xa xôi, không dễ gì gặp nhau, muội sẽ chờ đợi. Muội sẽ đợi ca ca ba năm. Ba năm mà ca ca không đến thì không cần đến nữa. Khi đó muội sẽ xuống tóc làm ni cô, trong lòng… vĩnh viễn nhớ đến ca ca… Không… muội sẽ đợi ca ca mười năm…”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta nhất định sẽ đến thăm muội. A Cửu muội muội! Chưa tới một năm là ta đến rồi. Không được gặp muội thì ta chết mất.”

A Cửu khe khẽ lắc đầu, nước mắt đầm đìa.

Đến xế chiều, Mộc Tang và A Cửu ăn lót dạ rồi cáo từ xuống núi. Viên Thừa Chí hỏi tường tận nơi ở của Mộc Tang đạo nhân bên Tây Tạng, đợi Thanh Thanh lành vết thương rồi sẽ đến thăm.

Trong lúc mọi người cáo biệt, Hà Thiết Thủ nói nhỏ với Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Chúng ta đã hỏi rõ chỗ ở của A Cửu rồi. Đợi vết thương của Hạ cô nương lành hẳn, sư phụ có thể lén đi thăm cô ấy. Đồ đệ sẽ giấu giếm kín đáo cho, đảm bảo Hạ cô nương không biết. Còn nếu sư phụ không dám đi thăm, chỉ cần dạy dỗ đồ đệ đàng hoàng thì đồ đệ sẽ lén thay sư phụ đi tìm A Cửu, nhắn tin, chuyển thư, tuyệt đối không để Hạ cô nương nghi ngờ chút xíu nào. Bản lãnh này của đồ đệ có thể nói là thiên hạ vô song.”

Viên Thừa Chí bĩu môi không đếm xỉa gì đến nàng. Chàng quyết chí một mình đi tìm A Cửu, không cần đồ đệ lo việc giúp mình.

Thanh Thanh gãy cả hai chân, vết thương thật sự không nhẹ, phải điều dưỡng lâu dài mới lành được. Sau khi lành, e rằng một bên chân cũng bị tật, khó mà xinh đẹp như cũ. Viên Thừa Chí ngồi bên giường dịu dàng an ủi, còn Thanh Thanh vừa khóc vừa la, tiếp tục truy cứu tại sao Viên Thừa Chí tỉ đấu với Ngọc Chân Tử mà dám dành hết tâm ý cho A Cửu.

Viên Thừa Chí im lặng ngồi nghe, đợi nàng la lối đến mệt rồi ngủ thiếp đi, mới chạy ra vách núi. Nhìn ra xa chỉ thấy núi đồi xếp thành từng dãy, mây mù che khuất đường xuống núi, bóng dáng Mộc Tang đạo nhân và A Cửu đã mất hút. Chàng thở dài thở ngắn hồi lâu, ruột đau như cắt, không sao đứng vững được nữa phải ngồi phịch xuống.

Đột nhiên bên cạnh có thanh âm dịu dàng cất lên: “Sư phụ! Chỉ cần sư phụ đừng cưới Hạ cô nương, thì Hạ cô nương không thể trở thành sư nương của đồ đệ, kiếp này đừng hòng quản thúc sư phụ nữa. Hạ cô nương có nhảy xuống núi hay nhảy xuống biển cũng chẳng liên quan gì đến sư phụ. A Cửu cô nương vĩnh viễn chờ đợi sư phụ. Khi vết thương của Hạ cô nương lành hẳn, sư phụ cứ việc đi tìm A Cửu. Sư phụ tìm không thấy, đồ đệ sẽ tìm giúp sư phụ. Sư phụ không có lỗi gì với Hạ cô nương, không cần đau lòng khó chịu gì hết.”

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Nếu ta đi tìm A Cửu, sẽ tự có lỗi với lương tâm. Năm xưa phụ thân ta không hề phản nghịch hoàng đế, biết rõ nếu mình viết thư gọi Tổ Đại Thọ dẫn binh về kinh thì hoàng đế sẽ không sợ quân Thanh nữa, chắc chắn sẽ giết mình. Thế mà ông ấy vẫn viết lá thư đó. Ôi! Làm người chỉ cần trong lòng không có điều gì hổ thẹn, cho dù phải chém ngàn đao vạn đao cũng chẳng sao. Thanh Thanh từng nói: Bạc tình vô lương tâm, vong ân phụ nghĩa đều đê tiện vô sỉ như nhau.”

Nói tới đó Viên Thừa Chí bỗng rơi lệ. Hà Thiết Thủ đưa chàng một chiếc khăn tay, dịu dàng khuyên bảo: “Sư phụ! Sư phụ cứ khóc hoài thì không ra vẻ sư phụ nữa. Con người sống trên thế gian, đê tiện vô sỉ một chút là điều không thể tránh khỏi. Còn cứ đau khổ dằn vặt hoài, thì sẽ phát bệnh mà chết.”

Viên Thừa Chí cãi: “Nếu không đau khổ dằn vặt, chẳng lẽ người ta sống hoài không chết? Còn đê tiện vô sỉ là chuyện có thể tuyệt đối tránh khỏi.”

*

*   *

Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí bẩm cáo với sư phụ và chưởng môn đại sư huynh, xin phép đi cứu Lý Nham.

Mục Nhân Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Lý tướng quân bị kẻ gian ly gián nên Sấm Vương nảy dạ nghi ngờ. Việc này nếu xử lý không tốt, chẳng những đắc tội với Sấm Vương, tổn thương đến mối giao tình nhiều năm, lại làm cho nội bộ Sấm quân bất hòa, trở ngại cho đại nghiệp. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh vào quan ải, Sấm Vương đang gặp phải nghịch cảnh. Ngươi cùng Lý Nham tuy tình nghĩa như thủ túc, nhưng mọi việc cần lấy đại cuộc làm trọng.”

Hoàng Chân nói: “Sư đệ! Mọi việc đều phải bảo trọng. Người làm ăn chúng ta…” Nói đến đây, đột nhiên ông ngậm miệng, nghĩ bây giờ mình đã là chưởng môn, không nên đùa giỡn nữa. Nhất thời ông cảm thấy ngượng ngùng.

Viên Thừa Chí khom người tuân lệnh, rồi cùng Hồng Nương Tử, ông câm, Hồng Thắng Hải… cáo biệt mọi người. Chú cháu Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn; mẹ con An đại nương, An Tiểu Huệ cũng đi cùng.

Viên Thừa Chí dẫn quần hùng rời Hoa Sơn, nhắm hướng Tây An xuất phát. Thanh Thanh gãy chân chưa lành, lẽ ra phải ở lại trên núi để dưỡng thương. Nhưng nàng sợ Viên Thừa Chí tìm cơ hội lén đi gặp A Cửu nên nhất định đòi đi theo, Viên Thừa Chí chỉ còn cách ưng thuận. Hồng Thắng Hải phải tìm một cỗ xe lừa cho nàng ngồi, nên đi đường rất chậm.

Một hôm đi đến Vị Nam, đột nhiên nghe tiếng la hét ồn ào, khoảng ngàn Sấm quân đang áp tải một đội lớn dân phu đi về phía Tây. Dân phu phải gánh nặng, ai cũng mệt mỏi thở không nổi, nhưng roi da trên tay quân sĩ vẫn không dừng quất xuống, vừa quất vừa la hét như đang chăn một bầy súc vật vậy. Một dân phu cao tuổi bước chân loạng choạng ngã nhào ra đất, đổ cả quang gánh, rất nhiều vàng bạc và những đồ trang sức của nữ nhân tung toé ra ngoài. Một tên lính trẻ giận dữ đá lão một cước, lão dân phu ấy thổ máu tươi ngay.

Quần hùng nhìn thấy vô cùng tức giận, đều nói: “Hà hiếp dân chúng như vậy, còn gọi là nghĩa quân gì nữa?”

Hà Thiết Thủ nói: “Chỗ kim ngân tài bảo này, chẳng lẽ không phải cướp giật từ tay dân chúng?”

Nàng nói hơi lớn tiếng, mấy tên Sấm quân đã nghe thấy, liền hung dữ quay lại chửi mắng. Một tên lính la lên: “Bọn này là gian tế! Bắt đi!” Mười mấy tên lính hò hét chạy tới, lôi kéo bốn nữ nhân là Hà Thiết Thủ, An đại nương, An Tiểu Huệ và Hồng Nương Tử.

Hồng Nương Tử vô cùng tức giận, rút đao ra chém hai tên. Viên Thừa Chí la lên: “Rời khỏi đây thôi!”

Chàng ngồi trên lưng ngựa, túm đầu bọn lính quẳng ra, dẫn mọi người rời khỏi đó. Bọn Sấm quân không muốn bỏ của cải lại để đuổi, nên cứ đứng đó mà ngoác mồm ra thóa mạ.

Hồng Nương Tử giận dữ nói: “Chúng ta vừa tiến vào Bắc Kinh là kỷ luật của quân đội hỏng hết, chỉ lo cướp bóc tài sản, hiếp đáp nữ nhân. So với triều Minh có hơn gì?”

Thôi Thu Sơn nói: “Không hiểu sao Sấm Vương không quản thúc họ, nghĩ thật kỳ lạ.”

Hồng Nương Tử cười khẩy, nói: “Chính hắn cũng cướp giật ái thiếp Trần Viên Viên của Ngô Tam Quế. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, làm sao hắn quản thúc bộ hạ được? Ngô Tam Quế đã chịu đầu hàng, lẽ ra đại cuộc đã định. Nhưng họ Ngô nghe tin ái thiếp bị Sấm Vương đoạt lấy, nên mới tức giận mà dẫn quân Mãn Thanh vào quan ải. Ngô Tam Quế đánh vào, Sấm Vương đem quân ra ngoài giao chiến. Hai bên đại chiến ở Nhất Phiến Thạch, thắng bại chưa phân thì đột nhiên bọn mọi rợ thắt bím ào tới. Tướng sĩ bên ta đều lo lắng đến tài vật cùng nữ nhân đã cướp được, nên không chịu liều mạng. Trận đó mà không thua thì đúng là trời không có mắt.”

Đi chẳng bao lâu, quần hùng thấy bên lề đường có một bà lão ngồi khóc rống. Bên cạnh có bốn thi hài, một nam một nữ và hai đứa bé, vết thương vẫn còn chảy máu, hiển nhiên bị giết chưa lâu. Bà lão vừa khóc vừa kêu la: “Lý công tử! Ngươi chỉ giỏi lừa gạt, nói là mở cửa đón Sấm Vương để già trẻ vui mừng gì gì đó. Gia đình chúng ta đã mở cửa đón Sấm Vương, thế mà Sấm Vương cho bọn thổ phỉ đến nhà ta, hãm hiếp con dâu, giết chết con trai, giết cả hai đứa cháu. Cả nhà ta cả già lẫn trẻ đều ở đây cả. Lý công tử! Ngươi đến mà xem, già trẻ vui mừng là vậy phải không? Ta thờ Bồ Tát hơn sáu chục năm rồi. Quan Âm Bồ Tát phù hộ ai không biết, chứ không lo phù hộ cho người tốt. Bồ Tát, Sấm Vương, thổ phỉ, trộm cướp cũng một giuộc cả.”

Viên Thừa Chí không đủ can đảm nghe tiếp, biết chắc dọc đường còn gặp nhiều cảnh thê thảm như thế. Chàng bèn vòng sang đường nhỏ mà đi.

Đi hết hai con đường nhỏ lại trở ra đường lớn. Bên vệ đường có ba bốn gian nhà còn bốc khói nghi ngút, trước sân có mấy xác người. Xác nam thì đầu mình rời nhau, còn xác nữ thì không mảnh vải che thân, hiển nhiên bị hiếp trước giết sau. Hồng Thắng Hải bước lên phía trước, hỏi một ông lão đang quỳ bên cạnh mấy cái xác: “Lão gia! Ai đã gây ra những chuyện tồi tệ này? Quan binh phải không?”

Ông lão râu tóc bạc phơ, run rẩy chỉ tay vào gian nhà đang cháy, phều phào chửi mắng: “Đúng là quan binh. Quan binh của hoàng đế Sùng Trinh đã thua chạy cả rồi. Bây giờ đến lượt quan binh của hoàng đế Đại Thuận cướp bóc, gian dâm, giết người, phóng hỏa. Bất kể quan binh gì cũng là cường đạo hung ác, chỉ làm khổ bá tính chúng ta thôi. Khách quan nhìn xem, lão ăn mặc rách rưới thế này, hai ngày nay không có cơm để ăn, chưa phải nghèo đến tận cùng hay sao mà còn gặp phải cảnh này? Ông trời lúc nào cũng bất công đối với người nghèo chúng ta. Sao trời không sụp xuống đi?”

Viên Thừa Chí cùng quần hùng không nỡ nghe tiếp, lại lên đường. Lúc mệt mỏi họ nghỉ lại dưới một gốc cây, đột nhiên nghe phía sau có mười mấy nông dân than khóc lớn tiếng. Sau đó, lại có giọng hát: “Ông trời kia! Ông sống bao lâu rồi mà tai điếc, mắt mù. Ông trời không nhìn thấy người, không nghe tiếng nói. Giết người phóng hỏa thì phú quý, ăn chay niệm Phật thì chết đói. Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong. Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”

Đến hai câu cuối, mọi nông dân nam nữ đều hòa giọng hát rống lên: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.” Âm thanh khàn khàn, đầy vẻ tuyệt vọng.

Viên Thừa Chí cảm thấy những người này dù chết xuống âm phủ vẫn còn khổ sở, sẽ trở thành ngạ quỷ rên rỉ than khóc suốt ngày. Bỗng nghe Hồng Nương Tử bắt chước hát theo: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”

Viên Thừa Chí không khỏi bi ai. Suốt đời chàng đã nghe lời những bậc trưởng bối như sư phụ, như Ưng Tùng dạy dỗ, toàn tâm toàn ý vì nước vì dân, xả thân để cứu dân chúng trong cơn hoạn nạn. Chàng tưởng rằng sau khi Sấm Vương lấy được thiên hạ, người nghèo sẽ không bị quan phủ và người giàu áp bức nữa, có miếng cơm ăn, có cuộc sống yên bình. Nào ngờ không phải vậy.

Chàng dõi mắt nhìn xa, thấy đầy trời mây đen bao phủ. Nếu lúc này đang ở cạnh một vách núi cao, có thể chàng sẽ bắt chước Thanh Thanh tung người nhảy xuống để không còn biết gì, không phải nghĩ gì nữa. Nghĩ đến đó, Viên Thừa Chí nhịn không nổi nữa, buông tiếng khóc.

An Tiểu Huệ khuyên can: “Thừa Chí ca ca! Việc trên thiên hạ đều như vậy cả. Thôi, chúng ta đi thôi.” Thôi Hy Mẫn dìu Viên Thừa Chí dậy, lên ngựa đi tiếp.

*

*   *

Đi một hồi nữa, cách Vệ Nam không còn xa, bỗng nghe tiếng binh khí chạm nhau phía trước. Mọi người giục ngựa nhanh hơn, thấy hơn hai chục Sấm quân đang bao vây ba người, đâm chém loạn xạ. Trong ba người đó có một người biết võ công chống trả kịch liệt, nhưng tay chân loạn lắm rồi.

Bọn Sấm quân vừa đánh vừa hô: “Giết gian tế đi, giết gian tế đi! Trên người bọn gian tế này rất nhiều tiền bạc, anh em nào lập đầu công sẽ được chia nhiều hơn.”

Thôi Hy Mẫn giận dữ la lên: “Cái gì mà chia nhiều hơn? Chẳng lẽ đây là cường đạo?”

Y lập tức nhảy xổ tới, rút đao chém bọn Sấm quân. Ông câm, Hồng Thắng Hải, Thôi Thu Sơn cũng tiến lên, đuổi chúng chạy hết.

Ba người kia đều đã bị thương. Người biết võ buông đao xuống đất, khom lưng bái tạ. Y bỗng chăm chú nhìn Thôi Thu Sơn một chút, rồi hỏi: “Tôn giá có phải họ Thôi không?”

Thôi Thu Sơn đáp: “Đúng vậy. Xin hỏi cao tính đại danh huynh đài, sao lại biết tại hạ?”

Người kia nói: “Tiểu nhân là Dương Bằng Cử, còn vị này là Trương Triều Đường công tử. Mười mấy năm trước, ba người bọn tại hạ đã lên tế Viên Đốc sư trên đỉnh Thánh Phong tỉnh Quảng Đông, từng thấy Thôi đại hiệp ra tay bắt gian tế. Tuy đã nhiều năm, nhưng quyền pháp cùng chưởng pháp của Thôi đại hiệp phi phàm, tiểu nhân đã thấy là ghi nhớ không thể nào quên.”

Thôi Thu Sơn mừng rỡ nói: “Thì ra là bằng hữu Sơn Tông. Các vị đến gặp Viên công tử đi.”

Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử bước lên bái kiến Viên Thừa Chí, nói mình không phải thuộc hạ cũ của Viên Đốc sư, chỉ theo Tôn Trọng Thọ và Ưng Tùng lên núi Thánh Phong mà thôi. Viên Thừa Chí nói: “À! Hôm đó Trương công tử từng viết một bài văn tế cho tiên phụ: Tống vương hôn ám; Vũ Mục chết oan; Hán triều vận mạt; Gia Cát sao tàn.Mười sáu chữ này, tiên phụ dưới cửu tuyền mà biết cũng thấy vinh dự.”

Trương Triều Đường không ngờ mình vội vã viết bừa mà đến nay Viên Thừa Chí vẫn còn ghi nhớ trong lòng, không khỏi cảm thấy vui mừng.

Viên Thừa Chí hỏi tại sao họ bị Sấm quân vây đánh. Trương Triều Đường nói: “Tiểu nhân ở xứ Bột Nê hải ngoại xa xôi, một tháng trước đã nghe những người đi biển nói Sấm vương Lý Tự Thành khởi nghĩa, quân thế rất mạnh, đến đâu cũng thắng như chẻ tre, chỉ vài ngày nữa là lấy được Bắc Kinh, Trung Hoa sắp được thái bình. Tiểu nhân mừng quá, liền bẩm báo với gia phụ, cùng Dương huynh và một tên tùy tùng khởi hành về cố quốc, muốn xem cảnh tượng thái bình. Ôi! Nào ngờ vừa tới Trực Lệ thì nghe nói Sấm Vương lấy được Bắc Kinh, xưng ngôi hoàng đế rồi lại bị lính Mãn Thanh đánh bật ra ngoài, chạy trốn đến Tây An. Lính Mãn Thanh đuổi theo suốt dọc đường, ba người bọn tiểu nhân chỉ còn cách trốn về phía tây. Hôm nay gặp được Sấm quân, chúng đòi lục soát hành lý để đề phòng gian tế. Bọn tiểu nhân để chúng lục soát. Nhưng đám lính này vừa thấy tiền lộ phí tiểu nhân mang theo là thèm nhỏ dãi, không nói năng gì, vung đao chém ngay. Nếu không nhờ các vị cứu giúp, ba người bọn tiểu nhân đã biến thành ma dưới đao của chúng rồi. Ôi, thời đại thái bình, thời đại thái bình…”

Vừa nói Trương Triều Đường vừa lắc đầu quầy quậy. Viên Thừa Chí phập phồng không yên bụng, nói: “Con đường này e rằng không bình yên được. Ba vị theo chúng ta đến Tây An rồi hãy tính đường đi tiếp, có được hay không?”

Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lập tức lên tiếng cảm ơn. Tên nô bộc Trương Khang, bây giờ đã thành người lớn, vừa vác hành lý lên vai vừa nói: “Mười mấy năm trước chúng ta trở về Trung Quốc, quan binh nói chúng ta là cường đạo, đòi giết chúng ta. Lần này trở về Trung Quốc, nghĩa quân lại nói chúng ta là gian tế, vẫn đòi giết chúng ta. Công tử ơi, lần sau chúng ta đừng đến đây nữa.”

Trương Triều Đường bảo: “Trung Quốc cũng có nhiều người tốt. Chẳng phải bây giờ chúng ta bình yên rồi sao?”

Hôm sau mọi người giục ngựa nhanh hơn, tới Bá Kiều ở phía đông thành Tây An thì thấy những đội Sấm quân đang tìm chỗ cao bày trận. Đại đội nhân mã đối diện cũng giương cờ Sấm quân, nhưng hai bên đã lắp tên vào cung, chỉ chờ lệnh là trận chiến nổ ra. Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Sao quân mình lại đánh lẫn nhau?”

Bỗng nghe một tên võ quan lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia hạ chỉ, bắt một mình nghịch tặc Lý Nham. Những người còn lại đều không liên can, mau giải tán đi. Ai dám chống lại thánh chỉ, giết hết không cần luận tội.”

Viên Thừa Chí hân hoan nghĩ: “Thì ra đại ca chưa trúng độc thủ. Chúng ta không đến trễ.” Chàng vẫy tay bảo mọi người quay lại, đi vòng qua hai đội quân, đến ngọn đồi có doanh trại Lý Nham. Quân canh phía trước thấy Lý phu nhân trở về, liền dẫn mọi người vào lều lớn của trung quân, dựng trên đỉnh ngọn đồi này.

Đến ngoài lều đã nghe từ trong vẳng ra tiếng đàn tiếng hát, ai cũng ngạc nhiên. Hồng Nương Tử cùng Viên Thừa Chí đi vào, thấy trong lều đang bày yến tiệc rất lớn. Mấy trăm quan quân ngồi phía dưới, bàn chính giữa chỉ có một mình Lý Nham, đang nâng ly tự uống.

Lý Nham thấy ái thê cùng nghĩa đệ đột nhiên đến, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Chàng rảo bước ra đón, tay trái nắm tay Hồng Nương Tử, tay phải dắt tay Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Hai người đến đúng lúc quá. Rốt cuộc thì ông trời đối xử với ta không tệ.”

Chàng để hai người ngồi hai bên trái phải, sai thuộc hạ dọn thêm một bàn tiệc nữa, mời Thanh Thanh, Thôi Thu Sơn, An đại nương, ông câm, Thôi Hy Mẫn, An Tiểu Huệ, tất cả ngồi vào.

Viên Thừa Chí thấy Lý Nham ra vẻ nhàn nhã nên rất yên tâm, bao nhiêu lo lắng mấy ngày nay lập tức mất sạch. Chàng nhìn Hồng Nương Tử mỉm cười, thầm nghĩ: “Bà này làm ta hoảng sợ vô ích.”

Lý Nham đứng dậy, dõng dạc nói: “Các vị đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu của ta. Nhiều năm chúng ta xuất sinh nhập tử, đồng cam cộng khổ, chỉ mong hoàn thành đại nghiệp, thiên hạ thái bình. Nào ngờ vạn tuế gia lại nghe kẻ gian sàm tấu, nói câu thập bát tử chủ thần khí là Lý mỗ muốn làm hoàng đế. Vừa rồi vạn tuế gia hạ chỉ, ban cho Lý mỗ cái chết. Hà hà! Việc này không biết phải nói thế nào.”

Các tướng quân đều đứng dậy, nhốn nháo phát biểu: “Đây là thánh chỉ giả của bọn gian. Vạn tuế gia từ xưa vẫn tín nhiệm Lý tướng quân, tướng quân đừng lo tới việc này. Bây giờ chúng ta cùng tới Tây An, gặp mặt vạn tuế gia là biết rõ thị phi ngay.”

Thần sắc mọi người đều rất giận dữ. Có người nói: “Lý tướng quân lập nhiều đại công, đối với hoàng thượng một dạ trung thành, lẽ nào lại tạo phản!”

Có người nói: “Chỉ vì chúng ta kỷ luật nghiêm minh, yêu dân như con, nên những đội quân khác đố kỵ.”

Có người lại nói: “Nếu vạn tuế gia không nghe chúng ta trình bày giải thích, bất quá chúng ta kéo nhau tự mình giành lấy thiên hạ là xong. Dù sao thì Sấm quân cũng cư xử bừa bãi, mất hết nhân tâm rồi, tiếp tục đi theo vạn tuế gia không có kết quả tốt lành đâu.”

Lý Nham lấy ra một tờ giấy màu vàng, mỉm cười nói: “Đây là bút tích chính tay vạn tuế gia viết: Chế tướng quân Lý Nham tạo phản, muốn tự lập làm hoàng đế, đại nghịch bất đạo, giết ngay không cần hỏi. Phía dưới ký một chữ “thành”, thêm chữ “nhân” phía trên. Đó là chữ ký mới của vạn tuế gia, nhất định không phải thánh chỉ giả mạo. Cho dù gặp vạn tuế gia, chúng ta cũng không giải thích được đâu.”

Các tướng quân đều giận dữ, vung tay hét to: “Nguyện theo tướng quân, quyết một trận tử chiến!”

Một tướng quân lớn tiếng nói: “Vạn tuế gia đã phái Tả doanh, Tiền doanh, Hậu doanh bao vây ba phía chúng ta. Không phải muốn giết một mình Lý tướng quân đâu, mà muốn giết hết quân ngũ chúng ta đấy.”

Các tướng quân cùng hô lớn: “Vạn tuế gia ép chúng ta tạo phản, thì chúng ta tạo phản. Đi thôi!”

Lý Nham la lên: “Mọi người hãy ngồi xuống, ta sẽ có chủ trương. Vạn tuế gia đối đãi với ta không bạc, hai chữ “tạo phản” không được nhắc đến.”

Chàng lập tức truyền tướng lệnh, phân phái thuộc hạ canh giữ khắp nơi, cho quân tinh nhuệ án ngữ các đường tấn công của địch, chỉ thủ không công. Các tướng đều biết Lý Nham túc trí đa mưu, thấy chàng trấn tĩnh như vậy đều nghĩ chàng đã có kế hoạch kỳ lạ để đối phó, nên từng người nhận lệnh đi ra, dẫn quân bản bộ đi phòng thủ.

Lý Nham rót một ly rượu đầy, mỉm cười nói: “Đời người mấy chục năm, quả như một cơn mơ.” Chàng cạn ly, tay trái vỗ bàn làm nhịp, lớn tiếng hát: Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.”

Đây chính là bài đồng dao mà năm xưa Lý Nham sáng tác rồi truyền khắp thiên hạ, giúp Lý Tự Thành được lòng dân khắp nơi quy thuận.

Viên Thừa Chí cao giọng hát một bài khác: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”

Lý Nham lập tức dừng lời, bắt chước hát theo Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí đang lúc tâm thần khích động, vận Hỗn Nguyên Công đưa tiếng hát truyền đi rất xa, trên đồi dưới núi toàn quân đều nghe thấy. Tướng sĩ bộ hạ của Lý Nham trong lúc bi phẫn, nghe tiếng ca này đều hát theo vang dội.

Phần lớn Sấm quân nhận lệnh đến bắt Lý Nham đều biết chàng bị oan. Họ phải tàn sát bằng hữu không khỏi áy náy, hoàn toàn không muốn tấn công lên núi. Sấm quân đa số là dân lưu lạc cơ hàn, theo Lý Tự Thành tạo phản chỉ vì muốn sống. Sau này thắng lợi liên tiếp, quân kỷ bại hoại, họ hùa theo thượng cấp mà cướp bóc, hãm hiếp dân chúng, nhưng đó là bản tính trời sinh của con người. Ai cũng muốn tài muốn lợi, no cơm lại muốn ấm cật. Thượng cấp không cấm đoán, lại còn dẫn đầu tác oai tác quái. Thấy chung quanh ai cũng vậy, mà tiền bạc nữ nhân sẵn ngay trước mắt, người phàm tục làm sao nhịn nổi?

Số binh tướng này không phải xấu xa lắm, chỉ vì cuộc đời là vậy, trăm năm ngàn năm vẫn là như vậy. Cũng đôi khi họ làm bậy xong, nghĩ lại tự thấy mình không nên làm, nhưng lần sau lại bất giác tự che giấu lương tâm của mình mà làm bậy tiếp.

“Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.” Bài ca bi phẫn này ai cũng biết. Khi bị quan binh nhà Minh áp bức, Sấm quân từng hát. Sau này họ trở thành quan binh, đi áp bức người khác thì nghe người khác hát. Bây giờ nghe tiếng hát xa xa truyền đến, họ không tự chủ được cũng hòa giọng hát theo.

Hai đội quân đang dàn trận chuẩn bị đánh nhau mà cùng hát chung một bài. Nhất thời tiếng hát ngân nga như tiếng chảy buồn của dòng Vị Thủy dài vô cùng vô tận.

*

*   *

Lý Nham và Viên Thừa Chí nghe hai đội quân dưới núi hát bài này, đều cảm khái vô cùng. Viên Thừa Chí nói: “Đại vương vốn rất anh minh, không ham tửu sắc, một lòng một dạ muốn cứu bá tính khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng. Tại sao ông ấy vào kinh, đăng quang làm hoàng đế rồi thay đổi hết? Đệ không sao hiểu nổi.”

Lý Nham nói: “Ta không trách Sấm Vương nghi ngờ ta. Sấm Vương vốn là người tốt. Ông ấy đã tín nhiệm ta, trọng dụng ta, cho đến hôm nay vẫn đối xử với ta rất tốt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Thế thì sao ông ấy hạ chỉ giết đại ca?”

Lý Nham nói: “Phải là hoàng đế mới có thể hạ chỉ. Ông ấy đã làm hoàng đế, không thể tự chủ được.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Đệ chỉ nghe nói người trong giang hồ không thể tự chủ lấy mình. Đã là hoàng đế thì muốn gì làm đó, sao lại không thể tự chủ?”

Lý Nham đáp: “Đúng là hoàng đế muốn gì làm đó, không ai phản kháng được. Nhưng thiên hạ chỉ có một ngai vàng. Ông ấy đã ngồi vào, sợ người khác giành giật, phải giết hết những người muốn giành giật ngai vàng của mình. Đường thái tông Lý Thế Dân là một hoàng đế rất tốt, nhưng vì muốn làm hoàng đế mà phải giết cả anh ruột lẫn em ruột của mình.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Đúng vậy! Nếu ông ấy không giết anh em ruột, thì anh em ruột sẽ giết ông ấy. Đúng là không tự chủ được.”

Lý Nham gật đầu nói: “Đúng là không tự chủ được.”

Chàng rót hai ly rượu, cạn với Viên Thừa Chí rồi lại nói: “Hán Cao Tổ đã giết đại công thần Hàn Tín, Bành Việt. Ai cũng biết là giết oan, mà chính ông ấy cũng biết rõ Hàn Tín và Bành Việt không tạo phản. Thôi đừng nói chuyện xưa, nói chuyện Minh triều đi. Đại tướng quân Từ Đạt, quân sư Lưu Bá Ôn, đại tướng quân Lý Vân Trung, đều bị Thái Tổ hoàng đế hạ độc hại chết. Công thần khai quốc của triều Minh, nói về công lao thì tể tướng Lý Thượng Trường là số một, không phải đã bị giết hay sao? Những công thần đại tướng khác bị Thái Tổ hoàng đế xử tử như Phùng Thắng, Phó Hữu Đức, Lục Trọng Hưng, Chu Đức Hưng, Địch Bính Vân, Phế Tụ, Triệu Dung, Chu Lượng Tổ, Hồ Mỹ, Vương Đông, Lam Ngọc, người nào cũng từng được phong vương, phong công, phong hầu. Ví dụ gia gia của đệ, công lao không lớn hay sao, nhưng kết quả thế nào?”

Viên Thừa Chí nói: “Hoàng đế trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực, tin rằng gia gia của đệ thông địch bán nước.”

Lý Nham lắc đầu nói: “Không phải! Mới nhìn thì thấy Sùng Trinh trúng kế phản gián, tưởng lệnh tôn thông địch bán nước. Thật ra Sùng Trinh giết lệnh tôn vì lệnh tôn đã giết đại tướng Mao Văn Long. Hoàng đế nghi ngờ ngay, sợ lệnh tôn nắm hết binh quyền, đủ sức đoạt lấy ngai vàng của mình.”

Viên Thừa Chí nghe vậy rùng mình, lập tức cảm thấy lòng người đáng sợ đến mức không thể tưởng tượng. Chàng lại hỏi: “Sấm Vương chỉ huy người nghèo khắp thiên hạ khởi nghĩa, ban đầu vì muốn trừ bỏ cách trị dân tệ hại của triều đình. Nào ngờ khi ông ấy làm hoàng đế, đến phiên mình cũng áp bức bá tính. Đại ca! Chúng ta nhìn sai người rồi sao?”

Lý Nham lắc đầu nói: “Chính bản thân Sấm Vương cũng không tự chủ được, có nỗi khổ khó nói ra. Ông ấy lấy được thiên hạ là dựa vào Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn và các đại tướng như bọn Cao Tất Chính. Lấy thiên hạ rồi, bọn Lưu Tông Mẫn cướp bóc vàng bạc nữ nhân, bản ý Sấm Vương cũng rất muốn cấm đoán. Nhưng chúng lại nói với Sấm Vương: Hoàng đế thì để ông làm, còn vàng bạc nữ nhân phải chia cho chúng ta chút ít chứ. Chỉ cần một tướng buông thả là mọi tướng đều buông thả, không thể trách được Sấm Vương.”

“Thật ra, chuyện đời xưa nay đều như vậy. Danh chính ngôn thuận thì mình vì bá tính, nhưng khi mình có thế lực thì lại trở mặt áp bức bá tính. Sở Bá Vương mắng Tần Thủy Hoàng ngược đãi bá tính, bèn khởi binh để diệt Tần. Nhưng khi Sở Bá Vương phá được Hàm Dương cũng cướp bóc dữ dội, đốt trụi thành phố. Hán Quang Võ, Triệu Khuông Dẫn là những vị hoàng đế tốt. Nhưng dân bị họ giết, thành bị họ đốt đâu phải là ít?”

Viên Thừa Chí thở dài sườn sượt rồi hỏi: “Thế thì biết phải làm gì?”

Lý Nham đáp: “Mạnh Tử từng nói, làm vua mà không giết người nào trong thiên hạ mới là vua tốt. Ta nghĩ chuyện đó chỉ là nói suông, chỉ là mơ ước của Mạnh Tử.”

Viên Thừa Chí buồn bã hỏi: “Đại ca! Nếu đại ca làm hoàng đế, đại ca sẽ phải giết tiểu đệ hay sao?”

Lý Nham đáp: “Chắc chắn là không. Người trên thế gian ai cũng muốn có danh lợi, uy quyền, địa vị, kim ngân, châu báu, mỹ nhân; nhưng Mạnh Tử đã nói: Con người khác cầm thú chẳng bao nhiêu, chỉ khác ở chỗ hiểu biết tình nghĩa. Ta cùng đệ đã có tình có nghĩa. Khi làm hoàng đế có thể hưởng được tiền tài châu báu và mỹ nhân trên khắp thiên hạ, nhưng ta quyết không phế bỏ tình nghĩa anh em để được làm hoàng đế. Dù được một trăm mỹ nhân như Trần Viên Viên, như Trần Phương Phương, ta quyết không phế bỏ tình nghĩa với đại tẩu của đệ.”

Chàng đưa tay ra nắm chặt cổ tay Hồng Nương Tử, rồi đột nhiên gục mặt xuống bàn. Ly chén đổ vỡ, rượu bắn lên ướt người, nhưng Lý Nham vẫn không động đậy.

Hồng Nương Tử và Viên Thừa Chí đều kinh hãi, định dìu Lý Nham dậy, nhưng thấy chàng đã tắt thở rồi. Thì ra trong tay áo của Lý Nham có giấu một thanh trủy thủ. Chàng đã dùng trủy thủ đâm thủng tim mình.

Hồng Nương Tử cười nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” Nàng rút đao ở thắt lưng ra, tự vẫn theo chồng.

Viên Thừa Chí đứng ngay bên cạnh, nếu muốn cản trở thì thừa sức. Nhưng lúc này chính chàng cũng đau lòng khổ sở, muốn chết cho xong nên không có ý định cứu giúp. Đột nhiên bên tai chàng vẳng lên tiếng hát của lão mù, hôm trước chàng đã cùng Lý Nham nghe thấy ở Bắc Kinh: “Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…”

Tướng sĩ thấy vợ chồng chủ soái cùng tự sát, đại doanh lập tức náo loạn, chỉ một lúc là mấy vạn quan binh rút đi sạch sẽ. May mà Chế quân trước nay vẫn giữ quân kỷ nghiêm ngặt, võ quan chỉ huy binh lính thối lui, đội ngũ vẫn chỉnh tề. Về phía Sấm quân đến tấn công, họ cũng nghĩ tới nghĩa khí đồng đội nên không truy sát, chỉ khiêng thi hài của vợ chồng Lý Nham về phụng lệnh.

*

*   *

Viên Thừa Chí thấy vợ chồng nghĩa huynh chết thảm, khóc lóc một hồi rồi dẫn mọi người lùi vào trong núi, thương nghị kế hoạch sau này. Mọi người đều nói: “Lý Tự Thành nghi kỵ, chèn ép huynh đệ như vậy, chúng ta không cần đi theo hắn nữa. Ở Mã Cốc Sơn vùng Sơn Đông vẫn còn mấy ngàn huynh đệ Kim Xà Doanh, phải lo liệu đàng hoàng, đề phòng bọn Lý Tự Thành, Lưu Tông Mẫn, Cao Tất Chính ra tay tiêu diệt.”

Viên Thừa Chí nghĩ chuyện này không sai, nên nhờ Thôi Thu Sơn cưỡi ngựa suốt đêm về Sơn Đông báo tin, dặn Tôn Trọng Thọ đề phòng Lý Tự Thành phái binh đánh lén, hạ độc thủ như các huynh đệ La Nhữ Tài, Loạn Thế Vương, Giáp Lý Nhãn, Lý Nham đã bị. Viên Thừa Chí lại phái Hồng Thắng Hải quay về Bắc Kinh thông báo cho Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam rút hết về Mã Cốc Sơn ở phía nam. Thôi Thu Sơn cùng Hồng Thắng Hải lập tức đi ngay.

Trương Triều Đường khuyên Viên Thừa Chí đến nước Bột Nê để di dưỡng tinh thần. Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ còn việc lớn phải lo, chưa thể đi ngay.” Ba người Trương Triều Đường liền cáo từ về nước.

Ngày hôm sau, Viên Thừa Chí dẫn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ đi Sơn Đông. Vết thương trên đùi Thanh Thanh sắp lành, không cần chống nạng vẫn đi lại được.

Viên Thừa Chí đi về hướng đông, nhưng tim chàng lại nhích dần về hướng tây, chỉ mong đến Tây Tạng để gặp A Cửu. Chàng nghĩ: “Ta chưa kết tình phu phụ với Thanh Thanh, đi đến Tây Tạng không trở về vẫn không thể gọi là phụ bạc.”

Từ khi phân ly A Cửu, trong lòng chàng tha thiết nhớ nhung, chỉ muốn bay ngay tới Tây Tạng để gặp nàng. Trước tiên sẽ phải chơi cờ suốt một tháng với Mộc Tang đạo trưởng, để lão thỏa mãn cơn nghiện. Khi Mộc Tang đạo trưởng đã ghiền, sẽ không quấy rầy mình nữa. Lúc đó mình có thể dẫn A Cửu đi sâu vào Tây Tạng, tìm vùng núi cao hoang dã không dấu chân người, từ đó không về Trung Nguyên. Sau này bằng hữu, huynh đệ… không gặp ai nữa, ngày nào cũng sống bên A Cửu, sống như thần tiên mãi đến già rồi chết. Ở Tây Tạng có thể săn bắn, có thể hái thuốc, quyết không đến nỗi chết đói.

Chàng tương tư A Cửu không chỉ vì nàng diễm lệ. Mỗi lúc được ở bên nàng, dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng lòng chàng bao giờ cũng hạnh phúc vui mừng khó mà diễn tả. Chỉ cần nghe một tiếng cười nhẹ, một lời nói khẽ của A Cửu là chàng hoan hỉ vô cùng, sung sướng cả nửa ngày trời. Nếu có thể bên nhau mười ngày nửa tháng, dĩ nhiên càng hoan hỉ sung sướng hơn nhiều. Còn nếu suốt đời được ở bên nhau, vĩnh viễn không tách rời nhau, thì hạnh phúc này không sao tưởng tượng được nữa.

Suốt dọc đường, tâm trí Viên Thừa Chí cứ phiêu du trong cõi mộng. Một hôm Thanh Thanh đột nhiên hỏi giật giọng: “Này! Đại ca nghĩ gì mà vui vẻ thế? Nghĩ đến A Cửu phải không?”

Viên Thừa Chí kinh hãi, cãi ngay: “Không phải! Ta đang nghĩ đến cái đêm đánh nhau với Ngọc Chân Tử ở Thịnh Kinh. Hồ Quế Nam lén ăn cắp áo quần khiến hắn không còn mảnh vải che thân, tiếp chiêu với ta bối rối không sao tả xiết.”

Thanh Thanh phì cười, không tra vấn nữa. Viên Thừa Chí bỗng hoảng hốt nghĩ: “Ta rất ít khi nói dối, sao phen này phải lừa gạt nàng? Chỉ vì nếu nàng biết mình nghĩ đến A Cửu, nhất định sẽ đau lòng. Nếu mình đi tìm A Cửu, không bao giờ quay về, nàng sẽ đau lòng đến thế nào? Không chừng nàng lại nhảy xuống núi tự tử. Ta phải làm sao? Đại ca Lý Nham đã nói: Con người chỉ khác cầm thú ở chỗ hiểu biết tình nghĩa. Đại ca thà tự tử, không chịu phụ lòng Sấm Vương. Thanh đệ đối với ta có tình có nghĩa, nếu ta đối với nàng vô tình vô nghĩa, ta còn là con người hay không? Sau này ở chung với A Cửu suốt đời suốt kiếp, mỗi khi nghĩ đến Thanh đệ, mình có hạnh phúc vui vẻ thật không? Mình có thể quên Thanh đệ, nghĩ đến một mình A Cửu được không?”

Nghĩ đến đây, chàng bất giác lắc đầu quầy quậy. Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Sao bây giờ đại ca lại lắc đầu?”

Viên Thừa Chí cười khổ, lẩm bẩm: “Không được! Dứt khoát không được.”

Chàng lại nghĩ tới câu nói cuối cùng của Lý Nham: Dù được một trăm mỹ nhân như Trần Viên Viên, như Trần Phương Phương, ta quyết không phế bỏ tình nghĩa với đại tẩu của đệ. Lập tức chàng quyết định: “Cố gắng nén lòng nhẫn nhịn, không nghĩ đến A Cửu nữa.”

Nhưng chàng không nén nổi, lại nghĩ đến A Cửu ngay: “A Cửu từng nói, ba năm mà mình không đến tìm, nàng sẽ xuống tóc làm ni cô. Nàng lại nói sẽ đợi mình mười năm, mười năm mình không đến thì nàng vẫn làm ni cô. Mỗi ngày nàng ngồi gõ mõ niệm Phật, trong lòng mãi nhớ đến mình, há chẳng khổ sở vô cùng? Chẳng phải mình có lỗi với nàng? Chẳng phải mình đối với nàng vô tình vô nghĩa? Chẳng phải mình biến thành cầm thú?”

Hôm đó đi vào địa giới tỉnh Hà Nam. Mọi người ăn cơm xong, Hà Thiết Thủ bỗng hỏi Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Chiêu khởi thủ của Hỗn Nguyên Công phải luyện tập thế nào?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là công phu căn bản của phái Hoa Sơn chúng ta. Ta phải bẩm báo sư tổ của cô trước đã, đợi lão nhân gia cho phép, ta mới có thể truyền thụ cho cô.”

Hà Thiết Thủ lại hỏi: “Hôm trước kịch đấu với Ngọc Chân Tử, sư phụ chạy sang trái lại đột nhiên quay sang phải, vô cùng linh hoạt. Đó là võ công gì?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là thân pháp của Kim Xà Lang Quân, ta có thể dạy cho cô.”

Chàng để Thanh Thanh, Thôi Hy Mẫn và mọi người đi trước, tìm một khoảng trống trong rừng, bắt đầu truyền thụ thân pháp, chưởng pháp Kim Xà cho đồ đệ. Hà Thiết Thủ học được cao chiêu, hoan hỉ vô cùng, Nàng rạng rỡ mặt mày, cảm ơn liền miệng: “Sư phụ! Đa tạ sư phụ! Đa tạ sư phụ! Đệ tử thật không biết làm sao để báo đáp sư phụ. Sư phụ! Lão nhân gia mấy hôm nay buồn bã chẳng vui vẻ gì, có phải nhớ đến A Cửu không?”

Viên Thừa Chí tránh né đề tài này, bèn nói: “Mấy hôm nay tâm tình ta không tốt, đau lòng vì đại ca Lý Nham vừa tạ thế.”

Hà Thiết Thủ nói: “Thế thì đệ tử vô kế khả thi. Nhưng nếu vì A Cửu thì đệ tử có không ít diệu pháp.”

Viên Thừa Chí vội bảo: “Cô nói thử xem?”

Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ! Ngũ Độc Giáo của đệ tử có một loại thuốc gọi là Xuất Hiếu Đơn. Uống thuốc này thì hôn mê năm ngày năm đêm, toàn thân lạnh cứng, tim không đập, không hơi thở, giống hệt người chết. Sau đó thì nhẹ nhàng hít thở, tim đập trở lại, tỉnh dậy khỏe khoắn bình thường. Dọc đường sư phụ ráng tìm loại trái cây gì lạ, la lên rồi hái ăn thử, nhưng đừng để Hạ sư cô và người khác ăn. Sau đó đệ tử sẽ cho sư phụ uống Xuất Hiếu Đơn, đến giữa đêm thì sư phụ trúng độc mà chết. Đệ tử sẽ đặt sư phụ vào một cái quan tài có lỗ thông hơi, chôn xuống đất. Đợi Hạ sư cô cùng mọi người rời khỏi, đệ tử lập tức đào sư phụ lên, đưa vào khách sạn nghỉ ngơi. Đủ năm ngày là sư phụ đứng dậy, mạnh khỏe như rồng. Lúc đó chúng ta có thể cưỡi ngựa phóng nhanh đến Tây Tạng, tìm gặp tiểu sư nương A Cửu để sư phụ nắm lấy bàn tay trắng trẻo vừa nhỏ vừa xinh.”

“Hạ sư cô thấy sư phụ chết, sẽ nghĩ rằng số mạng sư phụ chết yểu, khóc lóc một trận rồi thôi, nhất định không trách sư phụ bạc tình bạc nghĩa, không hận sư phụ suốt đời. Sư tổ, các vị sư bá, bằng hữu của sư phụ chỉ luyến tiếc một vị đại anh hùng tham ăn trái độc mà chết, chỉ trách trời không có mắt, nhất định không trách sư phụ bất nhân bất nghĩa. Nếu sư phụ không yên tâm, cứ cho Thôi Hy Mẫn ăn trái rồi uống Xuất Hiếu Đơn, cùng chết đi sống lại. Lúc đó Hạ sư cô không thể nghi ngờ gì nữa.”

Viên Thừa Chí nói ngay: “Không được, không được! Cô nghĩ mà xem, Lý Nham đại ca vừa chết, phu nhân của đại ca lập tức tự vẫn theo chồng. Nếu Thanh Thanh thấy ta chết bèn tự sát theo, há chẳng hại mạng cô ấy?”

Hà Thiết Thủ cãi: “Hạ sư cô chưa thành thân với sư phụ, chưa thể gọi là phu nhân. Cô ấy không tự tử đâu.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu bây giờ chúng ta giục ngựa chạy về phía tây, Thanh Thanh chưa chắc đuổi kịp. Ta không đi Tây Tạng chỉ vì trong lòng không yên, không muốn đối xử với nàng vô tình vô nghĩa. Không thì ta bỏ đi bất cứ lúc nào, nhất định cô ấy không thể giữ được.”

Hà Thiết Thủ nói: “Đúng vậy! Sư phụ mà thi triển khinh công Thần Hành Bất Biến thì khắp thiên hạ chẳng ai giữ được, ngay cả sư tổ và Mộc Tang đạo nhân cũng chưa chắc giữ được sư phụ. Tiểu sư nương A Cửu nắm chặt trái tim sư phụ rồi, nên mới giữ được chân sư phụ.”

Viên Thừa Chí nghiêm giọng bảo: “Cô đừng gọi A Cửu bằng tiểu sư nương có được không? Lúc này cô ấy bị cô làm phiền như vậy, chắc phải nháy mắt hắt hơi lia lịa rồi!”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Sư phụ ơi là sư phụ! Trên thế gian này, nam nhân tam thê tứ thiếp là chuyện bình thường. Cho dù nạp tới thất thê bát thiếp cũng chết ai đâu? Như Sa Thiên Quảng trại chủ của chúng ta, ai cũng biết, ngoài áp trại phu nhân hung dữ như cọp cái ở Ác Hổ Câu ra, còn tới năm bà vợ bé nữa, chia ra năm phủ trong tỉnh Sơn Đông. Thanh Châu một bà, Lai Châu một bà, Mật Châu một bà, nghe nói ở Kỳ Thủy, Giao Châu cũng có. Vợ cả của Sa trại chủ không làm gì được, biết rõ nhưng không dám hỏi. Sư phụ! Sư phụ là thượng cấp của Sa trại chủ. Sa trại chủ làm được, sao sư phụ không làm được? Sư phụ hãy cưới Hạ sư cô làm Đại sư nương của đệ tử trước, rồi cưới A Cửu làm Nhị sư nương. Đệ tử thấy Tiêu Uyển Nhi cô nương đối với sư phụ cũng thắm thiết vô cùng. Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng, cô ấy chẳng có tình nghĩa gì với La sư ca đâu, đệ tử đứng ngoài thấy rất rõ ràng. Thế thì sư phụ cưới cô ấy làm Tam sư nương của đệ tử…”

Viên Thừa Chí nghiêm mặt, hừ một tiếng, đảo mắt liếc nhìn Hà Thiết Thủ.

Hà Thiết Thủ lại nói: “Sư phụ nghĩ vậy là sai rồi. Sư phụ tưởng đệ tử định khuyên sư phụ cưới đệ tử làm Tứ sư nương của đệ tử hay sao? Không phải đâu. Nếu trên thế gian không có Nhị sư nương A Cửu thì đúng là đệ tử rất muốn lấy sư phụ. Khi đó nếu sư phụ dạy võ công cho đệ tử không hết lòng, đệ tử có thể kéo tai sư phụ, phạt quỳ sư phụ. Nhưng trên thế gian đã có một cô nương xinh đẹp khả ái như A Cửu, thì đệ tử một lòng một dạ chỉ muốn làm đệ tử của sư phụ thôi, để sư phụ cứ toàn tâm toàn ý mà yêu chiều A Cửu. Người như A Cửu mà phải làm vợ bé của sư phụ, đâu phải là may mắn lắm.”

Nói đến đây, thần sắc nàng ra vẻ rất kiên quyết, vừa lắc đầu vừa mím môi lại nói: “Không làm, không làm! Nói gì thì nói, đệ tử cũng không làm.”

Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Cô không làm cái gì? Không làm giáo chủ Ngũ Độc Giáo phải không? Cô giúp ta tìm thêm một cô nương nữa làm Ngũ sư nương, thế thì năm người các cô có thể lập lại Ngũ Độc Giáo rồi.”

Hà Thiết Thủ lắc đầu nói: “Lục Độc Giáo hay Thất Độc Giáo gì cũng được, nhưng đệ tử quyết không làm vợ bé của sư phụ.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Đa tạ cô! Nhưng sao cô lại nói chắc như chém đinh chặt sắt vậy?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Đệ tử không dám nói. Nếu đệ tử nói ra, sư phụ sẽ không tốt với đệ tử nữa.”

Viên Thừa Chí bảo: “Thế thì cô đừng nói nữa.”

Hà Thiết Thủ nói: “Nhưng không nói thì lòng không thoải mái, thôi thì nói cho sư phụ biết. Thứ nhất, tiểu muội muội A Cửu nhỏ nhắn, xinh xắn, đẹp đẽ vô cùng, vừa gặp là thấy thương ngay, đệ tử không nỡ hạ độc giết cô ấy. Thứ hai, dù đệ tử nghiến răng mà hạ độc, nhất định sư phụ sẽ đau khổ vô cùng, suốt ngày khóc lóc rầu rĩ, nhớ nhung cô ấy chẳng lúc nào quên. Cô ấy vốn chỉ khả ái một trăm lần, sư phụ sẽ phóng đại thành một ngàn lần, một vạn lần, như Hằng Nga trên cung trăng, như tiên nữ xuống trần. Làm sao sư phụ để nữ nhân khác vào lòng được nữa? Vì thế mà đệ tử quyết không làm vợ bé của sư phụ. Nếu nam nhân mà không yêu đệ tử đến mức phát điên phát dại, thì lấy người đó chẳng thú vị gì. Bất luận làm vợ lớn hay vợ bé cũng đều như thế.”

Viên Thừa Chí lớn tiếng cười ha hả, nói: “Câu này đúng là nói thật. Sau này cô cứ chuyên tâm luyện công, nhất định ta sẽ tận tâm dạy dỗ.”

Hà Thiết Thủ cung kính trả lời: “Đa tạ sư phụ!”

Viên Thừa Chí nói: “Ta chắc chắn không cưới Nhị sư nương, đừng nói là Tam sư nương, Tứ sư nương gì gì nữa.”

Hà Thiết Thủ khuyên: “Thế thì sư phụ cũng đừng cưới Đại sư nương, kẻo sau này hối hận không kịp.”

Kể từ hôm đó, dọc đường Hà Thiết Thủ liên tiếp trình bày mưu kế, toàn là những mưu kế tà môn ngoại đạo. Nàng hết xúi Viên Thừa Chí đi tìm A Cửu, lại xung phong đi Tây Tạng để truyền tin, nhưng Viên Thừa Chí đều không đồng ý.

*

*   *

Cuối cùng Viên Thừa Chí cùng mọi người đã đến Mã Cốc Sơn, gặp gỡ Kim Xà Doanh. Huynh đệ trong doanh thiết yến, mọi người vui vẻ suốt ba ngày.

Tôn Trọng Thọ cùng quần hùng luyện binh ở tỉnh Sơn Đông, từ lúc được tin của Thôi Thu Sơn thì mọi nơi quan trọng đều canh giữ nghiêm ngặt như thành đồng vách sắt. Lý Tự Thành từ Tây An truyền tướng lệnh, bắt hủy bỏ cái tên Kim Xà Doanh và Kim Xà Vương. Tôn Trọng Thọ tuân theo thánh chỉ mà làm, lại sai người trình tấu chương chúc mừng Lý Tự Thành đăng cơ làm hoàng đế. Lý Tự Thành hoan hỉ, hạ chỉ phong Viên Thừa Chí làm Chế tướng quân, phong Tôn Trọng Thọ cùng các tướng làm Quả Nghị tướng quân. Từ đó Tôn Trọng Thọ không ngớt phái sứ giả liên lạc với Lý Tự Thành, luôn tiện thám thính tin tức.

Tình hình sau khi Lý Tự Thành rút lui khỏi phủ Thuận Thiên, Hồng Nương Tử mới nói lại đôi chút, chưa được tường tận. Tôn Trọng Thọ đã phái người đến Bắc Kinh để thám thính tin tức ở kinh thành, bây giờ báo lại cho Viên Thừa Chí biết.

Thì ra Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn thống lãnh đại quân Mãn Thanh, lệnh cho Anh vương La Tề Cát và Dự vương Đa Trạch dẫn hơn vạn kỵ binh tiến vào quan ải, liên hiệp với quân của Ngô Tam Quế. Trận đại chiến Nhất Phiến Thạch ngoài Sơn Hải Quan, nội bộ Sấm quân bất hòa nên tổn hại rất lớn, thua trận lui binh. Cốc Đại Thành được giao đoạn hậu, chặn quân Mãn Thanh đuổi theo. Cốc tướng quân cố sức chống đỡ, rồi tử trận. Lý Tự Thành rời Bắc Kinh, cùng Lưu Tông Mẫn, Ngưu Kim Tinh, Tống Hiến Sách, Lý Quá, Lý Mâu, Điền Kiến Tú lui về Tây An.

Tôn Trọng Thọ cũng lấy ra một số văn bản, bố cáo của quân Mãn Thanh, đưa Viên Thừa Chí xem. Trong đó có lời minh thệ của Đa Nhĩ Cổn và các tướng Mãn Thanh khi vào quan ải, có đoạn: “Từ lúc nhập quan, tuyệt đối không được giết người vô cớ, không được cướp bóc tài sản, không được phóng hỏa đốt nhà. Không làm theo lời thề này, nhất định trị tội.” Còn có nghiêm lệnh của Đa Nhĩ Cổn sau khi vào cung: “Tướng lãnh vào thành không được ở trong nhà dân, để bá tính được yên vui. Tuyệt đối không được lấy của dân một cây kim sợi chỉ.” Lại còn một sắc lệnh của Nhiếp chính vương Đại Thanh: “Chính trị tiền triều tệ hại, không gì tệ hại bằng gia phái. Ngoài tiền thuế lại còn nhiều loại trưng thu, phần trưng thu so với phần thuế chính thức nhiều gấp mấy lần. Hai mươi năm nay thiên hạ nghèo đói vô cùng, dân đủ ăn bữa sáng, không đủ ăn bữa chiều. Đặt thêm danh mục để trưng thu tiền thuế, chẳng khác nào cướp bóc dân chúng. Hôm nay hẹn ước với nhân dân trăm họ, bãi bỏ tất cả các loại gia phái thu ngoài tiền thuế chính thức. Quan lại mà lợi dụng chức vụ, lén thu gia phái, điều tra được sẽ trị tội.”

Tôn Trọng Thọ thở dài rồi nói: “Nỗi khổ không nói hết của bá tính đúng là do gia phái mà ra. Thu thuế xong, châu huyện chỉ nói một tiếng “gia phái” là đẻ ra vô số danh mục, nhiều gấp bội tiền thuế chính thức. Dân chúng cơm ăn không no, làm sao đóng nổi được các loại gia phái đó, bị ép đến nỗi từ già đến trẻ phải treo cổ, nhảy sông.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sau khi Thanh binh vào kinh, chúng có thật sự không vào nhà dân, không lấy cây kim sợi chỉ của dân hay không?”

Tôn Trọng Thọ lại thở dài: “Thanh binh tuy là man di ngoại tộc, nhưng sau khi vào kinh chúng thật sự không vào nhà dân, không cướp tài sản, không bắt nữ nhân.”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Trên mái Sùng Chính điện ở Thịnh Kinh, mình đã nghe Hoàng Thái Cực đối đáp với Phạm Văn Trình, Bao Thừa Tiên, Ninh Viên Ngã. Nhất định Đa Nhĩ Cổn đã bắt chước tiên quân, đánh vào lòng người để chiếm đoạt thiên hạ Đại Hán chúng ta.”

Tôn Trọng Thọ lại nói: “Sau khi Sấm Vương thua chạy về phía Tây, Tiêu thân vương Hào Cát của Mãn Thanh phụng mệnh đánh tới Sơn Đông. Chẳng bao lâu hắn đã tấn công vào Tế Nam, phá Thanh Châu, chém tướng Triệu Ưng Nguyên, bình định Mãn Gia Đầu ở Quế Ninh. Kim Xà Doanh chúng ta ở Sơn Đông nên chưa bị quân Thanh đến tấn công.”

“Lúc này các đại thần triều Minh đã đưa Phước Vương lên làm giám quốc, rồi lập làm Hoành Quang hoàng đế. Phước Vương là em họ của Sùng Trinh hoàng đế. Cha của y là Thường Thuần, em trai của tiên đế. Đúng là Phước Vương thuộc hệ phả hoàng đế, nhưng tính tình hoang dâm hôn ám. Tổng đốc Mã Sĩ Anh ở Phụng Dương hết sức ủng hộ y lên ngôi là để dễ dàng khống chế. Nam Triều đặt kinh đô ở Nam Kinh, có Binh bộ thượng thư Sử Khả Pháp cho rằng Lộ Vương hiền minh hơn, muốn lập Lộ Vương làm hoàng đế. Nhưng Mã Sĩ Anh đang nắm binh quyền, lại liên lạc với bốn tổng binh lớn là Cao Kiệt, Lưu Trạch Thanh, Lương Lương Tả, Vương Đức Công đang đóng binh ở Giang Bắc, chủ trương ủng hộ Phước Vương nên Sử Khả Pháp không làm gì được, đành phải đồng ý. Trong Tứ đại tổng binh, Cao Kiệt đóng quân tại Tứ Thủy ở Giang Bắc. Sử Khả Pháp ngầm dặn y liên lạc với Kim Xà Doanh để cùng chống lại quân Thanh xâm phạm.”

“Cao Kiệt vốn là đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành, đã tư thông với Doanh Thị, vợ Lý Tự Thành. Cao Kiệt sợ lộ bí mật sẽ bị giết, nên đem Doanh Thị chạy trốn, dẫn theo một số quân. Y đầu hàng triều đình, được phong chức Tổng binh, từng đối địch với Sấm quân. Kim Xà Doanh là một đội quân tinh nhuệ của Sấm quân, lại đồn trú không xa. Y vì hổ thẹn mà không dám liên lạc với Kim Xà Doanh, lại cấu kết với Tổng binh Hứa Đình Quốc ở Hà Nam. Không ngờ Hứa Đình Quốc đã lén đầu hàng quân Thanh rồi, bèn giả vờ thiết yến khoản đãi, thừa cơ giết chết Cao Kiệt.”

Viên Thừa Chí hỏi đến tình hình Nam Triều ở Nam Kinh như thế nào. Tôn Trọng Thọ kể: “Ở thành Nam Kinh, Mã Sĩ Anh nắm hết quyền hành, trọng dụng đồng đảng còn sống sót của Ngụy Trung Hiền như bọn Nguyễn Đại Thành. Chuyện gì cũng phải đút tiền mới làm được, vô cùng thối nát. Chức quan nào cũng có thể đem ra mua bán, nên dân chúng Nam Kinh có câu cửa miệng: Trung Thư ruồi bay đầy ngõ, Tổng Đốc chó chạy cùng đường. Tiền bạc của cả Giang Nam đã bị vét hết, nhét vào túi của bè lũ Mã Sĩ Anh.”

Viên Thừa Chí nói với Thanh Thanh: “Thì ra tên Mã Sĩ Anh đó! Cháu của hắn đã bị Thanh đệ giết ở Nam Kinh.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội cũng sáng suốt, không giết nhầm người tốt.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Các tổng binh ở Giang Bắc đều tự mình làm chủ, không tuân mệnh lệnh triều đình. Chỉ có Sử Khả Pháp ở Dương Châu còn một dạ trung thành, sai đâu làm đó, nghĩ thật là hiếm có. Ông ấy cũng từng phái người đưa lễ vật đến đây, bảo chúng ta quy thuận Nam Triều, cùng kháng cự Thanh binh. Thuộc hạ trả lời: Tiểu tướng không dám chủ trương, đợi chủ soái Viên tướng công về doanh sẽ bẩm báo rõ ràng hảo ý của đại nhân, khi đó chủ soái sẽ trả lời chính thức. Nhưng bản doanh vẫn có chí hướng kháng Thanh bảo vệ dân chúng, nhất định sẽ đồng tâm hiệp lực với đại nhân.”

Viên Thừa Chí nói: “Chống đỡ Thanh binh vốn là di chí của tiên phụ. Sử Khả Pháp là một tay hảo hán, liên hiệp với ông ấy cũng được. Nhưng triều đình Nam Kinh thối nát dơ bẩn như vậy, chúng ta không cần quy thuận. Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc, La thúc thúc, Nghê thúc thúc! Ý kiến các vị thế nào?”

Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đều nói: “Bọn thuộc hạ cũng nghĩ như chủ soái.”

La Đại Thiên lên tiếng: “Gần đây ở Nam Kinh lại có việc giam cầm thái tử, khiến cho người ta phải tức mình đến chết.”

Viên Thừa Chí vội hỏi rõ chi tiết. La Đại Thiên kể: “Một đại thần trốn từ Bắc Kinh về phía Nam, dẫn theo một thiếu niên, nói là thái tử của Sùng Trinh hoàng đế.”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Đó là em trai A Cửu, mình đã từng gặp.”

La Đại Thiên tiếp: “Nam triều biết chuyện, phái người tới điều tra. Có những người từng làm quan ở Bắc Kinh, từng dạy thái tử học hành. Thái tử vừa gặp là nhận ra họ ngay, gọi tên họ ra. Nhưng Phước vương Hoành Quang hoàng đế và Mã Sĩ Anh đã dặn, nếu là thái tử thật thì Hoành Quang phải nhường ngôi. Mấy ông quan kia đã được chỉ thị, dĩ nhiên đều báo lại rằng thiếu niên đó là người xa lạ. Triều đình không hỏi gì thêm, nhốt vào trong ngục. Đó có phải thái tử hay không, chẳng ai hỏi được nữa.”

“Nhưng chuyện này đã truyền tụng ra ngoài. Trong những tướng quân đang đóng binh ở vùng Trường Giang, có Tả Lưu Ngọc tại Võ Xương. Ông này không hợp với Mã Sĩ Anh, tuyên bố giam cầm thái tử là cực kỳ bất trung, bèn dẫn quân về phía đông để thanh trừ hoàng đế. Đến Cửu Giang thì đột nhiên Tả Lưu Ngọc phát bệnh mà chết, quân đội do con trai của ông là Tả Mộng Canh nắm giữ. Nam Kinh điều Vương Đức Công ra bờ sông đón đánh. Tả Mộng Canh không hiểu cách hành quân đánh trận, nên thua chạy rồi đầu hàng Mãn Thanh.”

Chu An Quốc nói: “Dĩ nhiên chúng ta phải hồi đáp Sử đại nhân cho đúng lễ.”

Viên Thừa Chí bảo: “Thế thì nhờ Chu thúc thúc cực khổ một phen, đưa vài món lễ vật đến Dương Châu. Chúng ta lấy danh nghĩa là bằng hữu, liên hiệp với Sử Khả Pháp chống đỡ quân Mãn Thanh. Nếu Thanh binh phạm vào vùng sông Hoài sông Tứ, quân ta sẽ nhiễu loạn hậu phương để kiềm chế chúng, phối hợp mà đánh trận. Nhưng chúng ta không chịu lệnh của triều đình.”

Chu An Quốc nhận lệnh đi ngay.

Không bao lâu Hồng Thắng Hải, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán và những huynh đệ đang ở Bắc Kinh cũng về đến Sơn Đông, gặp mặt tại Kim Xà Doanh. Viên Thừa Chí cùng Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên, Nghê Hào, Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc lo chỉnh đốn thuộc hạ, chuẩn bị đối kháng với quân Thanh, giúp đỡ Sử Khả Pháp. Kim Xà tam doanh được thao luyện thành tinh binh, tiến lùi như ý.

Khoảng tháng tư, tin tức liên tiếp truyền đến. Đô thống nhà Thanh là Chuẩn Tháp đã đánh bại quân Minh ở Thị Huyện, chiếm được Từ Châu, rồi liên tiếp đánh bại Lưu Trạch Thanh ở các nơi Hoài An, Thông Châu, Như Cao. Lưu Trạch Thanh đầu hàng nhà Thanh. Đa Trạch dẫn đại quân, nhân lúc ban đêm vượt sông Hoài, chia cắt Kim Xà Doanh và Sử Khả Pháp.

Kim Xà Doanh ít quân, không thể dàn trận đánh nhau chính diện, nên chỉ phái một ngàn quân đến Dương Châu trợ giúp, đồng thời không ngớt quấy nhiễu sau lưng để kiềm chế quân Thanh. Nhưng chẳng bao lâu thì có tin thành Dương Châu bị phá, Sử Khả Pháp hy sinh.

Sau đó Chu An Quốc trở về, toàn thân vấy đầy máu. Hôm đó Sử Khả Pháp thấy Kim Xà Doanh phái quân trợ chiến, ngỏ lời cảm tạ rồi hướng về Sơn Đông thi lễ với Viên tướng quân. Ông cũng tỏ ý bất bình về việc Viên Đốc sư chết oan năm trước, gửi một lá thư ngắn cho Viên Thừa Chí. Trong đó có đoạn: “Cùng chống rợ Thanh; Đốc sư có con; Chung sức giết giặc; Báo quốc rửa hờn”.

Viên Thừa Chí cảm khái vô cùng, hỏi đến tình hình chiến sự. Chu An Quốc vừa rơi nước mắt vừa kể lại. Ngày mười lăm tháng tư, quân Thanh tấn công Dương Châu. Sử Khả Pháp năm lần từ chối đầu hàng, cố sức ứng chiến. Chu An Quốc ở sát bên ông trợ chiến. Đến ngày hai mươi lăm thì thành Dương Châu bị phá, Sử Khả Pháp bỏ mình vì nước. Một ngàn quân tướng của Kim Xà Doanh phái đến, phần lớn đã hy sinh. Phá thành xong, quân Thanh đốt giết dữ dội, chỉ mười ngày đã giết hơn tám chục vạn người, vụ này gọi là “Dương Châu thập nhật”. Sau khi thành bị phá, Chu An Quốc dẫn một ít binh lính chạy thoát ra ngoài.

*

*   *

Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ cùng mọi người ngồi bàn bạc kế hoạch sau này. Triều đình Nam Kinh thì vua tôi nát bét, tranh giành lẫn nhau, xem ra Nam Kinh chỉ vài ngày nữa cũng bị quân Thanh xâm chiếm. Sấm quân đã thua chạy đến Thiểm Tây, nhiều tướng lĩnh bỏ trốn, quân đội vô kỷ luật nên dân chúng không ủng hộ, bại trận liên tiếp ở vùng Hồ Bắc. Nghe nói ở núi Cửu Cung, Sấm quân đã bị dân chúng đánh lén, nhưng chuyện này không có chứng cớ nên không biết thật giả thế nào. Lưu Tông Mẫn cùng nhiều đại tướng đã bị quân Thanh bắt giết. Ngưu Kim Tinh đầu hàng nhà Thanh, con trai hắn là Ngưu Toàn được làm một chức quan nhỏ của Thanh triều.

Mọi người đều thấy tình hình trước mắt khó khăn vô kể, nhưng tuân theo di chí của Viên Đốc sư, chỉ còn cách chống cự với Hồ Lỗ đến cùng. Quân Thanh có cả thế lẫn lực, rõ ràng khó mà đánh thắng, nhưng đại trượng phu đã hiến thân vì nước thì phải chết mới thôi.

Thế là Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc chia nhau đi các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, tập hợp toàn bộ thuộc hạ trước kia, lại triệu tập thêm một số huynh đệ khác. Ngô Bình, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi về Ứng Thiên Phủ ở Nam Kinh, tìm kiếm bang chúng Kim Long Bang và những bang hội võ lâm đồng đạo. La Đại Thiên, Nghê Hào đi tới Quan Liêu, tập hợp những thuộc hạ cũ của Viên Sùng Hoán ở vùng Cẩm Ninh và Sơn Hải Quan. Thêm vào đồng đạo võ lâm bảy tỉnh và Cái Mạnh Thường, lực lượng bành trướng được nhiều.

Từ lúc thành lập Kim Xà Doanh, hào kiệt đã quy tụ về không ít, nhưng muốn kháng cự với quân Thanh thì chưa đủ. Vì thế bây giờ quần hùng dựng sơn trại phất cờ khởi nghĩa, triệu tập binh lính đầy nghẹt trước sau Mã Cốc Sơn. Tinh thần mọi người đều phấn chấn.

Cái tên Kim Xà Doanh đã bãi bỏ, còn tên Sơn Tông Doanh thì phần lớn người ngoài không hiểu. Viên Thừa Chí cùng mọi người thương lượng, quyết định đặt tên mới là Đại Minh Sùng Tự Doanh để thu thập số dân chúng ở Sơn Đông còn trung thành với nhà Minh. Hễ có ai hỏi “Sùng Tự” là gì, quần hùng không nói là chữ “Sùng” của Viên Sùng Hoán, mà là chữ “Sùng” của Sùng Trinh, nên được không ít quan lại Minh triều và bại binh quy thuận.

Viên Thừa Chí và Tôn Trọng Thọ chia các huynh đệ thành năm doanh, gọi là Sùng Tự Nhất Doanh, Nhị Doanh… Ngày nào cũng thao luyện binh mã, chuẩn bị quân lương, bành trướng thế lực ra vùng núi Diêm Sơn, Đông Linh, Dương Tín, Hải Phong và các châu huyện lân cận.

Một hôm Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Thôi Hy Mẫn đi xem xét tình hình sơn trại. Đến ngoài thị trấn Phú Bình, bỗng thấy hơn trăm quân lính Sùng Tự Tam Doanh đang cướp bóc dân chúng, lại bắt theo mười mấy thiếu nữ. Viên Thừa Chí tức giận chạy tới can thiệp, rút kiếm giết ngay tên bả tổng chỉ huy. Phó bả tổng kêu gào: “Oan uổng quá, oan uổng quá!”

Viên Thừa Chí hỏi lại, thì ra doanh này do Hồng Thắng Hải quản lý, đã hết sạch quân lương, binh sĩ đã nhịn đói mấy ngày. Bả tổng xin phép Hồng Thắng Hải rồi dẫn quân ra ngoài trưng thu lương thực.

Viên Thừa Chí bèn triệu tập Hồng Thắng Hải và các bả tổng còn lại của Sùng Tự Tam Doanh để hỏi nguyên do.

Thì ra Sùng Tự Doanh đã mở rộng đến mười doanh, quân số đến hơn hai vạn, tiền tài quản lý không được chu đáo. Bảo vật trước đây Viên Thừa Chí tìm được và tiền thuế cướp được đã sử dụng gần hết. Các doanh không đủ quân lương, chẳng những nợ lương binh sĩ mà bữa ăn hàng ngày cũng cung cấp không đầy đủ.

Binh tướng các doanh đều là huynh đệ đã lâu. Lúc đầu mọi người nghĩ đến hai chữ nghĩa khí, biết rằng quốc gia đang buổi lâm nguy, khi thiếu lương thực đều nghiến răng chịu đựng. Nhưng thời gian kéo dài, nhiều binh sĩ không chịu được nữa. Ban đầu thì trộm cắp bò dê gà chó của dân chúng xung quanh, sau này thì cầm đao cướp giật. Phần lớn huynh đệ Sùng Tự Doanh đã từng là đạo tặc, gian dâm cướp bóc là chuyện thường ngày.

Thượng cấp thấy anh em cực khổ như thế, đôi khi đành nhắm mắt làm ngơ, không cấm đoán tuyệt đối. Viên Thừa Chí tra xét nghiêm ngặt, biết có mấy tên bả tổng thống lãnh thuộc hạ đi giết dân chúng, chiếm cả vợ con của họ, ở lại nhà của họ chứ không ở trong doanh trại nữa.

Viên Thừa Chí nổi trận lôi đình, chính tay cầm kiếm giết chết mấy tên bả tổng tàn bạo nhất. Chàng thét gọi quan thống binh Hồng Thắng Hải của Sùng Tự Tam Doanh đến, quát mắng rồi vung Kim Xà Kiếm còn dính máu lên, định chém vào cổ y.

Hồng Thắng Hải quỳ dưới đất, la lên: “Viên tướng công! Thuộc hạ biết lỗi rồi. Tướng công giết thuộc hạ xong, hãy tha các huynh đệ còn lại. Chỉ vì thuộc hạ không biết chỉ huy, cho phép họ làm bừa như vậy.”

Viên Thừa Chí thấy ánh mắt của y đầy vẻ van xin, nghĩ đến bình thường y đối với mình hết dạ trung thành. Hồng Thắng Hải xuất thân cường đạo, xưa nay đã quen làm những việc như thế nên không cảm thấy cướp bóc bá tính là việc không nên làm. Chàng ngẫm nghĩ: “Sùng Tự Doanh thành lập chưa bao lâu đã thiếu quân lương, cuộc sống của các huynh đệ thật là khốn đốn. Thường ngày chúng ta chỉ lo thao luyện trận pháp, dạy quân giết địch thủ thắng, ít khi nói tới kỷ luật trong quân, ít khi dạy dỗ huynh đệ phải biết yêu dân như con. Nhát kiếm này chém xuống, tuy không phải là lạm sát vô cớ, nhưng đúng là không dạy mà giết. Hồng Thắng Hải đáng chết, nhưng chẳng lẽ chính mình không có tội? Chẳng lẽ chính mình không đáng chết?”

Bảo kiếm của Viên Thừa Chí dừng lại trên không, băn khoăn không biết nên chém xuống hay không. Đột nhiên có tiếng kèn hiệu vang lên, quân canh báo là địch đến tấn công. Viên Thừa Chí liền cài kiếm vào thắt lưng rồi nói: “Có địch tấn công! Mau đi dàn trận nghênh chiến.”

Hồng Thắng Hải lớn tiếng vâng dạ, rồi nhảy chồm dậy, ra lệnh: “Đội một, canh giữ điểm cao ở Hải Giáp phía đông bắc. Đội hai, phòng thủ ngọn đồi bên trái. Đội ba, theo ta tiến ngay chính giữa. Đội bốn, đội năm mai phục ở đồng cao lương bên trái, không được động đậy, đợi ta dẫn quân địch đến gần mới được bắn tên. Đội sáu, đội bảy, đội tám lên ngựa xung phong.”

Hiệu lệnh vừa ban, bả tổng các đội liền thống lãnh binh sĩ chạy đi. Người thì chạy lên cao, canh gác đỉnh đồi. Người thì chui vào cánh đồng đang trồng cao lương mai phục. Người thì lên ngựa xung phong về phía trước.

Hồng Thắng Hải bảo Viên Thừa Chí: “Xin tướng công ở đây đốc chiến. Thuộc hạ dẫn huynh đệ xung phong.”

Viên Thừa Chí nói: “Hay lắm!” Chàng nhảy lên chiến mã, La Đại Thiên và Thôi Hy Mẫn cũng lên ngựa.

Viên Thừa Chí đứng trên yên ngựa nhìn về phía trước, thấy xa xa hai phía đông tây cờ bay phấp phới, binh lính Sùng Tự Doanh đều triển khai theo trận thế đã tập luyện. Chàng lớn tiếng hô: “Các huynh đệ Sùng Tự Tam Doanh hãy giết giặc lập công! Ta phải đi xem xét nơi khác.”

Quân tướng đều lớn tiếng trả lời: “Chủ soái yên tâm, nhất định bọn thuộc hạ sẽ liều mạng tử chiến. Chủ soái bảo trọng!”

Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Thôi Hy Mẫn giục ngựa chạy về hướng tây bắc, lên một ngọn đồi quan sát. Đại đội Thanh binh đã ào tới. Mấy chục kỵ binh phất cờ lớn dẫn đầu, phía sau là hàng ngàn kỵ binh nữa, tay cầm trường đao sáng chói, oai phong vô kể.

La Đại Thiên chau mày nói: “Đây là tinh binh Chính Bạch Kỳ của bọn Thát tử, quân bản bộ của Dự thân vương La Trạch. La Trạch là em ruột Đa Nhĩ Cổn, quân Thát tử của hắn nổi tiếng là tinh nhuệ nhất.”

Viên Thừa Chí từng thấy Đa Nhĩ Cổn ám sát Hoàng Thái Cực, biết bọn này ra tay rất ác độc. Chàng nói: “Được! Chúng ta tử chiến một trận với chúng.”

Trong chốc lát, Sùng Tự Nhất Doanh đã xung phong lên giao chiến. Kỵ binh nhà Thanh giương cung, bắn ra một trận mưa tên, quân Sùng Tự rơi xuống ngựa rất nhiều. Quân Sùng Tự cũng lác đác bắn lại, nhưng tên bay không có sức, Thanh binh chỉ đưa thuẫn gạt nhẹ là rơi tuột hết.

Viên Thừa Chí thấy cục diện không lợi, liền rút Kim Xà Kiếm ra, vừa gầm thét vừa xung phong vào trận địch. Đây là trận chiến giữa thiên quân vạn mã, võ công Viên Thừa Chí tuy cao, xuất thủ tuy nhanh, chẳng qua chỉ chém được mấy chục tên lính Thanh, làm sao cản nổi cả ngàn kỵ binh ào tới như sóng dữ? Quân Sùng Tự tuy dũng cảm chống cự, nhưng không thể nào cản nổi khí thế dời non lấp bể của quân Thanh.

Chưa đến một giờ, hơn hai ngàn binh Sùng Tự Nhất Doanh mất mạng gần hết, hoặc trúng tên rơi xuống ngựa, hoặc bị đao thương đâm chém. Hậu quân của Thanh binh lại có mấy ngàn quân xung phong tới. Đại đội Thanh binh chạy qua bên cạnh Viên Thừa Chí, xung phong vào Sùng Tự Nhị Doanh đang ở sau lưng chàng.

Viên Thừa Chí âm thầm kêu khổ, gấp rút quay ngựa về chỗ anh em Sùng Tự Nhị Doanh để sánh vai đánh địch. Chàng đoạt lấy một cây trường thương, quét ngang đâm thẳng giết một hơi mười mấy Thanh binh. Bọn này trước trán cạo trọc, sau gáy lại nuôi một cái bím rất dài, cánh tay phải to tướng để lộ ra ngoài, khí thế hung dữ khác thường. Có tên đã bị Viên Thừa Chí đâm trúng mà vẫn lớn tiếng thóa mạ, muốn nhảy lên liều mạng, chàng phải quét ngang trường thương để hất văng đi.

Giao chiến chẳng bao lâu, Sùng Tự Nhị Doanh cũng bắt đầu vỡ trận. Viên Thừa Chí giục ngựa chạy lên trước, thấy ba tên lính Thanh đang vây đánh một người. Người này đầy mình nhuộm máu, chính là Chu An Quốc. Viên Thừa Chí xông tới giết được hai tên, còn một tên bỏ Chu An Quốc, chạy đi tìm đối thủ khác.

Chu An Quốc lảo đảo trên lưng ngựa, nói: “Thừa Chí! Đa tạ ngươi đến cứu ta. Chúng ta không thắng được nữa…”

Viên Thừa Chí nhảy tới ôm lấy ông, đặt lên lưng ngựa của mình rồi nói: “Chu thúc thúc! Chúng ta đi cầm máu trị thương đã.”

Chu An Quốc bảo: “Không! Bọn Thát tử thắt bím này lợi hại quá. Chúng ta phải cố mà đánh, không thì mọi huynh đệ sẽ gặp nguy.”

Trời tối dần. Bọn Thanh gõ kẻng thu quân, đại đội kỵ binh lùi lại. Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Nghê Hào chỉ huy đám tàn binh Sùng Tự Doanh rút lên núi. Kỵ binh Thanh hung hãn, chỗ đất bằng không thể chống đỡ được, phải dựa vào núi mới có thế phòng thủ.

Tôn Trọng Thọ dẫn người đi kiểm điểm quân số. Trận này Sùng Tự Thập Doanh tổn thất hơn một nửa, doanh nào cũng chết và bị thương không ít. Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Chu An Quốc bị thương nặng. Thôi Thu Sơn, Hồng Thắng Hải, Tiêu Uyển Nhi, Thanh Thanh, La Lập Như, Thôi Hy Mẫn bị thương nhẹ. Ngô Bình, đại đệ tử Kim Long Bang, không may trúng tên mất mạng.

Viên Thừa Chí cùng Tôn Trọng Thọ sắp xếp đội ngũ, chia quân canh gác ở đỉnh đồi và các chỗ hiểm trở khác trên đường dẫn vào doanh trại Mã Cốc Sơn. Chàng lo cầm máu trị thương cho một số binh sĩ bị thương, rồi mới ủ rũ quay về nuốt vội chén cơm ngay trên trận địa.

Tôn Trọng Thọ nói: “Công phu cưỡi ngựa bắn tên của bọn Thát tử này quá giỏi, chúng ta không bì được. Từ đời Tống đến nay đã là như vậy. Năm xưa Nhạc Phi gia gia phải cho quân sĩ luyện tập trước võ công, nên trận đại chiến Chu Tiên Trấn mới có thể đánh cho bọn Kim cúp đuôi chạy trốn.”

La Đại Thiên nói: “Đúng là như vậy. Trước kia Viên Đốc sư muốn giải hòa với Hoàng Thái Cực, chính là muốn có thời gian để luyện võ công cho quân sĩ. Thế mà hôn quân lại khép tội oan, bảo Viên Đốc sư giải hòa với địch tức là thông địch. Tình hình chúng ta hiện nay, luyện võ cho quân đội không thể kịp được. Tuy không phải là quân ô hợp, nhưng không thể sánh với Thanh binh.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Năm xưa Viên Đốc sư đại thắng ở Cẩm Ninh, chủ yếu vẫn dựa vào thành trì kiên cố và đại pháo lợi hại; còn cưỡi ngựa bắn tên nơi bình địa thì không địch nổi bọn quân thắt bím này. Huống chi rất nhiều người Hán đã đầu hàng bọn Mãn Thanh, bây giờ địch đông ta ít. Thừa Chí! Một nhúm người chúng ta đành bỏ xác sa trường, tận trung báo quốc, không thẹn với Viên Đốc sư là đủ.”

Viên Thừa Chí đưa tay vỗ ngực, nói: “Chỉ còn cách đó thôi.”

Chàng thấy Hồng Thắng Hải đứng bên cạnh, trên trán bị chém một đao, vết thương khá nặng. Trong lòng chàng không nỡ, bèn nói: “Thắng Hải! Hôm nay ngươi đánh trận bị thương, lấy công chuộc tội, không bị xử phạt theo quân kỷ nữa. Nhưng nếu giữ ngươi ở đây, các huynh đệ sẽ tưởng ta dung túng người thân, xử sự không công bằng, không tránh khỏi bại hoại lòng quân. Thôi thì ngươi quay về phái Bột Hải đi.”

Hồng Thắng Hải lập tức quỳ xuống, nói: “Viên tướng công, tiểu nhân biết lỗi rồi, đa tạ tướng công khai ân tha mạng. Từ nay về sau, bất luận thế nào tiểu nhân cũng không dám tái phạm. Tiểu nhân không xứng đáng chỉ huy quân sĩ nữa, nhưng xin tướng công ra ân giữ lại bên mình để phục thị, làm tùy tùng như trước đây.”

Viên Thừa Chí xua tay nói: “Ngươi về đi là hơn. Kỷ luật quân đội lỏng lẻo, chính ta cũng có lỗi. Ta không trách ngươi, nhưng bây giờ theo ta thì chỉ tổ chết theo ta.”

Đột nhiên Hồng Thắng Hải nghĩ đến một chuyện. Y dập đầu lạy Viên Thừa Chí hai lạy, nói: “Tiểu nhân tôn trọng tướng lệnh, bây giờ xin cáo biệt. Tướng công và các vị phải hết sức bảo trọng. Thế lực của bọn Thát tử đang mạnh, nếu không đánh nổi thì thôi vậy. Theo ý kiến của tiểu nhân, chi bằng chúng ta chiếm núi làm vua, hành nghề lạc thảo như Sa trại chủ trước đây. Chỉ cần không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân.”

Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Ngươi nói rất hay, đúng là có tiến bộ. Sau này có chiếm núi làm vua hay không, ta chưa biết. Nhưng mấy câu không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân, thì bất luận thế nào cũng phải làm cho được. Hay lắm! Thôi, mọi người đánh nhau mệt mỏi lắm rồi. Ngày mai nhất định quân Thát tử lại tấn công, bây giờ nghỉ sớm một chút đi.”

Hồng Thắng Hải vâng dạ rồi đáp: “Ngày mai tiểu nhân lại theo tướng công đánh thêm một trận. Nếu còn giữ được sinh mạng, khi đó cáo biệt tướng công chưa muộn.”

Sáng sớm hôm sau, quả nhiên quân Thanh tiếp tục tấn công. Sùng Tự Doanh phòng thủ những chỗ hiểm yếu trên cao, nên kỵ binh Thanh không có đất dụng võ. Chúng tấn công cả ngày vẫn không được gì, đến xế chiều phải lui binh.

Sau khi Thanh binh rút lui, Viên Thừa Chí và Tôn Trọng Thọ chỉnh đốn thuộc hạ, lại phân chia canh gác những nơi hiểm yếu. Thừa Chí biết quân lương đang thiếu, nên không mở rộng đội ngũ nữa. Lúc này triều đình Nam Kinh và Dương Châu đã bị phá, chỉ còn tổng binh Vương Đức Công thống lãnh khoảng bốn vạn quân, đồn trú quanh vùng Hoài Tứ để kiềm chế quân Thanh. Quân Thanh cho rằng Sùng Tự Doanh ít quân, không cần để ý, nên tạm thời không tấn công nữa.

Ít lâu sau, Dự thân vương Đa Trạch và Anh thân vương A Tề Cát thống lĩnh Bạch Kỳ và Tương Bạch Kỳ đến tấn công. Viên Thừa Chí cố gắng kháng cự nhưng không thể nào địch nổi, thua một trận lớn. Sùng Tự Doanh tổn hao nặng nề, chỉ còn hơn ngàn binh tướng.

Viên Thừa Chí thống lãnh tàn binh rút lên một ngọn đồi. Đến xế chiều, ăn cơm xong, chàng cùng Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên phái quân canh giữ những nơi cần thiết. Đêm hôm đó, mọi người đều ngủ màn trời chiếu đất. Đột nhiên nghe dưới núi có tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng binh khí va chạm loảng xoảng, Viên Thừa Chí đang mơ chợt tỉnh, nhảy lên một cành cây đứng quan sát. Phía nam có ba con rồng lửa đang trườn tới, rõ ràng quân địch đốt đuốc chia ba đường tấn công trong đêm. Lúc ban ngày, hai đội quân Bạch kỳ và Tương Bạch kỳ của Thanh binh đều đến từ phía tây, bây giờ phía nam cũng có địch quân, thanh thế còn lớn hơn nhiều.

Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Không thể để quân địch bao vây!” Chàng lập tức ra hiệu lệnh, cất tiếng thét vang: “Chia năm trăm quân phòng thủ đường lên núi phía nam.”

Vừa chia quân canh gác, địch ở phía nam đã tấn công đến nơi. Dưới ánh đuốc thấy rõ trong đội ngũ Thanh binh có mấy lá đại kỳ màu lam đang phất phới, một viên đại tướng đang giục ngựa lên núi. La Đại Thiên nói: “Chủ soái! Đó là bọn Thát tử Lam Kỳ. Đô thống Chuẩn Tháp lại dẫn binh đến tấn công chúng ta.”

Trên vai Viên Thừa Chí đeo hai cây cung, trên lưng có túi đựng đầy vũ tiễn. Chàng giương cung lắp tên nhắm thẳng vào ngực viên tướng Thanh đang lên núi. Cung uốn cong như vành trăng khuyết, tên bay vọt như sao băng, “phụp” một tiếng trúng ngay vào giữa ngực viên tướng đó. May mà hắn mặc thiết giáp bảo vệ trước ngực, tên không đâm thủng. Nhưng Viên Thừa Chí vận kình rất mạnh nên hắn vẫn cảm thấy trước ngực đau nhói, loạng choạng rồi té nhào xuống ngựa. Cả hai đội quân đều la hét rầm trời. Quân Thanh tưởng đại tướng trúng tên mà chết, thế tấn công lập tức chậm lại. Nhưng viên tướng đó đứng dậy ngay, vung trường đao hô lớn: “Ta không sao cả! Các ngươi tấn công lên núi đi.”

Quân Thanh lại ùa nhau xung phong lên núi. Viên Thừa Chí quát lên: “Ngươi không sao thật chứ?”

Chàng băng mình nhảy xuống, chỉ nhấp nhô mấy cái đã tới bên cạnh viên tướng đó, múa Kim Xà Kiếm chém thẳng xuống đầu. Hắn đưa đao lên gạt, nhưng chỉ nghe “cắc” một tiếng, trường đao đã bị chém thành hai khúc. Hắn còn ngơ ngẩn, Viên Thừa Chí đã thừa cơ vung kiếm chém rơi thủ cấp xuống đất.

Mười mấy tên lính Thanh vây lại tấn công. Viên Thừa Chí thét lớn: “Hay quá! Ta đang cao hứng, phải giết một chặp cho hả dạ.” Chàng múa tít Kim Xà Kiếm xông vào trận địch.

Bỗng nghe trên núi có tiếng kèn hiệu, thì ra phía tây cũng bị tấn công. Viên Thừa Chí phải lo đến toàn cục, nên thuận tay giết thêm ba tên lính Thanh rồi gấp rút chạy lên đỉnh núi. Tôn Trọng Thọ cùng La Đại Thiên, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi đang hô hoán chỉ huy thuộc hạ phòng thủ, vũ tiễn từ dưới bắn lên dày đặc như vãi trấu.

Viên Thừa Chí nhặt một tấm thuẫn bài dưới đất, nhảy xổ tới trước, đứng chặn trước mặt Tiêu Uyển Nhi. Nghe “keng” một tiếng, một mũi tên đã ghim vào tấm thuẫn. Nếu chàng không nhanh, Tiêu Uyển Nhi không chết cũng trọng thương. Nàng hoảng sợ đến mặt cắt không ra máu, la lên: “Viên tướng công! Đa tạ tướng công.”

Viên Thừa Chí đưa thuẫn cho nàng, bảo: “Cẩn thận, coi chừng trúng tên.”

Chàng nhìn xuống núi, thấy Bạch kỳ và Tương Bạch kỳ bay phấp phới. Hai đạo Thanh quân này tấn công từ phía tây, còn Lam kỳ tấn công từ phía nam. Thế là Tam kỳ đã phối hợp tấn công.

Viên Thừa Chí đứng trên lưng ngựa để quan sát tình hình bên ta bên địch, chỉ huy phòng thủ ngọn núi này. Lúc này La Đại Thiên, Nghê Hào, Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ đều đã xung phong vào trận địch.

Thanh binh nhằm những chỗ trống của Sùng Tự Doanh, từ từ ép lên. Sùng Tự Doanh đã ít quân, thời gian kéo dài lại tổn binh hao tướng, quân số càng ít thêm. Viên Thừa Chí bỗng thấy La Đại Thiên bị mười mấy tên Thanh binh vây chặt, trên vai đã trúng một mũi vũ tiễn, rất nhiều cung tiễn thủ của Mãn Thanh đang nhắm ông mà bắn, rõ ràng sắp mất mạng. Chàng bèn hô lớn: “La thúc thúc! Chúng ta vì nước kháng địch, đồng sinh cộng tử.”

Chàng vừa hô vừa xông vào trận địch, giật trong tay bọn lính Thanh một tấm thuẫn bài, phóng đến sau lưng La Đại Thiên, cản được một mũi tên bắn rất mạnh vào lưng ông. La Đại Thiên đã xung sát đến nỗi thần trí mơ hồ, bỗng tỉnh lại kêu lên: “Thừa Chí! Chúng ta cùng xuống cửu tuyền để gặp phụ thân ngươi. Đốc sư nhất định sẽ khen ngợi ngươi, khen ngợi cả ta.”

Thừa Chí mới “Vâng” một tiếng, sau lưng và đùi phải bỗng đau đớn kịch liệt, trúng hai mũi tên bắn lén. Trước mặt chàng cũng có một trận mưa tên bay tới. Chàng đưa thuẫn bài lên cố che cho cả La Đại Thiên, bỗng “phụp” một tiếng, bị thêm một cây vũ tiễn cắm vào vai trái.

Chàng cố nén đau, múa tít Kim Xà Kiếm chém chết hai tên Thanh binh đang cử thương đâm tới, lại gạt liên tiếp mấy mũi tên bắn vào sau lưng. Một viên tướng Thanh mặc áo giáp, giục ngựa cầm thương chạy tới, nhằm đâm vào La Đại Thiên đang té nằm dưới đất. Thừa Chí dồn hết sức tàn, tung người nhảy tới cứu viện. Viên tướng ấy rất hung hãn, hoành thương quét ngang qua, cản trở Kim Xà Kiếm. Cả kiếm lẫn thương đồng thời chấn động tuột khỏi tay. Viên Thừa Chí vẫn nhảy xổ tới, dùng hai tay bóp cổ hắn. Hai người ráng sức quật nhau, cùng rơi xuống ngựa.

Bọn Thanh binh lớn tiếng reo hò. Vết thương sau lưng và trên vai trái đã đau đớn kịch liệt, Viên Thừa Chí ngất đi tại chỗ, không biết gì nữa.

*

*   *

Không biết sau bao lâu, nghe tiếng Thanh Thanh kêu gọi: “Đại ca, đại ca, đại ca tỉnh lại đi! Trời ơi! Đại ca tỉnh rồi, hay quá…”

Đột nhiên nàng bật khóc. Thừa Chí vẫn chưa mở mắt ra được, mơ mơ hồ hồ dỗ dành: “Thanh đệ đừng khóc. Chúng ta chết hết rồi phải không?”

Thanh Thanh thút thít đáp: “Chưa chết. Đại ca đã khỏe chưa? Cảm ơn trời đất!”

Viên Thừa Chí cố gắng nhổm dậy, la lên: “Giết bọn Thát tử! Xung phong!”

Chàng tung người nhảy lên, nhưng toàn thân không có sức nên chỉ bật lên mấy thước rồi lại rơi xuống, vết thương sau lưng đập xuống đất lại càng đau đớn. Chàng không gượng nổi, lại ngất đi.

Thế là tinh binh của ba kỳ trắng, lam, viền trắng do Anh thân vương A Tề Cát đích thân chỉ huy, bất ngờ tập kích ban đêm, tiêu diệt sạch tàn binh Sùng Tự Doanh. Chúng phải tấn công lên núi, nhưng nhờ thuật cỡi ngựa bắn tên tuyệt diệu mà thắng lợi hoàn toàn. Sùng Tự Doanh bị tiêu diệt, chỉ sót lại Thanh Thanh, ông câm, Tiêu Uyển Nhi, Thôi Thu Sơn, An Đại nương, An Tiểu Huệ, Thôi Hy Mẫn và mấy người võ công cao cường. May mà Hà Thiết Thủ tìm được một sơn động rất khuất, mọi người trốn vào trong đó. Uyển Nhi, Thôi Hy Mẫn cùng mọi người đều bị không ít vết thương.

Anh thân vương A Tề Cát bị Viên Thừa Chí nắm cổ vật ngã xuống ngựa. May mà lúc đó Viên Thừa Chí đã trúng mấy mũi tên, mất hết kình lực nên A Tề Cát mới còn tính mạng, nhưng hắn cũng hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, ý chí mất sạch. Phó chỉ huy là Đô thống Chuẩn Tháp biết Anh thân vương suýt mất mạng, mình không bị vết thương nào thì thật khó coi. Hắn liền cầm đao tự chém vào đùi và mặt, chứng tỏ mình dũng cảm bị thương rồi mới chạy về gặp A Tề Cát.

Trận chiến này Sùng Tự Doanh bị xóa sổ. Những thủ lĩnh Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên, Chu An Quốc, Nghê Hào đã bỏ xác trận tiền. Nhưng xác của chủ soái Viên Thừa Chí thì không thấy đâu, nên mọi người càng lo lắng. Quân Thanh vừa rút, Thanh Thanh cùng mọi người vội xông vào đống thi hài binh sĩ mà tìm kiếm. Cuối cùng Thanh Thanh và Hà Thiết Thủ cũng tìm thấy Viên Thừa Chí nằm dưới một đống xác quân Thanh. Chàng nằm úp mặt xuống đất, tên cắm chi chít trên lưng.

Thanh Thanh cứ tưởng Viên Thừa Chí đã trận vong, đau khổ khóc rống lên, rút kiếm toan cứa cổ mình. Hà Thiết Thủ vội giật lấy kiếm của nàng, la lên: “Sư nương! Sư phụ chưa chết mà?”

Thanh Thanh nghe vậy, vội vã ôm xốc Viên Thừa Chí lên. Thấy chàng còn hơi ấm, nàng la lên: “Đúng rồi! Đại ca chưa chết.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Thế thì cô nương tự tận làm chi?”

Thanh Thanh lườm một cái, đáp: “Ta chết để cô được lấy sư phụ.”

Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ đã bảo, ngoài cô nương ra không cưới ai khác.”

Thanh Thanh nói: “Cô chỉ toàn nói dối. Đại ca, đại ca! Mau mau tỉnh dậy đi.”

Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ bảo là chỉ cưới một mình cô, không cưới A Cửu, không cưới Uyển Nhi, dĩ nhiên không cưới một cô nương toàn thân đầy chất độc như ta.”

Thanh Thanh hoan hỉ nói: “Được! Thế thì ta không chết nữa. Chúng ta mau mau cứu tỉnh huynh ấy đi.”

Hai người đưa Viên Thừa Chí vào sơn động, nhổ hết tên cắm trên người, bó thuốc kim thương vào mười mấy vết thương. Thanh Thanh không hề chợp mắt, còn Hà Thiết Thủ nằm xa hơn nhưng vẫn lo lắng trong lòng, mấy đêm không yên giấc. Mãi đến bốn ngày sau, Viên Thừa Chí mới hơi có tri giác.

Thanh Thanh cùng Hà Thiết Thủ tận tâm giúp chàng dưỡng thương. Thừa Chí chỉ cần nghiêng người một chút là những vết thương trên lưng làm chàng đau đớn vô cùng. Khi đó Thanh Thanh dịu dàng an ủi; còn Hà Thiết Thủ ngồi một bên không dám lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng vô cùng lo lắng quan tâm.

Tiêu Uyển Nhi tìm được một sơn động rất vắng vẻ ở dưới núi, bèn chuyển Viên Thừa Chí tới đó dưỡng thương, đề phòng Thanh binh đến thu dọn chiến trường sẽ phát hiện được. Khoảng một tháng sau, vết thương của Viên Thừa Chí đã đỡ nhiều, có thể gượng đi ra ngoài động. Căn bản nội lực của chàng cực kỳ thâm hậu, nên khi chính mình có thể vận công thì thân thể nhanh chóng phục hồi.

Một hôm Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ đi dạo trên bờ biển, bỗng gặp hai đệ tử phái Bột Hải. Hỏi chuyện thì biết Hồng Thắng Hải phái họ đến đây để thám thính tin tức Sùng Tự Doanh. Hai bên hẹn nhau ngày mai gặp lại, rồi An Tiểu Huệ quay về bẩm báo Viên Thừa Chí. Chàng bảo Tiểu Huệ dẫn Hồng Thắng Hải đến đây.

Hôm sau, Hồng Thắng Hải dẫn theo mười mấy thuộc hạ vào sơn động tham kiến. Nhắc đến vô số đồng đội thương vong, quần hùng đều đau lòng như muối xát. Hồng Thắng Hải hỏi han thương tích của Viên Thừa Chí, ra vẻ lo lắng quan tâm.

Viên Thừa Chí nói: “Thắng Hải! Địch đông ta ít, chúng ta đánh trận nào thua trận nấy, lần này mất cả toàn quân. Chỉ còn cách theo lời ngươi mà lên núi làm giặc cỏ. Sau khi tụ tập binh sĩ, chúng ta sẽ liều mạng với bọn Thát tử một phen nữa. Ôi! Liều mạng nữa cũng chỉ mất mạng thôi.”

Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công chiếm núi làm vua vốn là thượng sách; nhưng vùng này không có ngọn núi nào hiểm trở, phải tới Sơn Đông mới có. Nước xa không cứu được lửa gần. Tiểu nhân có mang theo mấy chục chiếc tàu lớn, đang đậu trên bờ biển. Chúng ta tạm thời xuống tàu, tránh mặt chúng ít lâu. Quân tử trả thù mười năm chưa muộn.”

Viên Thừa Chí, Hà Thiết Thủ cùng mọi người đang bị ép đến mức không chốn nương thân, không nơi trốn tránh. Hồng Thắng Hải mang theo thuyền lớn của phái Bột Hải, đúng là có thể giải quyết tình hình nguy cấp trước mắt. Quần hùng mừng rỡ vỗ tay khen ngợi, rồi cùng nhau ra bờ biển, lên thuyền.

*

*   *

Trên thuyền có cả rượu thịt. No say một bữa, tinh thần mọi người đều phấn chấn lên. Hồng Thắng Hải kể lại tình hình Minh triều ở Nam Kinh. Bốn vị tướng vùng sông Hoài sông Tứ, thì Cao Kiệt đã bị Tổng binh Hà Nam Hứa Đình Quốc giết chết; Lương Lương Tả và Lưu Trạch Thanh đầu hàng Mãn Thanh; Vương Đức Công tự tử giữa trận. La Trạch thống lĩnh quân Thanh đến tấn công. Tổng binh triều Minh là Đình Hùng đưa Phước vương Hoành Quang hoàng đế ra đầu hàng nhà Thanh. Mã Sĩ Anh chạy đến Hàng Châu rồi Phước Kiến, rốt cuộc bị quân Thanh bắt giết.

Viên Thừa Chí nhìn quanh tứ phía, lòng nguội lạnh. Tướng lĩnh khắp nơi dẫn quân đầu hàng, thế là đại đa số bại binh của triều Minh đã sát nhập vào Hán kỳ của quân Thanh, binh lực Mãn Thanh càng mạnh hơn. Bản thân chàng thì quyết không đầu hàng, nhưng binh sĩ và tài lực đều thiếu hụt, không thể đơn độc mà kháng cự, cũng không thể đến vùng Tứ Xuyên, Thiểm Tây để quy thuận Trương Hiến Trung.

Một thân võ công kinh thế hãi tục của chàng không giúp được gì quốc gia đại sự, kết quả cuối cùng không giống gia gia thì cũng giống Sử Khả Pháp. Quốc nạn sâu đến thế này, quả là không còn số phận nào khác nữa. Chàng nhìn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, Tiêu Uyển Nhi, An Tiểu Huệ đều là hồng nhan diễm lệ, tuổi xuân như hoa nở rộ, chẳng lẽ bắt họ hy sinh vì nước theo mình hết? Kể ra nam nhân vị quốc thì nữ nhân cũng nên vị quốc, chẳng có gì phân biệt.

Trong lòng chàng lại nảy ra một suy nghĩ khác: “May mà A Cửu đã tới vùng Tây Tạng xa xôi. Nàng có lúc nào nghĩ đến mình không?” Thật ra chính chàng cũng biết, A Cửu ngày đêm mong nhớ mình, không chỉ nghĩ đến mà thôi.

Viên Thừa Chí hoang mang, chẳng có kế hoạch gì, tâm ý nguội lạnh như tro tàn. Chàng nhớ lại Trương Triều Đường từng kể xứ Bột Nê an tịnh thái bình, dân cư thuần phác. Y lại nói: “Trung Nguyên đang đại loạn. Nếu công tử tâm trí không được khỏe, sao không đến Bột Nê để vui vẻ một thời gian?”

Viên Thừa Chí cũng muốn lên núi làm giặc cỏ. Nhưng chàng biết mấy chục năm sau vẫn không thể quên A Cửu, ngày tháng còn dài, nghĩ tới nghĩ lui rồi cũng có lúc không tự chủ nổi, bỏ đi Tây Tạng xa xôi để tìm A Cửu. Lúc mình bị thương, Thanh Thanh đối đãi với mình như thế, làm sao phụ lòng nàng được? Nhưng sự việc không thể lưỡng toàn, nếu không phụ Thanh Thanh thì không tránh khỏi phụ lòng A Cửu.

Nếu đi ra hải ngoại, từ nay không về nữa, bỏ hết quốc nạn gia thù thì không khỏi mang tiếng con người bất nghĩa, cả đời lương tâm không thể nào yên. Cả đời thân gửi xứ người, thật chẳng lý thú gì. Quốc gia lâm nguy mà mình trốn ra hải ngoại, cầu sinh một cách yếu hèn, rút đầu rút cổ như rùa, thật sự không phải hành động của bậc nam tử hán đại trượng phu. Thế thì có lỗi với cả ngàn cả vạn chiến hữu đã cùng mình vào sống ra chết.

Nhưng suy đi nghĩ lại, chàng thấy mình chỉ cần không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân là tạm được. Ngoài việc trốn ra ngoại quốc, thật sự bây giờ không có con đường nào khác. Đột nhiên chàng nhớ đến người võ quan Tây dương từng tặng một tấm bản đồ đi biển, bèn lấy ra hỏi xem đó là nơi nào.

Hồng Thắng Hải đáp: “Đó là một hòn đảo ở bên trái xứ Bột Nê. Hiện nay đảo này đang bị bọn hải tặc xứ Hồng Mao chiếm đóng, quấy nhiễu những người đi biển.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, bèn quyết tâm đi ra hải ngoại. Chàng phấn chấn hẳn lên, vỗ bàn hú dài một tiếng rồi nói: “Chúng ta sẽ đi đuổi bọn hải tặc Hồng Mao, tạm thời ở trên hải đảo đó để làm dân xứ biển.”

Chàng bèn hạ lệnh cho tất cả thuyền bè đi về phía Hà Khẩu ở phía nam, đợi ngoài biển gần Thiết Môn Quan. Khi vết thương lành hẳn, chàng về Hoa Sơn cáo biệt sư phụ, bẩm báo chưởng môn đại sư huynh là phải ra hải ngoại an cư, đợi thời thế thay đổi sẽ trở về lập công báo quốc.

Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Thôi Thu Sơn cùng một số hào kiệt thì không muốn ra ngoại quốc xa xôi, chia nhau tìm núi làm giặc cỏ. Mọi người nhắc lại lời thề: “Không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân”, rồi cùng Viên Thừa Chí tạm biệt.

Viên Thừa Chí dõi mắt nhìn sang Tây Tạng, trong lòng vẫn lo lắng cho A Cửu nhưng không làm gì được. Chàng chỉ còn cách dẫn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, ông câm, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi, An Tiểu Huệ, An đại nương, Thôi Hy Mẫn, cha con Mạnh Bá Phi, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán và một nhúm huynh đệ Sùng Tự Doanh sống sót lên thuyền, giương buồm ra biển.

Nhờ phái Bột Hải giúp sức, Viên Thừa Chí bỏ xứ mà đi, xây dựng một chân trời mới nơi hải ngoại. Đúng là: “Vạn dặm giang hồ, lạnh lòng thiếu hiệp, mười năm binh lửa, khổ ải chúng sinh.”

Hết

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.