Sáng hôm sau, Hư Trúc tỉnh lại, thấy mình nằm ngủ trên một chiếc giường êm ấm, mở mắt nhìn ra ngoài trướng là một căn phòng cực rộng, trống trải chẳng khác gì thiền phòng nơi chùa Thiếu Lâm, trần thiết cổ kính thanh nhã, đỉnh đồng bình sứ, cũng na ná như chuông đồng lò hương nơi bản tự. Y lúc ấy còn mơ mơ màng màng, chẳng biết mình đang ở nơi đâu.
Một thiếu nữ bưng một chiếc đĩa sứ đến bên giường, chính là Lan Kiếm, nói:
– Chủ nhân tỉnh dậy rồi? Mời chủ nhân súc miệng.
Hư Trúc chưa hoàn toàn rã rượu, thấy miệng đắng ngắt, cổ khô ran, thấy trong chén đựng nước trà màu vàng ánh, cầm lấy đưa lên miệng uống ngay, trong ngọt có đắng, không thấy mùi trà, liền ực một cái nuốt ngay vào bụng. Y trong đời đã bao giờ được nếm mùi sâm thang, thành ra chẳng biết đây là loại trà đắng gì, ngượng nghịu mỉm cười nói:
– Đa tạ tỉ tỉ! Ta… ta muốn trở dậy, xin tỉ tỉ bước ra ngoài giùm.
Lan Kiếm chưa kịp trả lời, ngoài phòng lại tiến vào một thiếu nữ khác, chính là Cúc Kiếm, mỉm cười nói:
– Chị em tiểu tì hai người xin giúp chủ nhân thay áo.
Nói rồi lấy từ trên bàn ở đầu giường một bộ nội y nội khố màu xanh nhạt luồn vào trong chăn cho Hư Trúc. Hư Trúc cuống quá, mặt đỏ gay nói:
– Không! Không! Ta… ta không cần tỉ tỉ phục thị. Ta nào có bị thương bệnh hoạn gì đâu, chẳng qua chỉ quá chén một chút, ôi, nước này cả đến tửu giới cũng phạm rồi. Kinh có nói rằng: uống rượu có ba mươi sáu điều thất thố, từ nay nhất định không uống nữa. Còn tam đệ thì sao? Đoàn công tử đâu? Y đâu rồi?
Lan Kiếm nhếch mép cười nói:
– Đoàn công tử đã hạ sơn. Khi ra đi có dặn tì tử bẩm với chủ nhân, khi nào mọi việc nơi Linh Thứu cung xong xuôi, mời chủ nhân đến Trung Nguyên gặp lại.
Hư Trúc bàng hoàng kêu lên một tiếng hỏi:
– Ta còn việc phải hỏi y, sao y đã đi mất rồi?
Y trong lòng thảng thốt, từ trên giường nhảy ngay xuống, định đuổi theo Đoàn Dự, cốt hỏi cho ra tên tuổi và chỗ ở của “người trong mộng”, đột nhiên thấy trên người chỉ mặc đơn sơ có một chiếc áo lót màu trắng, “A” lên một tiếng lại chui tọt vào trong chăn, nghĩ thầm: “Chết chửa, không biết ai thay quần áo cho mình thế này?’.
Y từ chùa Thiếu Lâm đi ra trong người chỉ mặc có mỗi một bộ quần áo lót bằng vải thô, luôn nửa năm nay, cực kỳ rách nát hôi hám, thế mà bây giờ trên người là loại vải mềm, chẳng biết bằng tơ hay gấm, nhưng biết là loại hàng sang trọng lắm.Cúc Kiếm cười nói:
– Chủ nhân tối hôm qua say mèm, bốn chị em tì tử phục thị chủ nhân tắm rửa thay áo, chủ nhân không biết gì hay sao?
Hư Trúc lại càng kinh hãi, ngẩng đầu lên thấy Lan Kiếm, Cúc Kiếm người nào cũng đẹp như ngọc, tươi như hoa, tim bỗng đập thình thình, vừa đưa tay ra, áo ngắn liền tuột lên để lộ làn da ẩn ẩn sắc hồng, quả nhiên bao nhiêu cáu ghét bẩn thỉu trên người đã được kỳ cọ sạch sẽ. Y cố vớt vát thêm một câu, vừa cười vừa
nói:
– Ta say quả là không biết trời trăng gì nữa, vậy mà may sao cũng còn biết tự mình tắm rửa.
Lan Kiếm cũng cười:
– Đêm hôm qua chủ nhân đâu có còn cử động gì được, đó là bốn chị em tiểu tì tắm cho chủ nhân đó.
Hư Trúc “A” lên một tiếng to, tưởng chừng muốn ngất đi, nằm vật xuống kêu luôn mồm:
– Chết rồi! Chết rồi!
Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng sợ đến nhảy dựng lên, cùng hỏi:
– Chủ nhân, có chuyện gì không phải thế? Hư Trúc cười gượng nói:
– Ta là một nam nhân, lẽ nào lại ở trước mặt bốn vị tỉ tỉ… xích thân lộ thể, chẳng là… chẳng là hỡi ơi lắm sao? Huống chi ta toàn thân cáu ghét, vừa hôi vừa bẩn, ai lại để các tỉ tỉ làm cái việc dơ dáy đó?
Lan Kiếm đáp:
– Bốn chị em tiểu tì là nô lệ của chủ nhân, dù có phải tan xương nát thịt vì chủ nhân cũng làm, nô tì sai lầm xin chủ nhân trách phạt.
Nói xong cô ta cùng Cúc Kiếm đều quỳ phục xuống lạy. Hư Trúc thấy hai nàng hết sức sợ hãi, nghĩ đến Dư bà, Thạch tẩu những người kia, mỗi khi mình dùng lễ để đãi họ thì đều sợ đến mất cả hồn vía, chắc hẳn Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng đã quen với tính nết như thế của Đồng Mỗ rồi, mỗi khi ăn nói dịu ngọt là kế đó sẽ ra sát thủ ngay, liền sẵng giọng:
– Hai vị cô… ôi, các ngươi đứng dậy, ra khỏi đây ngay, để tự ta mặc áo, không cần các ngươi phục thị.
Lan Cúc hai người vội đứng lên, nước mắt rưng rưng, lui ra ngoài. Hư Trúc trong lòng thật lạ lùng, hỏi thêm:
– Ta… có phải ta đắc tội với các cô không? Sao các cô không vui, nước mắt rưng rưng là thế nào? Hay là ta nói gì sai, cái đó…
Cúc Kiếm đáp:
– Chủ nhân đuổi chị em tì nữ ra, không cho hầu hạ chủ nhân thay áo, rửa mặt, chắc hẳn chán ghét chúng tôi rồi…
Nói xong nước mắt ròng ròng chảy xuống. Hư Trúc xua tay liên tiếp nói:
– Không! Không đâu. Ta là đàn ông, các cô là con gái, lẽ nào… cái đó bất tiện lắm…chứ ta không có ý… có đức Phật ở trên, người tu hành không ăn gian nói dối, ta không khi nào đánh lừa các cô đâu.
Lan Kiếm, Cúc Kiếm thấy y hoa chân múa tay, rất là cuống quýt, ý thật thành tâm, không khỏi bật cười, cùng nói:
– Xin chủ nhân đừng trách. Trong cung Linh Thứu trước nay không có đàn ông, chúng tì nữ chưa từng gặp con trai bao giờ. Chủ nhân như trời, chúng nô tì như đất, có gì mà phân biệt nam hay nữ?
Hai nàng uyển chuyển đi tới, hầu hạ Hư Trúc thay áo đi giày. Chẳng mấy chốc, Mai Kiếm và Trúc Kiếm cũng vào, người thì chải đầu, người thì rửa mặt cho y. Hư Trúc ngượng đến không dám nói năng gì, mặt trắng bệch, tim đập thình thình, đành mặc cho bốn cô tì nữ làm gì thì làm, cũng không dám bảo rằng mình không thích họ phục thị.
Y nghĩ chắc Đoàn Dự hẳn đi cũng xa rồi, đuổi không kịp, lại nghĩ đến quần hào các động, các đảo chưa trừ được Sinh Tử Phù, không tiện rời cung, ăn điểm tâm
xong, liền đi đến đại sảnh gặp mọi người, giải lá bùa Sinh Tử cho hai người đau đớn nhất.
Giải trừ Sinh Tử Phù cần phải dùng chân lực sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Hư Trúc chân khí sung túc, dù có giúp cho mươi người cũng không đến nỗi mệt nhọc, có điều Đồng Mỗ mỗi người lại cấy bùa một nơi khác nhau, nội lực mỗi người lại không giống nhau, Hư Trúc muốn bạt trừ những lá bùa đó cũng thật khó khăn.
Sở học về kinh mạch, huyệt đạo của y rất nông cạn, cũng không dám tùy tiện ra tay, sợ có gì sơ sót sẽ càng làm cho bệnh nhân bị nặng thêm thành thử đến trưa cũng mới trị được bốn người. Ăn xong cũng phải nghỉ ngơi một lát.
Mai Kiếm thấy y nhíu mày suy nghĩ phương pháp bạt trừ Sinh Tử Phù có vẻ khó nhọc liền nói:
– Chủ nhân, bên trong hang đá hậu điện Linh Thứu Cung mấy trăm năm trước những vị chủ nhân cũ có để lại các hình vẽ trên vách đá, tì tử từng nghe mỗ mỗ nói rằng, những hình vẽ đó có liên quan đến Sinh Tử Phù, sao chủ nhân không đến xem qua một chút?
Hư Trúc vui mừng nói:
– Thế thì tốt lắm!
Thế là Mai Lan Trúc cúc bốn nàng dẫn đường cho Hư Trúc tới hoa viên, đẩy một tòa giả sơn dưới đó có một cửa vào địa đạo. Mai Kiếm giơ đuốc lên đi trước dẫn đường, năm người đi thành một hàng. Trên đường đi, mỗi khi đến chỗ kín đáo, Mai Kiếm đều phải án động cơ quan để khóa các ám khí bố trí sẵn nơi đó. Cái hầm đó cực kỳ ngoằn ngoèo, đi sâu xuống dưới, có chỗ rộng rãi thành một cái hang đá đủ biết người xưa cứ theo hình dáng thiên nhiên trong núi mà kiến tạo.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Các nàng nói trong hang đá có hình vẽ của những vị chủ nhân cũ mấy trăm năm trước, nhưng địa đạo, hang đá kết cấu to lớn, ít nhất cũng là mấy chục năm kì công, mà lại hao phí nhân lực, vật lực rất lớn, trong Linh Thứu Cung toàn là đàn bà con gái ắt không thể nào làm được, quá nửa cũng là do chủ nhân cũ để lại”.
Trúc Kiếm nói:
– Khi bọn nô tài kia tấn công vào cung, các tỉ tỉ trong Quân Thiên Bộ đều bị bắt cả, bốn chị em chúng tôi thấy địch không lại, chạy xuống trốn ở dưới đây, định chờ đến khi trời tối sẽ chui ra tìm cách cứu người.
Lan Kiếm nói:
– Thực ra bọn tiểu tì chỉ cốt là báo đáp tấm lòng của mỗ mỗ. Chủ nhân nếu không tới kịp, chúng tôi cả bọn thể nào cũng bỏ mạng dưới tay lũ nô tài.
Đi phải đến hơn hai dặm, Mai Kiếm giơ tay đẩy một tảng đá ở phía bên trái rồi tránh sang một bên nói:
– Xin mời chủ nhân, bên trong là thạch thất, bọn tì tử không vào được. Hư Trúc hỏi:
– Sao lại không vào được? Bên trong có gì nguy hiểm chăng? Mai Kiếm đáp:
– Không phải có nguy hiểm. Đây là trọng địa của bản cung, bọn tì tử không được phép vào.
Hư Trúc nói:
– Tất cả cùng vào một lượt, có gì quan trọng đâu? Bên ngoài này hẹp lắm, đứng không thoải mái.
Bốn nàng nhìn nhau, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa vui sướng. Mai Kiếm nói:
– Trước khi mỗ mỗ tiên du đã từng dặn chị em tiểu tì là nếu bốn đứa trung thành hầu hạ, không làm gì sai trái, lại dụng tâm luyện công thì kể từ năm bốn mươi tuổi sẽ cho vào thạch thất mỗi năm một ngày, tham nghiên võ công trên thạch bích. Nếu như chủ nhân ân đức không bãi bỏ lời hứa của mỗ mỗ thì hai mươi ba năm nữa mới được vào.
Hư Trúc nói:
– Đợi đến hai mươi ba năm nữa thì chán ngấy? Lúc đó các cô chẳng già rồi ư, học võ làm gì nữa? Thôi cùng vào một lượt.
Bốn nàng mừng quá, lập tức sụp xuống lạy. Hư Trúc nói:
– Thôi đứng lên, đứng lên đi! Chỗ này đất hẹp, nếu như ta cũng quỳ xuống hoàn lễ e rằng cả bọn ngã chồng lên nhau.
Năm người đi vào thạch thất, chỉ thấy bốn bức tường đá được bào nhẵn, trên đó khắc vô số những vòng tròn đường kính chừng một thước, bên trong vòng tròn khắc các loại đồ hình, có cái hình người, có cái hình thú, có chỗ là văn tự sứt mẻ không toàn vẹn, có chỗ lại chỉ là những vạch ký hiệu lằng ngoằng, bên cạnh các vòng tròn có đánh dấu “giáp nhất”, “giáp nhị”, “tí nhất”, “tí nhị”… các số mục, những vòng đó nếu không hàng nghìn thì cũng phải đến tám chín trăm, một lúc làm sao xem cho hết được?
Trúc Kiếm nói:
– Mình xem hình “giáp nhất” trước, chủ nhân nghĩ có nên không?
Hư Trúc gật đầu khen phải. Năm người cầm đuốc giơ lên đi tìm hình có số “giáp nhất”, Hư Trúc vừa xem thấy ngay đây là khởi thủ thức của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ liền nói:
– Đây là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.
Xem đến “giáp nhị” quả nhiên là chiêu thứ hai, cứ thuận chiều xem tiếp, hết các hình Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì đến Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, bao nhiêu những chỗ áo bí ca quyết đều có ghi rõ trong những vòng tròn này.
Các võ công chiêu số theo sau Thiên Sơn Lục Dương Chưởng khắc trong thạch thất Hư Trúc chưa từng học qua. Y cứ theo những hình vẽ, vận chân khí lên, chỉ mới học vài chiêu đã thấy thân thể nhẹ nhàng như muốn bay lên, có điều dường như có chỗ nào còn khiếm khuyết một chút nên chưa rời khỏi mặt đất được.
Y đang ngưng thần vận tức, tập trung hết tinh thần không còn tơ vương chuyện gì, bỗng nghe “A, A” hai tiếng kinh hoàng, Hư Trúc hoảng hốt quay đầu lại thấy Lan Trúc nhị nữ loạng choạng, rồi ngã lăn đùng ra đất, còn Mai Cúc hai nàng tay vịn lên tường đá, sắc mặt nhợt nhạt, lảo đảo như muốn té. Hư Trúc vội vàng đỡ Lan Trúc dậy, kinh ngạc hỏi:
– Chuyện gì thế? Mai Kiếm nói:
– Chủ… chủ nhân, bọn tì nữ công lực kém cỏi, không nên xem những hình vẽ… ở trong này… chúng tôi… ra ngoài kia đợi vậy…
Bốn nàng lần theo vách đá, chầm chậm đi ra khỏi thạch thất. Hư Trúc đứng ngẩn ngơ một hồi, rồi cũng đi ra, thấy bốn cô gái ngồi xếp bằng trên lối đi vận công, thân hình run rẩy, vẻ mặt đau đớn. Hư Trúc biết họ bị nội thương khá nặng, lập tức sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, vỗ nhẹ lên các huyệt đạo trên lưng họ vài cái. Một luồng lực đạo dương hòa liền truyền vào bốn thiếu nữ, mặt các cô gái trở lại bình thường, chẳng bao lâu kẻ trước người sau mở mắt kêu lên:
– Đa tạ chủ nhân hao phí công lực trị thương cho tì tử.
Cả bọn phục xuống lạy tạ ân đức. Hư Trúc vội vàng đưa tay đỡ lên nói:
– Chẳng hay… chẳng hay có chuyện gì thế? Đang khỏe mạnh lại bị thương muốn ngất đi là sao?
Mai Kiếm thở hắt ra đáp:
– Chủ nhân, trước đây mỗ mỗ bảo bọn tiểu tì phải đến bốn mươi tuổi mới được vào trong này mỗi năm một ngày để xem đồ hình, thì ra cũng có thâm ý. Những võ công trên đồ phổ này quá sức thâm áo, bọn tì tử không lượng sức mình, theo hình “giáp nhất” luyện theo, chân khí chưa đủ, kinh mạch lập tức rối loạn. Nếu không được chủ nhân giải cứu, không chừng bốn chị em chúng tôi đã bị tàn phế, tê liệt suốt đời.
Lan Kiếm nói:
– Mỗ mỗ thương yêu nên đặt kỳ hạn gần như thế, mong mỏi khi chị em tì tử bốn mươi tuổi sẽ có thể tập luyện thượng thừa võ công, thế nhưng… thế nhưng bọn tì tử tư chất kém cỏi, dẫu có luyện thêm hai mươi ba năm nữa, chưa chắc đã dám trở lại thạch thất này.
Hư Trúc đáp:
– Thì ra là thế! Vậy là tại ta sai quấy, đúng ra chẳng nên để các cô vào đây. Tứ kiếm lại quỳ xuống chịu tội, cùng nói:
– Chủ nhân sao lại nói thế? Đó là ân đức của chủ nhân, đều do bọn tì tử cuồng vọng làm chuyện không phải mà ra nông nỗi.
Cúc Kiếm nói:
– Chủ nhân công lực thâm hậu, luyện những môn võ học cao thâm này cực kỳ ích lợi. Mỗ mỗ ở trong thạch thất có khi hàng tháng không ra, chính là để nghiền ngẫm các đồ phổ trên thạch bích này.
Mai Kiếm lại thêm:
– Bọn nô tài ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo tra vấn các tỉ tỉ Quân Thiên Bộ muốn tìm nơi cất giấu bảo vật của mỗ mỗ. Các tỉ tỉ đó thà chết không khai, bốn chị em tì tử cũng định dụ cho họ vào sau đó phát động cơ quan tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ở trong đường hầm, nhưng lại sợ trong bọn nô tài kia có kẻ khéo tay biết cách phá giải máy móc vào được thạch thất thấy được những đồ hình trên vách thì di họa vô cùng. Nếu biết như thế này, cứ để bọn chúng vào đây lại hóa hay.
Hư Trúc gật đầu:
– Quả là như thế, những hình vẽ này nếu người chưa đủ công lực mà coi thấy thì còn ghê gớm hơn cả độc dược gươm đao, cũng may bọn họ chưa vào tới.
Lan Kiếm mỉm cười:
– Chủ nhân thực là tốt bụng, theo như tiểu tì ư, cứ để cho bọn chúng luyện công rồi từng đứa từng đứa lăn ra chết, có phải thích không?
Hư Trúc nói:
– Ta mới luyện vài chiêu đã thấy tinh thần bừng bừng, nội lực sung túc, đang định đi ra giúp họ bạt trừ Sinh Tử Phù. Các cô cũng đi ngủ một lát, nghỉ ngơi cho khỏe.
Năm người từ địa đạo chui ra, Hư Trúc quay về đại sảnh, gỡ bùa Sinh Tử cho ba người. Từ đó ngày ngày Hư Trúc bạt trừ Sinh Tử Phù cho quần hào, mỗi khi thấy mỏi mệt, lại đi xuống dưới thạch thất luyện thượng thừa võ công. Bốn cô gái đợi ở bên ngoài, không dám bước vào một bước. Hàng ngày khi rảnh rỗi, Hư Trúc lại chỉ dạy võ công cho bốn nàng và chư nữ trong chín bộ.
Phải tốn đến hơn hai chục ngày mới bạt trừ được hết Sinh Tử Phù cho mọi người
nhưng Hư Trúc ngày ngày nghiên cứu đồ phổ trên vách đá, võ công nội lực cũng đại tiến, so với khi mới bước chân lên Phiêu Miểu Phong thật khác xa.
Quần hào trước kia thần phục Đồng Mỗ chính là bị ép buộc, trên người bị gieo Sinh Tử Phù, vì thế bị Sinh Tử Phù chế ngự, không chịu cũng không xong. Bây giờ Linh Thứu Cung đã đổi chủ, Hư Trúc thành tâm đãi mọi người, lấy lễ mà xử với họ, lại giải trừ Sinh Tử Phù trên người họ, quần hào tuy toàn là những kẻ kiệt hiệt, ngược ngạo trên giang hồ nhưng cũng cảm ân hoài đức, vui lòng quy thuận, thề sống chết nguyện trung thành, ai nấy bái tạ ra đi.
Đến khi các động chủ, đảo chủ hạ sơn hết rồi, trên núi chỉ còn mình Hư Trúc là đàn ông. Y tính toán thầm trong bụng: “Ta từ bé là đứa trẻ mồ côi mồ cút, toàn nhờ các sư phụ trong chùa nuôi dưỡng tới lúc lớn khôn, nếu như từ nay không trở về chùa Thiếu Lâm thì quả là đồ vong ân phụ nghĩa. Ta phải quay về chùa chịu tội cùng phương trượng và sư phụ, có thế mới hợp đạo lý”. Y liền nói rõ đầu đuôi cho bốn cô gái và chư nữ chín bộ, ngay hôm đó lập tức xuống núi, mọi việc trên cung Linh Thứu do Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi… cùng nhau trông coi.
Bốn cô gái ý muốn đi theo hầu hạ, Hư Trúc nói:
– Ta quay về chùa Thiếu Lâm, trở lại làm hòa thượng. Trên đời làm gì có nhà sư nào lại đem tì nữ đi theo bao giờ?
Nói đi nói lại mãi mà những cô gái không tin. Hư Trúc cầm thế đao lên cạo đầu sạch bóng. Bốn thiếu nữ không còn biết sao hơn, đành phải cùng chư nữ chín bộ tiễn y xuống núi, gạt lệ từ biệt.
Hư Trúc thay bộ tăng y cũ, hăng hái tiến bước theo hướng đông về phía Tung Sơn. Người tính nết như y, trên đường chẳng gây chuyện với ai, cũng lại nhìn vào một nhà sư áo quần rách rưới, đến đạo tặc cũng không để ý đến. Thành thử đi đường bình an một mạch về đến chùa Thiếu Lâm.
Y nhìn thấy mái ngói vàng của ngôi chùa cổ, trong lòng vừa cảm khái, vừa hổ thẹn, mới đi ra ngoài có vài tháng mà mình đã vi phạm biết bao nhiêu điều thanh quy giới luật, nào sát giới, nào dâm giới, nào huân giới, nào tửu giới, trong bao nhiêu Ba La Di đại giới, giới nào cũng phạm, không biết phương trượng và sư phụ có tha thứ cho mình quay về cửa Phật hay không?
Y trong bụng phập phồng, vào cửa chùa rồi liền đi ngay đến bái kiến sư phụ Tuệ Luân. Tuệ Luân thấy y trở vè, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ hỏi ngay:
– Phương trượng sai ngươi ra ngoài đưa thư, sao mãi đến bây giờ mới quay trở về?
Hư Trúc nằm phục xuống, hết sức hối tiếc, khóc òa lên nói:
– Sư phụ, đệ tử… đệ tử quả là đáng chết, sau khi hạ sơn, không trì thủ nổi, bao nhiêu… bao nhiêu giới luật sư phụ dạy dỗ, đều… đều chẳng giữ gìn gì cả. Tuệ Luân mặt biến sắc, lắp bắp:
– Cái… cái gì? Ngươi nếm phải thịt cá rồi ư? Hư Trúc đáp:
– Vâng, nhưng đâu có chỉ là ăn đồ mặn mà thôi đâu. Tuệ Luân mắng liền:
– Chết thật, chết thật! Ngươi… ngươi lại còn uống rượu nữa chứ gì? Hư Trúc đáp:
– Đệ tử chẳng những uống rượu mà còn uống đến túy lúy say mèm.
Tuệ Luân thở dài một tiếng, hai dòng lệ chảy ròng ròng trên gò má nghẹn ngào:
– Ta thấy ngươi từ tấm bé trung hậu thực thà, ngờ đâu vừa bước chân vào cõi hồng trần hoa lệ, lại sa ngã đến thế, khục… khục…
Hư Trúc thấy sư phụ đau lòng, lại càng kinh hãi nói:
– Sư phụ ở trên, đệ tử phạm vào giới luật, đâu có phải chỉ bấy nhiêu, còn… còn phạm phải…
Y định nói còn phạm cả sát giới, dâm giới, bỗng nghe tiếng chuông đánh boong boong, cứ hai tiếng ngắn lại ngừng một chút, ấy là hiệu lệnh triệu tập đệ tử hàng chữ Tuệ. Tuệ Luân vội vàng đứng lên, lau nước mắt nói:
– Ngươi phạm giới nhiều quá, ta chẳng còn cách nào che chở cho ngươi được nữa rồi. Ngươi… ngươi… tự mình đến Giới Luật Viện chịu tôi đi thôi! Chuyện này đến cả ta cũng tội vạ lây. Ôi! Thôi…
Ông ta nói xong hấp tấp chạy ra. Hư Trúc đến Giới Luật Viện, khom lưng bẩm:
– Đệ tử Hư Trúc, vi phạm giới luật Phật môn, cung kính khẩn cầu chưởng luật trưởng lão tứ phạt.
Y nói đến hai lần mới có một tăng nhân trung niên từ trong viện đi ra, lạnh lùng nói:
– Thủ tọa và chưởng luật sư thúc đang bận, không có thì giờ đâu đến nghe ngươi nói, ngươi quỳ đó đợi đi.
Hư Trúc đáp:
– Vâng!
Y quỳ từ giữa trưa đến chiều tối cũng không thấy ai đến hỏi han. Cũng may Hư Trúc nội công thâm hậu, tuy không ăn uống gì mà quỳ đã nửa ngày nhưng vẫn thản nhiên như không, không có gì tỏ ra mỏi mệt. Nghe tiếng trống chiều đã điểm, đã đến khóa tụng kinh, Hư Trúc cúi đầu đọc kinh sám hối những sai trái đã phạm.
Nhà sư trung niên lại đi ra nói:
– Này Hư Trúc, mấy hôm nay nhà chùa đang có việc lớn, các trưởng lão không rảnh rổi để xét xử chuyện của ngươi. Ta thấy ngươi quỳ đó đọc kinh, quả là có thành tâm sám hối tội lỗi. Thôi ngươi đi qua bên vườn rau gánh phân tưới cây để đợi khi dạy bảo. Đợi khi nào các trưởng lão xong việc lúc đó sẽ đòi ngươi lên hỏi rõ ngọn ngành, theo tình tiết mà định tội nặng nhẹ.
Hư Trúc cung kính đáp:
– Dạ, đa tạ từ bi.
Y chắp tay hành lễ, lúc đó mới đứng lên, nghĩ thầm: “Mình không bị trục xuất ra khỏi chùa ngay, xem ra cũng còn có hi vọng”, trong lòng thấy đỡ áy náy một chút.
Y đi qua vườn rau nói với nhà sư coi vườn:
– Sư huynh, tiểu tăng Hư Trúc phạm phải tự môn giới luật, sư thúc bên Giới Luật Viện sai qua đây gánh phân tưới rau.
Nhà sư đó tên là Duyên Căn không phải là người xuất gia từ chùa Thiếu Lâm, thành ra không theo thứ tự Huyền Tuệ Hư Không mà đặt tên. Y tư chất tầm thường, không thể lãnh hội được Thiền nghĩa đã đành mà luyện võ cũng chẳng đi đến đâu, bình thường chỉ lo những việc lặt vặt.
Vườn rau đó rộng đến hai trăm mẫu, có đến ba bốn chục nhân công, y thống lãnh tất cả nên cũng ra vẻ ta đây lắm, mỗi khi có tăng nhân bị Giới Luật Viện gửi qua tưới rau thì lại càng lên mặt. Y vừa nghe Hư Trúc nói thế, trong bụng mừng thầm, hỏi:
– Ngươi phạm phải giới gì? Hư Trúc đáp:
– Phạm giới nhiều lắm, một lời không thể hết được. Duyên Căn hầm hầm hỏi lại:
– Cái gì mà một lời không thể hết, hai lời không thể hết? Ta bảo ngươi thực thà nói minh bạch cho ta nghe. Không nói gì ngươi chỉ là một chú tiểu không chức phận, ví như thủ tọa La Hán Đường, Đại Ma Đường mà phạm giới, nếu đã bị gửi xuống vườn rau, ta đều phải hỏi cho ra lẽ, có ai dám không trả lời? Ta nhìn bản mặt ngươi, mặt mũi hồng hào thế kia, chắc là ăn vụng đồ mặn chứ gì?
Hư Trúc đáp:
– Chính thế! Duyên Căn nói:
– Đó ngươi coi, ta đoán là trúng liền. Xem chừng ngươi lại còn lén uống tí rượu nữa, phải không? Nói gì thì nói, đừng có chối, qua mặt ta không phải dễ à nghen!
Hư Trúc đáp:
– Quả có thế. Có một bữa tiểu tăng quá chén say túy lúy càn khôn, không còn biết trời trăng gì nữa.
Duyên Căn cười hềnh hệch:
– Chậc chậc chậc, ngươi quả là lớn mật. Hà hà, ăn uống no say, hẳn là lòng hươu dạ vượn, tám chữ “sắc tức thị không, không tức thị sắc”ngươi quên mất tiêu luôn, trong bụng thể nào chẳng nghĩ tới gái gẩm, phải không nào? Chẳng phải chỉ một lần, mà phải bảy tám lần là ít, ngươi có dám nhận không hả?
Y lên giọng hạnh họe đầy vẻ gay gắt. Hư Trúc thở dài đáp:
– Tiểu tăng đâu dám nói láo với sư huynh? Không những nghĩ tới mà còn phạm vào dâm giới nữa kìa.
Duyên Căn vừa kinh ngạc vừa thích thú, chỉ tay chửi toáng lên:
– Chà chú tiểu này thiệt là to gan, làm bại hoại thanh danh chùa Thiếu Lâm. Ngoài giới dâm ra ngươi còn phạm giới nào nữa? Ăn cắp ăn trộm nữa chăng? Lấy đồ của người ta hả? Có đánh lộn với ai không? Có cãi lộn với ai không?
Hư Trúc gục đầu nói:
– Tiểu tăng lỡ giết người, mà đâu phải chỉ một người.
Duyên Căn hết sức kinh hãi, mặt biến sắc, lật đật lùi lại ba bước, nghe nói Hư Trúc đã lỡ tay giết người, mà lại không phải chỉ một người, trong bụng phập phồng, chỉ sợ y nổi hung lên giở quẻ với mình, chắc không phải là địch thủ của y, cố gắng định thần, nở một nụ cười cầu tài nói:
– Bản tự vốn dĩ võ công số một trên đời, nếu đã luyện võ, khó mà không lỡ tay đả thương người khác được, công phu của sư đệ chắc hẳn cũng có hạng lắm.
Hư Trúc đáp:
– Nói ra thì quả là hổ thẹn, công phu bản môn của tiểu tăng, đã hoàn toàn bị phế rồi, hiện nay không còn chút nào nữa.
Duyên Căn mừng quá cỡ, nói luôn mồm:
– Vậy thì hay lắm, hay lắm! Thiệt là hay, thiệt là hay!
Y nghe nói bản môn công phu hoàn toàn mất hết, chắc mẩm vì y phạm quá nhiều đại giới nên bị các trưởng lão trong chùa phế hết võ công, liền trở mặt ngay. Y nghĩ thầm: “Dẫu y võ công bị phế thật, nhưng biết đâu cũng còn được đôi ba phần cũng chưa dễ gì đối phó” bèn nói:
– Sư đệ, ngươi tới vườn rau làm công quả sám hối thì thiệt là hay. Có điều quy củ nơi đây, hễ ai phạm phải giới luật, tăng nhân nào tay từng nhuốm máu, khi làm việc thì phải xiềng chân khóa tay. Đó là quy củ từ liệt tổ tông truyền xuống, không biết sư đệ có chịu mang không? Nếu không chịu mang thì để ta vào bẩm với Giới Luật Viện.
Hư Trúc đáp:
– Nếu đã có quy củ như thế, tiểu tăng cũng xin tuân theo.
Duyên Căn trong bụng mừng thầm, lấy xích lấy khóa bằng thép ra, đeo vào cho y. Chùa Thiếu Lâm mấy trăm năm nay tập luyện võ công, không thiếu gì những nhà sư làm điều sằng bậy, mà những tăng nhân phạm giới thường thường võ công cực cao không dễ gì chế phục. Thành thử các nơi Giới Luật Viện, Sám Hối Đường cho đến Thái Viên Tử đâu đâu cũng có sẵn xích khóa bằng thép. Duyên Căn thấy Hư Trúc đã mang xiếng xích rồi, lúc đó mới yên bụng cất tiếng chửi:
– Đồ giặc con kia, xem ngươi mới ba tuổi ranh, vậy mà lớn mật làm càn, giới luật nào cũng phạm hết. Hôm nay ta không trừng trị ngươi một phen cho ra trò thì làm sao hả tức được?
Y liền bẻ một cành cây, mắm môi mắm cổ vụt Hư Trúc túi bụi. Hư Trúc thu liễm chân khí không dám dùng nội lực đề ngự, nhường cho y đánh, chỉ trong giây lát đầu mặt đã đầy máu tươi. Y chỉ chăm chú niệm Phật, trên mặt không lộ vẻ gì buồn bã. Duyên Căn thấy y không tránh né, cũng không cãi lại, nghĩ thầm: “Nhà sư này quả nhiên võ công mất hết thật rồi, ta phải hành hạ y một trận cho đã nư mới được”.
Y nghĩ đến Hư Trúc ăn uống thịt cá ê hề, say sưa túy lúy, hoan lạc mê tơi, còn mình đã hơn bốn chục tuổi vẫn nằm còng queo chưa được nếm mùi trần tục bao giờ, lòng đố kỵ nổi lên bừng bừng, ra tay lại càng thêm mạnh, đánh đến gãy ba cành cây, lúc đó mới ngừng, hầm hè nói:
– Mỗi bữa ngươi gánh đủ một trăm gánh phân tưới rau, thiếu một gánh thì ta lấy đòn càn sắt đánh gãy cẳng, nghe chưa?
Hư Trúc bị đánh đập một trận, trong lòng lại thấy bình an, tự nhủ: “Ta phạm nhiều giới luật như thế, quả là đáng tội, trách phạt càng nặng thì tội nghiệt của ta càng bớt đi”. Nghĩ thế bèn cung kính đáp:
– Dạ!
Y đi đến cái chòi lấy thùng phân ra, gánh phân trộn với nước, đi dọc theo những luống tưới rau. Việc tưới rau là một công phu cần chăm chú, Hư Trúc không vội vàng hấp tấp, bình thản khoan thai tưới kỹ càng, đến mãi tận khuya mới đủ một trăm thùng quay về đống củi nghẹo đầu nằm ngủ.
Hôm sau trời chưa sáng hẳn, Duyên Căn đã đến tay đấm chân đá, lay y tỉnh dậy, quát tháo:
– Thằng sư giặc, thằng trọc làm biếng kia! Sáng bảnh mắt mà còn trốn nơi đây ngủ, có dậy bửa củi đi không nào?
Hư Trúc đáp:
– Dạ!
Y không cãi lời, đứng lên đi chẻ củi. Cứ như thế mấy ngày liền, ban ngày bổ củi, ban đêm gánh phân, chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò, trên người đầy những vết thương, còn roi thì không biết mấy trăm cái.
Sáng sớm một hôm, Hư Trúc đang bổ củi, Duyên Căn bỗng đến gần cười hề hề nói:
– Sư huynh khổ quá nhỉ?
Y lấy chìa khóa ra mở xiếng xích cho y. Hư Trúc nói:
– Không có gì là khổ hết.
Y giơ búa lên định tiếp tục chẻ củi, Duyên Căn liền nói:
– Sư huynh không phải bửa củi nữa, mời sư huynh vô trong phòng dùng cơm. Tiểu tăng mấy bữa trước đắc tội nhiều lắm, thiệt là đáng chết, mong sư huynh rộng lòng cho.
Hư Trúc thấy giọng lưỡi y thay đổi hẳn, cũng hơi ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn lên thấy Duyên Căn mặt mày tím bầm, hiển nhiên đã bị ai đánh cho một trận đích đáng, lại càng kỳ quái. Duyên Căn gượng cười ủ rũ nói:
– Tiểu tăng đúng là có mắt mà không biết núi Thái Sơn, đắc tội với sư huynh, sư huynh nếu không tha thứ, tui… tui… tui chắc đại họa lâm đầu mất.
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng mình làm mình chịu, sư huynh trừng phạt thế là phải lắm rồi. Duyên Căn mặt biến sắc, giơ tay lên, xoạc cẳng xuống tấn, bốp bốp bốp bốp, vả luôn vào mặt mình bốn cái liền. Hư Trúc hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
– Sư huynh làm thế là có ý gì đó?
Duyên Căn đột nhiên quỳ gập xuống, tay cầm vạt áo Hư Trúc, mếu máo nói:
– Sư huynh nếu như không tha, tui… tui… hai mắt tui sẽ không còn nữa. Hư Trúc nói:
– Ta thật không hiểu chuyện gì. Duyên Căn đáp:
– Chỉ mong sư huynh tha thứ cho ta, không móc mắt ta ra, kiếp sau tiểu tăng nguyện làm trâu làm ngựa, báo đáp ân đức của sư huynh.
Hư Trúc nói:
– Sư huynh nói thế là lẽ gì? Ta đòi móc mắt sư huynh hồi nào đâu? Duyên Căn mặt mày xám ngoét nói:
– Nếu như sư huynh nhất định không tha cho ta, tiểu tăng có mắt không tròng, thôi cũng đành tự mình làm lấy vậy.
Nói xong y giơ hai ngón tay, đâm vào mắt mình. Hư Trúc vội vàng bắt lấy cổ tay y nói:
– Ai bức bách sư huynh phải móc mắt ra? Duyên Căn trán tươm mồ hôi, run run nói:
– Ta… ta không dám nói, nếu nói ra, người ta… người ta giết tôi ngay. Hư Trúc hỏi:
– Phải phương trượng chăng? Duyên Căn đáp:
– Không phải.
Hư Trúc lại hỏi tiếp:
– Hay là thủ tọa Đạt Ma Đường? Thủ tọa La Hán Đường? Thủ tọa Giới Luật Viện? Tất cả Duyên Căn đều nói không phải, chỉ đáp:
– Sư huynh, tui… thiệt không dám nói, chỉ mong sư huynh tha tội cho. Họ nói rằng, nếu tui muốn còn giữ được đôi mắt, thì chỉ cần xin sư huynh chính miệng tha cho là được.
Nói xong lấm lét nhìn quanh, dáng điệu cực kỳ khiếp sợ. Hư Trúc nhìn theo mắt y, thấy trong cái chòi có bốn nhà sư ngồi đó, người nào cũng mặc tăng bào màu tro, đội mũ màu tro, quay mặt vào bên trong không nhìn thấy mặt mũi ra sao. Hư Trúc nghĩ thầm: “Không lẽ là bốn vị sư huynh này? Ắt hẳn họ được một nhân vật rất uy tín trong bản tự sai đến, trừng phạt Duyên Căn về tội tác oai tác quái, hành hạ tăng nhân phạm giới”. Y liền đáp:
– Ta không trách cứ gì sư huynh đâu, vốn đã tha thứ cho sư huynh rồi.
Duyên Căn mừng như chết đi sống lại, vội vàng quỳ xuống, rập đầu bình bình. Hư Trúc cũng vội vàng quỳ xuống hoàn lễ nói:
– Xin sư huynh đứng lên đi.
Duyên Căn đứng dậy, cung kính khép nép mời Hư Trúc vào phòng ăn, tự tay châm
trà dọn cơm, ân cần hầu hạ. Hư Trúc từ chối mãi không xong, xem ra nếu không để cho y phục thị, Duyên Căn ắt sẽ gặp họa lớn, đành phải để y làm gì thì làm.Duyên Căn hỏi nhỏ:
– Sư huynh có muốn uống tí rượu không? Có muốn ăn thịt chó không? Để tiểu tăng đi kiếm cho sư huynh xơi.
Hư Trúc kinh hoảng đáp:
– A Di Đà Phật, tội thay! Tội thay! Ai lại làm thế? Duyên Căn nháy mắt nói:
– Bao nhiêu tội nghiệt sẽ do tiểu tăng chịu hết. Cứ để mỗ sắp xếp kiếm được cho sư huynh hưởng dụng.
Hư Trúc xua tay:
– Không được! Không được! Nhất định là không thể được. Duyên Căn cười cầu tài nói:
– Nếu sư huynh hiềm là ở trong chùa ăn chơi không được thỏa thuê, thì mình xuống núi một chuyến, Giới Luật Viện có hỏi đến, tiểu tăng sẽ nói là sai sư huynh đi mua rau cỏ, che dấu mọi việc, không có chuyện gì đâu.
Hư Trúc nghe y càng nói càng đổ đốn, lắc đầu nói:
– Tiểu tăng thành tâm sám hối những chuyện sai quấy trước kia, tuân theo giới luật, không dám vi phạm nữa. Những lời đó sư huynh đừng bao giờ đề cập nữa.
Duyên Căn đáp:
– Dạ!
Y trong bụng đầy vẻ hoài nghi, dường như muốn nói: “Cái thứ sư hổ mang như ngươi lại còn làm bộ làm tịch, không biết còn tính chuyện gì nữa đây?”. Thế nhưng y không dám nhiều lời, hầu hạ đồ chay xong, lại mời Hư Trúc đến thiền phòng của mình nằm nghỉ, luôn mấy hôm liền ngày nào Duyên Căn cũng hết sức phục thị, cung kính không còn cách nào hơn được nữa.
Hôm nay Hư Trúc ăn cơm trưa xong, Duyên Căn bưng một bình trà xanh nói:
– Mời sư huynh dùng trà. Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng là người có tội, sư huynh khách khí như thế, làm sao tiểu tăng dám nhận?
Y đứng lên đưa hai tay ra nhận bình trà. Bỗng nghe tiếng chuông chùa đánh boong boong, liên tục không dứt, ấy là tín hiệu truyền cho toàn thể tăng chúng trong chùa tụ tập. Trừ ngày Phật Đản hay ngày đản sinh của Đạt Ma tổ sư ra, trong chùa xưa nay ít khi nào triệu tập toàn thể tăng chúng. Duyên Căn lấy làm lạ mới nói:
– Phương trượng đánh chuông tụ tập chúng tăng, chúng mình cũng phải lên Đại Hùng Bảo Điện đi thôi.
Hư Trúc đáp:
– Chính thế.
Y cùng với khoảng chục nhà sư ở vườn rau, lật đật chạy lên Đại Hùng Bảo Điện. Chỉ thấy trên điện đã có đến hơn hai trăm tăng nhân, ngoài ra còn vô số người khác đang đi tới. Chỉ trong chốc lát, hơn một nghìn sư sãi trong chùa đã đến điện, chia theo bối phận mà xếp hàng, tuy đông như thế nhưng im phăng phắc, không một tiếng động.
Hư Trúc đứng ở hàng chữ Hư, thấy các vị trưởng bối ai nấy mặt mày trịnh trọng, trong bụng phập phồng, nghĩ thầm: “Không lẽ vì mình phạm giới quá nặng nên phương trượng phải tập hợp tăng chúng, trừng trị mình một phen? Cứ xem tình
hình này, chắc là sẽ trục xuất mình ra khỏi môn phái, biết làm sao đây?”.
Y còn đang băn khoăn lo lắng, đã nghe ba tiếng chuông, chư tăng đều niệm Phật hiệu:
– Nam mô Thích Ca Như Lai Phật!
Huyền Từ phương trượng và sáu vị cao tăng chữ Huyền khác, cùng với sáu tăng nhân, từ trong hậu điện chậm rãi đi ra. Các nhà sư trong điện ai nấy khom lưng hành lễ, Huyền Từ và bảy nhà sư trước hết lễ Phật trong điện, sau đó chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Hư Trúc nghển cổ lên nhìn, nhận ra sáu cao tăng chữ Huyền là Huyền Độ, Huyền Tịch, Huyền Chỉ, Huyền Nhân, Huyền Cấu, Huyền Thạch, ngoài ra còn có các vị cao tăng chữ Huyền ngồi ở dưới. Sáu nhà sư kia tuổi không còn trẻ, phục sức không giống người trong bản tự.
Người ngồi thủ vị ước chừng bảy mươi, thân hình bé nhỏ nhưng hai mắt lấp lánh có thần, cung cách thật là oai nghiêm. Huyền Từ quay sang cao giọng nói với toàn thể các nhà sư chùa Thiếu Lâm:
– Vị này đây là phương trượng của chùa Thanh Lương Ngũ Đài Sơn, tất cả cùng tham kiến.
Mọi người nghe nói thế ai nấy giật mình, khom lưng hành lễ. Chúng tăng đều biết Thần Sơn thượng nhân uy danh cực thịnh trong võ lâm, cùng với Huyền Từ đại sư được gọi là Hàng Long, Phục Hổ hai vị La Hán. Nghe nói võ công Thần Sơn thượng nhân cũng ngang với Huyền Từ phương trượng, có điều chùa Thanh Lương tương đối nhỏ hơn, trong võ lâm địa vị kém xa chùa Thiếu Lâm, nên tiếng tăm ông ta không bằng Huyền Từ. Mọi người nghĩ thầm: “Nghe nói Thần Sơn thượng nhân tính tình hết sức cao ngạo, từng nói rằng đã đi tu mà còn dây dưa vào chuyện tục vụ của võ lâm thì không khỏi rơi vào hàng hạ thừa, trước nay không hề lai vãng giao thiệp với bản tự, hôm nay đích thân đến đây, không biết có chuyện gì”.
Huyền Từ lại đưa ta ra phía năm nhà sư còn lại, giới thiệu từng người nói:
– Vị này là Quán Tâm đại sư của chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai Phong, vị này là Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ ở Giang Nam, vị này là Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm ở Lư Sơn, vị này là Dung Trí đại sư chùa Tĩnh Cảnh ở Trường An, vị này là Thần Âm đại sư chùa Thanh Lương ở Ngũ Đài Sơn, là sư đệ của Thần Sơn thượng nhân.
Quán Tâm đại sư bốn người đều xuất phát từ các danh sơn, cổ sát, có điều những chùa Đại Tướng Quốc, Phổ Độ trước nay nặng về Phật pháp mà coi nhẹ võ công, những nhà sư này tuy trong võ lâm danh tiếng như cồn nhưng trong các chùa chiền thì tên tuổi không mấy nổi. Chúng tăng chùa Thiếu Lâm khom lưng hành lễ, bọn Quán Tâm đại sư cũng đứng lên đáp lại.
Huyền Từ nói:
– Sáu vị đại sư đều là những người hữu đạo đại đức nơi cửa Phật, hôm nay cùng giáng lâm, thực là rạng rỡ cho bản tự nên ta chiêu tập tất cả mọi người đến chào để nghe sáu vị đại sư đây khai đàn thuyết pháp, hoằng dương Phật nghĩa ngõ hầu tăng chúng trong chùa ai ai cũng được ích lợi.
Thần Sơn thượng nhân đáp:
– Không dám.
Ông ta thân hình bé nhỏ nhưng tiếng nói cực lớn, chúng tăng ai nấy kinh hãi, thế nhưng rõ ràng không phải ông ta cố ý gầm thét, cũng không sử vận nội công cố ý dọa người mà chỉ là bình thường trời sinh ra giọng oang oang như thế. Ông ta lại tiếp:
– Thiếu Lâm trang nghiêm bảo sát, tiểu tăng vốn ngưỡng mộ đã lâu, sáu mươi năm
trước đã từng đến đây bái sơn cầu giới, nhưng bị cự tuyệt từ ngoài cổng. Sáu mươi năm sau quay trở lại, chùa vẫn như xưa, người không còn cũ, thật quả bùi ngùi.
Mọi người nghe nói thế ai nấy đều chấn động, giọng lưỡi ông ta xem chừng có ý thù nghịch, không lẽ đến để rửa hờn sinh sự gì chăng? Huyền Từ nói:
– Thì ra sư huynh năm xưa đã từng xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Tự viện trên đời đâu đâu cũng cùng một nhà, hôm nay sư huynh chủ trì Thanh Lương tự, phàm đệ tử cửa Phật không ai là không sùng ngưỡng. Năm xưa chùa Thiếu Lâm bỏ qua không tiếp nạp, đắc tội với sư huynh, tiểu tăng cung cẩn tạ lỗi. Thế nhưng nếu như nhân vì chuyện đó mà sư huynh khai mở riêng một cõi trời, hoằng pháp phổ độ, lập đại công đức cho Phật môn thì chuyện năm xưa, há chẳng phải cũng là nhân duyên cho chuyện ngày nay hay sao?
Nói xong hai tay chắp lại, vái một cái thật sâu. Thần Sơn thượng nhân chắp tay đáp lễ nói:
– Tiểu tăng năm xưa đến cầu giới ở quý bảo sát, cũng vì ngưỡng mộ cái tiếng chùa Thiếu Lâm là nơi võ học uyên nguyên, đứng đầu võ lâm, nhưng quan trọng hơn cả là giới luật tinh nghiêm, xử sự công bình, ngay thẳng.
Nói đến đây đột nhiên ông ta đảo mắt, tinh quang tỏa ra bốn bề, ngẩng lên nhìn vào kim tượng Phật tổ, lạnh lùng nói:
– Thế nhưng có biết đâu trên đời lắm khi danh bất phó kỳ thực, nếu biết sớm, tiểu tăng năm xưa nào có đến chùa Thiếu Lâm làm gì?
Hơn nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm ai nấy biến sắc, có điều chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm minh, tuy phẫn nộ nhưng không ai dám nói câu nào. Huyền Từ phương trượng hỏi lại:
– Không hiểu sao sư huynh lại nói như thế? Người trên kẻ dưới trong tệ tự nếu có ai làm điều gì không phải xin sư huynh cứ nói rõ ra. Có tội thì phạt mà có lỗi thì sửa, sư huynh một lời mạt sát thanh dự mấy trăm năm qua của chùa Thiếu Lâm, há chẳng thái quá hay sao?
Thần Sơn thượng nhân nói:
– Xin hỏi phương trượng sư huynh, phần đông tăng lữ đệ tử Thiếu Lâm trải khắp thiên hạ, bất luận võ công mạnh hay yếu, tuân thủ đạo nghĩa võ lâm hay không cũng không thể ỷ mạnh hiếp yếu?
Huyền Từ đáp:
– Tự nhiên là vậy, đệ tử của quý tự ắt cũng như vậy. Thần Sơn lại nhìn tượng Phật Như Lai nói:
– Có đức Phật ở trên, vọng ngữ ấy là trọng giới cửa Phật. Ông ta quay sang nhìn Huyền Từ:
– Trên giang hồ, không chỗ nào là không thấy đệ tử Thiếu Lâm, tệ phái Thanh Lương tự cửa chùa nhỏ hẹp, chúng tăng lữ việc làm ngày ngày trọng ở tu tập Phật pháp, lễ Phật tham thiền, võ công truyền lại còn kém xa Thiếu Lâm tự. Bất quá từ Thanh Lương tự đi ra toàn là các đệ tử tục gia, nhân số tuy ít nhưng lại giữ nghiêm giới luật tệ phái, không lạm thương người vô tội, sát giới, đạo giới. Đệ tử Thiếu Lâm rất đông, khó tránh khỏi tốt xấu lẫn lộn, giới luật buông thả, cũng không thể tránh được, đáng tiếc, đáng tiếc! Đáng tiếc, đáng tiếc!
Nói xong liên tục lắc đầu. Đàn tăng Thiếu Lâm nghe xong đều biến sắc. Hư Trúc nghe Thần Sơn chỉ trích đệ tử Thiếu Lâm “tốt xấu lẫn lộn, giới luật buông thả”, cho rằng đó là chính mình vi phạm huân giới, dâm giới, sát giới từ từ nói ra, sợ tới mức tim đập thình thình, nghĩ rằng nếu phương trượng thẳng thắn truy
cứu, chính mình phải thẳng thắn kể lại việc đã vi phạm, tuyệt đối không thể che dấu, lại phạm tiếp vào “Vọng ngữ giới”. Huyền Từ nói:
– Xin hỏi sư huynh, tại sao sư huynh lại nói vậy? Xin sư huynh chỉ rõ chứng cứ, tệ phái đương nhiên sẽ hết sức nghiêm túc truy cứu.
Thần Sơn hít một hơi dài, nói:
– Nếu chỉ là chuyện ngày một ngày hai, sư huynh bận đại sự, sơ suất kiểm tra, đó cũng có thể tha thứ. Nhưng mà chuyện này tồn tại đã lâu, những người bị hại xương cốt đã lạnh, khắp thiên hạ huyên náo, quần tình hùng dũng, quý phái lại làm thư không thấy, có tai như điếc, hay là ỷ là đệ nhất môn phái trong chốn võ lâm, người bên ngoài không thể làm gì được, thế này chẳng phải là “cường hung bá đạo” sao? Chẳng lẽ trên giang hồ sau này, chỉ cậy vào lực, chỉ cần người đông thế mạnh là muốn làm gì thì làm sao?
Lúc nói thần sắc nghiêm khắc, giọng nói lại có phần áp bức. Huyền Từ vẻ mặt lạnh nhạt, không động thanh sắc, chậm rãi nói:
– Sư huynh chỉ bảo, chắc là một sự việc, xin sư huynh nói rõ. Thần Sơn nói:
– Trong tệ phái có một vị Từ sư huynh Từ Xung Tiêu, là sư huynh của tiểu tăng. Y thân phận rất cao, là người thành thực trung hậu, nhiều năm trước đầu nhập Cái Bang, cần cù chăm chỉ, tích công thăng tới Cửu đại trưởng lão, ở trong Cái Bang xưa nay đều được mọi người kính ngưỡng, nhiều bang chủ đảm nhiệm Cái Bang, đều đối y rất coi trọng. Tháng tư năm ngoái, Cái Bang tụ hội ở Vô Tích Giang Nam, nói đến việc thân thế của Kiều Phong bang chủ, Từ sư huynh cũng không sợ cường ngự, dũng cảm đứng ra, mang ra một phong thư cũ của tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Uông Kiếm Thông, chứng minh Kiều Phong là Hồ Lỗ Khất Đan. Cái Bang quân pháp không chừa ai cả, phế chức bang chủ của Kiều Phong, việc này chấn động võ lâm đương thời, người trong võ lâm có thể nói là không ai không biết.
Từ sư huynh là chuyện này, biết rõ là cực kì hung hiểm, Kiều Phong võ công kinh người, xuất thủ tàn nhẫn hung ác, lại thêm là đệ tử Thiếu Lâm, sư môn thế lực khổng lồ, người học võ đều sợ hãi. Từ sư ca vì nước vì dân, đứng ra vạch trần đại âm mưu, thật là chẳng quan tâm đến tính mạng.
Quả nhiên tháng bảy năm đó, Từ sư huynh ở nhà bị người ta hại chết. Trên người y xương sườn gãy nát, rõ ràng là do chưởng lực cương mãnh của phái Thiếu lâm đánh gục. Các vị trưởng lão Cái Bang tra xét rõ ràng, viết thư đến Thanh Lương tự, muốn tiểu tăng chủ trì công đạo. Tiểu tăng nghĩ phái Thiếu Lâm là võ học chính tông trong thiên hạ, giới luật tinh nghiêm, nói ra không khỏi đệ tử chê cười, tự mình sắp xếp lo liệu, chỉnh đốn môn hộ, không cần người bên ngoài nhiều chuyện, Nhưng Thanh Lương tự chờ hoài mỏi mắt, thủy chun thấy Thiếu Lâm tự không hề có ý gì, vởi vậy mới bất đắc dĩ mời các vị đại sư Đại Tướng Quốc tự, Phổ Độ Sơn, Đông Lâm tự, Tịnh Cảnh tự đến Thiếu Lâm, muốn hỏi đại sư rốt cuộc là vì nguyên nhân gì?
Nói xong hai mắt quắc lên nhìn thẳng vào Huyền Từ phương trượng, nhất định không chớp mắt. Huyền Từ quay sang thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch đại sư nói:
– Huyền Tịch sư đệ, xin sư đệ nói cho sáu vị cao tăng nguyên do đầu đuôi. Huyền Tịch đáp:
– Vâng!
Nói xong đứng lên, ông ta chấp chưởng giới luật, xưa nay thiết diện vô tư, tăng chúng trong chùa ai gặp ông nem nép, Hư Trúc đã biết không phải là mình nhưng
cũng không dám nhìn thẳng vào ông. Chỉ nghe Huyền Tịch đại sư cao giọng nói:
– Từ trưởng lão Cái Bang tuổi cao đức trọng, trong chốn võ lâm mọi người kinh ngưỡng, lão nhân gia ở nhà tại Vệ Huy bị người ta sát hại, chúng ta nghe thấy đều cảm thấy chấn động. Phương trượng sư huynh cử tiểu tăng và Huyền Độ sư huynh, Huyền Nhân sư huynh, Huyền Sinh sư đệ bốn người đi suốt đêm tới quý phủ của Từ trưởng lão ở Vệ Huy, phụ trách điều tra rõ chân tướng, nếu biết chính xác Kiều Phong đã hạ thủ, liền cùng với Huyền Cấu sư huynh, Huyền Thạch sư đệ phụng mệnh phương trượng truy xét đại nghịch án Kiều Phong hại chết Huyền Khổ sư huynh, lệnh cho chúng ta sáu người hợp lực, hoặc bắt hoặc giết, tru trừ Kiều Phong, làm sạch nghiêm quy.
Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí bốn vị cao tăng nghe đến đó, liên tục gật đầu, nói:
– Đúng là phải như thế! Thần Âm đại sư hỏi:
– Sau này thế nào? Huyền Tịch nói:
– Lúc bốn người chúng ta lúc đến Vệ Huy, Huyền Cấu, Huyền Thạch hai vị còn chưa tới, chúng ta ở trong khách sạn chờ một ngày, hôm sau ngày bảy tháng bảy hai vị mới đến. CHúng ta sáu người gặp nhau, Huyền Cấu sư huynh nói: “Từ trưởng lão quyết không phải do Kiều Phong giết”.
Bọn người Thần Sơn, Thần Âm đều cả kinh, hỏi lại:
– Tại sao biết được? Huyền Cấu đứng dậy nói:
– Ngã Phật từ bi! Ngày ấy Kiều Phong ở Thiếu Lâm tự đại náo một hồi, chúng ta không thể bắt được, để y đào tẩu thoát thân, ta cùng Huyền Thạch sư đệ phụng mệnh phương trượng sư huynh âm thầm theo dõi Kiều Phong. Ngày ấy y ở Tụ Hiền Trang hội đấu quần hùng, chỉ vì nghiêm mệnh của phương trượng sư huynh, hai người chúng ta đang phải điều tra rõ hành vi của Kiều Phong đến cùng nên không thể cùng y xuất thủ, bởi vậy hai người chúng ta không tham dự trận chiến ở Tụ Hiền Trang. Nói ra thật xấu hổ, thấy thân thủ Kiều Phong như vậy, cho dù hai chúng ta cùng Huyền Nạn sư huynh cũng bất quá chỉ đánh ngang tay y, không thể đánh bại hoặc bắt y được. Sau Kiều Phong lại được một đại hán áo đen cứu tới thâm cốc dưỡng thương, hai ta không dám đến gần, chỉ đứng từ xa nhìn tới.
Kiều Phong dưỡng thương hơn hai mươi ngày, liền đi lên phía bắc. Khi đó hai người ta không mặc tăng bào, mặc quần áo của thường nhân, không động thanh sắc, đi theo sau y. Kiều Phong này mười phần khôn khéo, chúng ta cũng không dám đi quá gần, cũng may y toàn đi đường lớn, thật không khó theo dõi, cho dù cách hơn nửa dặm đường, lúc sau vẫn có thể bám theo y. Y đi lên phía bắc ra Nhạn Môn Quan, y gặp một tiểu cô nương, hai người trọ ở khách điếm. Hôm sau trong phòng bước ra lại biến thành hai gã đại hán rất khó coi, nếu không phải chúng ta chính mắt thấy hai người từ trong phòng đi ra, thật đúng là không thể biết hai người này là Kiều Phong và tiểu cô nương kia…
Thần Sơn hỏi:
– Hai người y suốt dọc đường đều trú cùng một phòng? Huyền Cấu đáp:
– Đúng vậy.
Thần Sơn lại hỏi:
– Có chung giường không?
Huyền Cấu nói:
– Cái đó không biết. Người xuất gia không nên nhìn, không dám đi rình mò chuyện riêng tư của người khác.
Thần Sơn lạnh lùng nói:
– Như vậy nếu nửa đêm hai người lén lút đi mất, hai người cũng không biết? Huyền Cấu nói:
– Tiểu tăng và Huyền Thạch sư đệ trú ở phòng ngay cạnh phòng họ, chia ra canh gác buổi đêm, mỗi người chỉ ngủ nửa đêm, bọn họ nếu như muốn trốn, chúng ta đang tuân mệnh pháp chỉ của phương trượng sư huynh nên không dám coi thường. Thần Sơn nói:
– Xin hỏi Huyền Thạch đại sư nói thế nào? Huyền Thạch tiến lên nói:
– Tiểu tăng Huyền Thạch, phụng phương trượng pháp chỉ, cùng Huyền Cấu sư huynh theo dõi động tĩnh của Kiều Phong. Kiều Phong cùng A Châu tiểu cô nương kia sau khi gặp nhau, dọc đường đi không cũng có sự cố lớn. Hai người y đi xuống phía nam, ta cùng Huyền Cấu sư huynh bám theo xa xa, cố gắng không để y phát giác để không uổng công. Hôm đó mùng bảy tháng ba, bốn người chúng ta đều ở trong khách sạn ở Vị Châu nghỉ trọ, nghe ở phòng bên A Châu nói: “Hôm nay thiếp làm sủi cảo cho chàng nhắm rượu nhé, gói ngon hơn những món trong khách sạn”. Kiều Phong vui mừng nói: “Tốt lắm, tốt lắm!”. A Châu liền ra đường mua thịt, củ cải trắng, da gói sủi cảo về. Kiều phong không ngừng khen ngợi tay nghề A Châu, hôm đó uống rượu nhiêu hơn ngày thường. Chỉ nghe A Châu ở bên mời rượu: “Đến Hà Nam, rượu không phải tốt, ở Hà Đông rượu Phần đúng là rượu tốt”.
Huyền Cấu nói:
– Chuyện trên đời thường là ngẫu nhiên, càng lúc người ta không đề phòng, chuyện lại ập đến. Ta cùng Huyền Thạch sư đệ không dám sơ suất, vẫn chỉ ngủ nửa đêm, càng gia tăng phòng bị. Một đêm nọ nghe thấy Kiều Phong ngáy như sấm, ngủ thẳng đến lúc mặt trời lên cao. A Châu sau khi ngủ dậy thì chăm sóc y rửa mặt, uống sữa đậu nành, ăn bánh. Kiều Phong ngày đó tâm trạng vui sướng, nói không ít chuyện cười ở Hà Nam pha chút giọng bản địa. A Châu không hiểu, Kiều Phong liền giải thích cho nàng. Huyền Thạch sư đệ nghe được một truyện suýt nữa cười ra thành tiếng, ta liền lấy tay bịt miệng y mới không có chuyện gì. Chuyện đêm hôm đó ta nhớ rất rõ, ngày đó là mùng ba tháng bảy. Kiều Phong mùng bốn tháng bảy rời Vị Châu, chúng ta xa xa theo dõi, chưa từng rời một lát, đến mùng bảy tháng bảy mới đến Vệ Huy.
Thần Sơn lạnh lùng nói:
– Ông nhớ rõ ngày nhưu vậy chỉ vì Từ trưởng lão tối ngày mùng ba tháng bảy bị người ta sát hại?
Huyền Cấu nói:
– Đúng vậy! Ngày đó trong khách sạn ở Vệ Huy, Huyền Tịch sư huynh nói thời gian Từ trưởng lão bị hại. Ta liền nói: “Nếu là mùng ba tháng bảy thì không phải Kiều Phong giết, nếu là Kiều Phong giết quyết không phải mùng ba tháng bảy”.
Huyền tịch sư huynh đáp: “Vợ con Từ trưởng lão buổi tối mùng ba tháng bảy còn hầu hạ lão nhân gia, đến sáng sớm ngày mùng bốn đã thấy Từ trưởng lão xương sườn gãy nát, chết ở trên giường”.
Thần Sơn hỏi:
– Không nhầm ngày sao? Huyền Tịch nói:
– Chuyện này rất quan trọng, chúng ta đã đến nhà Từ trưởng lão hỏi rõ. Huyền Thạch nói tiếp:
– Mùng bảy tháng bảy tiết Thất Xảo, Cái Bang ở Vệ Huy đến viếng, truy điệu Từ trưởng lão, chúng ta hai người cũng đến, mong có thể nghe ngóng được chút manh mối. Chúng ta khấu đầu, thấy có một cái chày lớn bằng đá, phía trên có máu tươi. Chúng ta liền hỏi đồng đạo Cái Bang, nguyên cái chày đá này là hung khí được tìm thấy trong nhà Từ trưởng lão, Từ trưởng lão xương sườn gãy nát chính là dùng cái chày đá này. Ta cùng Huyền Cấu sư huynh lùi ra phía sau, đều nghĩ: “Kiều Phong nếu muốn xuất thủ đả thương Từ trưởng lão, một chưởng Hàng Long Nhị Thập Bát Chưởng là được, không cần dùng đến cái gì mà chày đá”.
Hai người chúng ta trở ra, lại tiếp tục theo dõi Kiều Phong, xa xa trông thấy Kiều Phong đi tới một con thuyền đang đỗ ở bờ sông. Chúng ta đến chỗ chiếc thuyền là lúc thuyền đang chìm xuống, nước đã tới nửa thuyền, lúc này đã lên đến khoang thuyền, chỉ thấy Đàm công, Đàm bà cùng Triệu Tiền Tôn ba người đều chết bên trong thuyền. Ba người đó quá nửa là do Kiều Phong giết, thật là tội ác tày trời. Chúng ta liền chạy về khách sạn báo cho đám Huyền Tịch bốn vị sư huynh. Huyền Tịch sư huynh nói: “Nói thế nào cũng không thể để Kiều Phong tiếp tục lạm sát người lương thiện, sáu người sư huynh đệ chúng ta nhất định phải ngăn cản hành động hung ác của y”. Chúng ta phải đến Đơn gia trang ở Thái An, Sơn Đông, đánh cho hắn một trận. Chúng ta cưỡi khoái mã, so với Kiều Phong sớm một lát. Nhưng lúc chúng ta đến Đơn gia trang, trong Đơn gia trang đang bị cháy, chúng ta xông vào bên trong, nhìn thấy Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính và hai đứa con đều đã chết nằm dưới đất, toàn trang nam nữ vài chục người hoặc bị chém đầu, hoặc lưng bị trúng đao không thể tránh được. Chúng ta xem xác chết của Đơn Chính, thấy Đơn Chính cũng bị xương sườn gãy nát, tâm phế vỡ vụn, đúng là trúng chưởng lực cương mãnh mà nên.
Thần Sơn lạnh lùng nói:
– Là Đại Kim Cương Quyền ư? Huyền Từ phương trượng nói:
– Không phải! Trong phái Thiếu Lâm chỉ có một mình lão nạp biết Đại Kim Cương Quyền. Đơn Phán Quan kia không phải là do lão nạp đả thương.
Thần Sơn hừ một tiếng nói:
– Không phải phương trượng đả thương? Huyền Từ lắc đầu nói:
– Không phải! Đại Kim Cương Quyền cũng không đánh cho người ta tâm phế vỡ vụn. Huyền Cấu nói:
– Chúng ta đem xác Đơn Phán Quan cất kĩ, cùng nhau cứu hỏa, không lâu láng giềng vang lên tiếng la, mọi người cùng đến cứu hỏa. Lúc này chúng ta rời khỏi, ở xa xa ngoài trang trông thấy Kiều Phong cùng A Châu cưỡi ngựa đến. Chúng ta chính mắt thấy, giết Đơn Chính là một người khác, trước khi Kiều Phong đến Đơn gia trang hai canh giờ, cha con họ Đơn cùng mấy chục người nhà đều đã bị người ta giết. Về phần đi núi Thiên Thai, đến chùa Chỉ Quán bảo hộ Trí Quang đại sư, phương trượng sư huynh đã phái người khác. Chúng ta thấy Kiều Phong và A Châu đi xuống phía nam liền không theo dõi nữa, tự hành về chùa.
Huyền Tịch, Huyền Cấu, Huyền Thạch chúng tăng ở trên cốn võ lâm mấy chục năm qua uy danh lừng lẫy, chính trực vô tư, mọi người đều biết, bọn họ đã nói như vậy, bọn Thần Sơn nghe xong đều không hoài nghi gì cả.
Thần Sơn thượng nhân hỏi:
– Trí Quang đại sư chùa Chỉ Quán chết vì Ma Ha Chỉ phái Thiếu Lâm, không biết phương trượng sư huynh có gì giải thích?
Huyền Từ chắp tay trước ngực, chậm rãi nói:
– Ngã Phật từ bi! Trí Quang đại sư là uống thuốc độc viên tịch. Chất độc y uống là Tì Sương tầm thường, đệ tử y là Phác Giả hòa thượng đến dược điếm ở huyện Thiên Thai, chia làm mười ngày chậm rãi mang đến. Y lấy thuốc Trí Quang dặn, nói dược điếm là sư phụ muốn hợp dược. Trí Quang đại sư ở Chiết Đông danh tiếng gần xa, mọi người kính phục, Phác Giả hòa thượng đến dược điếm lấy thuốc, dược điếm cũng không dám chối từ, cũng không lấy tiền.
Chỉ thấy Huyền Độ đại sư đứng dậy nói:
– Phương trượng sư huynh từng phái tiểu tăng đi núi Thiên Thai tra cứu. Trí Quang đại sư thật là dùng Tì Sương tự sát. Tiểu tăng hỏi Phác Giả hòa thượng, hắn khóc sướt mướt, nói không biết sư phụ sai hắn lấy thuốc là muốn tự sát, nếu biết như thế, hắn đã dùng Cam Thảo Phấn mạo xưng Tì Sương. Hắn nói đúng là có một vị Kiều đại gia và Nguyễn cô nương từng đến gặp sư phụ. Sư phụ đối với bọn họ rất khách khí, nói chuyện hồi lâu, sau khi bọn họ rời khỏi mới phát giác là sư phụ đã viên tịch. Đến buổi tối, khắp trên người mắt mũi mới chảy máu. Không ngờ tới sáng sớm hôm sau, đã thấy con mắt sư phụ lòi ra, xương sau gáy vỡ vụn, không biết kẻ ác nhân nào nửa đêm lén đến hại pháp thể sư phụ. Hắn nói không bảo vệ tốt pháp thể sư phụ, thực xin lỗi sư phụ, tát mạnh vào mặt mình. Ta nói với hắn, người hại pháp thể sư phụ hắn võ công rất cao, lấy chưởng lực cương mãnh đánh vào hai bên huyệt Thái Dương, cho dù hắn có liều mạng thì cũng không ngăn cản được kẻ đó. Không ngờ Phác Giả hòa thượng hối hận, lại thắt cổ mà chết.
Ông nói xong thở dài một tiếng. Thần Sơn nói:
– Kiều Phong tới gặp Trí Quang đại sư tất nhiên là đế ép hỏi tính danh “đại ca thủ lĩnh” ở Nhạn Môn Quan năm xưa. Trí Quang đại sư không chịu nói, y dùng Ma Ha Chỉ đả thương đại sư, con mắt lòi ra, xương sau gáy vỡ vụn, không phải là trúng Ma Ha Chỉ sao?
Huyền Từ nói:
– Không phải Kiều Phong. Thần Sơn nói:
– Xin phương trượng sư huynh cho biết nguyên do. Huyền Từ chậm rãi nói:
– Thần Sơn sư huynh muốn hỏi, vì sao mà biết được Trí Quang đại sư không phải trúng Ma Ha Chỉ của Kiều Phong. Chỉ vì Kiều Phong học võ công ở phái Thiếu Lâm, y đã học Hàng Ma Chưởng, không thể học được Ma Ha Chỉ, hai môn võ công này tương phản, một người không thể học được cả hai.
Thần Sơn chậm rãi lắc đầu nói;
– Võ công Thiếu Lâm, thực sự là có phân biệt như thế? Huyền Từ nói:
– Sự phân biệt này vốn được ghi chép lại. Hàng Ma Chưởng và Ma Ha Chỉ đều ở trong bảy mươi hai tuyệt kĩ, một loại nhẹ nhàng, một loại cương mãnh, rất khó để luyện cùng nhau. Huyền Sinh sư đệ, mời ngươi đến Tàng Kinh Các, đem pháp công hai môn đó đến đây, xim Thần Sơn thượng nhân cùng chư vị đại sư chỉ điểm. Năm xưa Thần Sơn thượng nhân đến chùa Thiếu Lâm cầu sư thì chỉ mới mười bảy tuổi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm Linh Môn thiền sư tiếp kiến xong, thấy ông ta tính tình phách lối, ra vẻ ta đây, cái tôi lớn quá, khí lượng hẹp hòi cố
chấp không thể là người truyền pháp được, còn như nếu chỉ là một tăng nhân tầm thường ắt sẽ không chịu dưới ai, ngày sau thể nào cũng gây ra hậu hoạn nên đã khéo léo từ chối. Thần Sơn mới bỏ đi đầu nhập chùa Thanh Lương, y tài năng kiệt xuất, chỉ mới ba mươi tuổi đã lên làm phương trượng. Thần Sơn thượng nhân thiên tư dĩnh ngộ, kiến thức hơn người, quả là một kỳ tài trong võ lâm, có điều võ học uyên nguyên chùa Thanh Lương kém xa chùa Thiếu Lâm, quyền kinh kiếm phổ cũng như nội công các loại cất giữ trong chùa có hạn, phần lớn thô sơ giản lậu, không phải là đệ nhất công phu. Bốn mươi năm qua, nội công ông ta càng lúc càng thâm, đã sớm vượt qua mức độ võ học ghi trong điển tịch các đời trước của chùa Thanh Lương truyền xuống, thế nhưng quyền kiếm công phu xem ra dường như chưa đủ, mỗi khi nghĩ đến bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trong lòng vừa ngưỡng mộ vừa căm tức.
Từ trưởng lão vừa mới chết, liền muốn mượn cớ đến Thiếu Lâm tự gây hấn, vì thế nên mời người giúp đỡ. Nhưng cao tăng các nơi nghe nói là đến Thiếu Lâm tự khởi binh vấn tội, nhiều người thoái thác không đi, Thần Sơn tốn rất nhiều công mới mời được các cao tăng Tướng Quốc tự, Đông Lâm tự, Tịnh Cảnh tự.
Lúc này nghe thấy Huyền Từ phương trượng sai người mang hai đại tuyệt kĩ Hàng Ma Chưởng và Ma Ha Chỉ đến, cảm thấy rất vui sướng, thầm nghĩ hôm nay có duyên thấy được diện mạo hai tuyệt kĩ Thiếu Lâm. Huyền Sinh nói:
– Vâng!
Ông xoay người đi ra khỏi điện, chỉ một lúc sau liền cầm trên tay, giao cho Huyền Từ phương trượng. Đại Hùng Bảo Điện cách Tàng Kinh Các cũng đến ba dặm, Huyền Sinh chỉ một lúc đã lấy được kinh thư trên tay, khinh công quả rất cao, thân thủ cực kì nhanh nhẹn. Người ngoài không biết nội tình, không nghĩ chuyện khác thường, tăng chúng Thiếu Lâm cũng âm thầm tán tụng.
Hai bộ kinh thư đó giấy vàng đã hóa thành màu đen, hẳn là niên đại rất lâu đời. Huyền Từ đem kinh thư đặt lên trên bàn nói:
– Các vị sư huynh xem, phần đầu hai bộ kinh thư đều nói rõ những công việc phải trải qua cùng với ý chính của pháp công.
Nói xong đem Hàng Ma Chưởng Pháp cùng Ma Ha Chỉ Bí Yếu bản sao cho Thần Sơn thượng nhân và Quán Tâm đại sư. Hai người kính cẩn lật xem, thấy lời tựa đều kể rõ nguồn gốc của hai môn thần công. Hàng Ma Chưởng do phương trượng thứ tám của Thiếu Lâm tự là Nguyên Nguyên đại sư sáng tạo ra, xuất chưởng nhẹ nhàng, như có như không. Ma Ha Chỉ là do Thất Chỉ đầu đà ở trong chùa bốn mươi năm sáng tạo ra, nguyên nhàn là từ đầu đà bên ngoài, công pháp với phái Thiếu Lâm khác nhau rất lớn, chiêu số thuần cương mãnh, trong thư ân cần khuyên bảo, nếu đã luyện công phu Phật môn Thiếu Lâm thì quyết không nên luyện, nếu không nội tức rất dễ đi sai, nếu như chăm sóc không tốt, không tránh khỏi nôn ra máu, trọng thương khó chữa.
Huyền Từ phương trượng đợi nhị tăng xem một hồi, đem bản sao đưa cho Đạo Thanh, Giác Hiền hai vị đại sư, đợi lục tăng đều xem xong lời tựa, liền nói:
– Các vị đại sư, tệ tự có bảy mươi hai tuyệt kĩ, nhưng mỗi một tuyệt kĩ cũng rất khó luyện, tuy là thiên tư hơn người, cả đời cũng không luyện thành một môn, huống chi lại luyện các môn tuyệt kĩ đến mức tinh thâm, tóm lại bất quá võ học cũng chỉ trên người một bậc mà thôi, nếu có thể lấy Giáp môn công phu để thắng người, thì cũng không cần lấy Ất môn công phu, về phần Bính môn, Đinh môn thì càng không cần luyện. Tổ sư tệ tự giảng dạy phải lấy Phật pháp làm đầu, võ học làm cuối, tăng chúng nếu cần cù nghiên cứu võ công, lĩnh hội phật pháp tất
có chỗ trắc trở. Cho dù là tục gia đệ tử, tệ tự cũng luôn luôn dạy y chỉ tu luyện một môn tuyệt kĩ, để tránh y theo đuổi nhiều môn, tất là có hại. Kiều Phong từng được Huyền Khổ sư đệ truyền Hàng Ma Chưởng, Huyền Khổ sư đệ sẽ không truyền Ma Ha Chỉ. Kiều Phong cũng không học qua võ công với sư tăng Thiếu Lâm khác, cái này lão nạp biết rất rõ, quyết không sai. Bản tự bối sư huynh đệ hàng chữ Huyền đạt đến mức võ công khá cao, đều là từ La Hán Quyền học lên trên, học được Hàng Ma Chưởng hoặc Bát Nhã Chưởng thì dừng. Lão nạp năm bốn mươi tuổi thấy cái gì thích là thèm, học Đại Kim Cương Quyền, chiêu số nội lực cương mãnh, từ đó luyện Bát Nhã Chưởng liền sinh trắc trở, đến nay rất hối hận.
Đột nhiên từ bên ngoài một giọng thanh lãng truyền vào:
– Chư vị cao tăng tập trung ở chùa Thiếu Lâm giảng luận võ công, quả là một thịnh sự. Tiểu tăng liệu có cái duyên được làm người khách không mời mà đến, đứng bên cung kính lắng nghe cao kiến hai bên hay chăng?
Từng câu từng chữ thật rõ ràng truyền vào tai mọi người. Thanh âm đi từ ngoài núi, đến tai người nghe vừa minh bạch, vừa trung chính bình hòa, lại không làm tai bị ù đi, nội công người đó vừa cao vừa thuần, không nói cũng biết, có điều sao y còn ở ngoài xa mà lại nắm vững tình cảnh trong điện như vậy?
Huyền Từ hơi ngạc nhiên, liền vận nội lực nói vọng ra:
– Nếu là đồng đạo Phật môn, xin mời quang lâm. Ông lại tiếp:
– Huyền Minh, Huyền Thạch hai vị sư đệ, xin thay mặt ta ra đón khách quý. Huyền Minh, Huyền Thạch khom lưng đáp:
– Vâng!
Hai người vừa quay mình định ra ngoài điện bổng nghe từ cửa có tiếng vọng vào:
– Nghinh tiếp thì không dám nhận, hôm nay được gặp các vị cao hiền, quả vui mừng khôn xiết.
Y nói một tiếng thanh âm lại gần thêm mấy trượng, vừa hết câu trong điện đã thêm một tăng nhân trung niên chắp hai tay, bảo tướng trang nghiêm, miệng mỉm cười nói:
– Sơn tăng nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí, tham kiến phương trượng chùa Thiếu Lâm. Quần tăng thấy thân thủ y như vậy, hết sức kinh dị, đến khi nghe y tự báo tính danh, rất đông người “Ồ” lên một tiếng, buột miệng:
– Thì ra quốc sư nước Thổ Phồn Đại Luân Minh Vương đã đến! Huyền Từ đứng lên, tiến lên hai bước, chắp tay khom lưng nói:
– Quốc sư từ xa đến Đông Thổ, quả là có duyên.
Nói xong liền giới thiệu Thần Sơn, Quán Tâm, Đạo Thanh tất cả mọi người. Các nhà sư chào hỏi xong, Huyền Từ sai sắp xếp một chỗ ngay giữa điện, mời Cưu Ma Trí ngồi ở đó. Cưu Ma Trí khiêm tốn mấy câu rồi mới ngồi xuống, tính như thế ông ta ngồi trên cả Thần Sơn. Người khác thì chẳng nói làm gì, Thần Sơn trong lòng căm tức ngầm: “Tên phiên tăng này làm bộ làm tịch, chắc gì đã có bản lãnh chân thực, mình phải thử y một phen mới được”.
Cưu Ma Trí nói:
– Tiểu tăng khi mới rồi ở ngoài sơn môn nghe thấy Huyền Từ đại sư giảng luận võ công, hoành pháp cao luận, thâm thụ giáo ích, trong đó có một chỗ tiểu tăng không đồng ý lắm.
Huyền Từ đáp:
– Kính thỉnh quốc sư chỉ điểm khai mở cho! Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
– Phương trượng đại sư vừa nói, cho dù là đệ tử tục gia Thiếu Lâm tự cũng thường không dạy y ngoài một môn tuyệt kĩ, để tránh y theo đuổi nhiều môn, tất là có hại. Nhưng theo ngu kiến của tiểu tăng, cái quy củ này của Thiếu Lâm tự chỉ sợ là quá cứng nhắc, hạn chế tài năng trác tuyệt với con đường võ học tinh thâm. Với quy củ này, chỉ sợ bảy mươi hai tuyệt kĩ Thiếu Lâm khó mà phát dương quang đại, qua trăm ngàn năm, không khỏi vẫn chỉ như thế. Lấy hai môn tuyệt kĩ Ma Ha Chỉ cùng Bát Nhã Chưởng mà nói, kì thật một người tinh thông cả hai môn thì có gì là khó? Cho dù một người thông thạo cả bảy mươi hai môn tuyệt kĩ cũng không phải là không thể.
Y nói chuyện tựa hồ bình tĩnh hòa nhã, nhưng trong lời nói đã có ý coi thường võ học Thiếu Lâm. Đàn tăng Thiếu Lâm nghe xong đều cảm thấy khó chịu.
Huyền Sinh lớn tiếng nói:
– Cứ như quốc sư vừa nói, có người kiêm thông đủ cả bảy mươi hai tuyệt kỹ của tệ phái hay sao?
Cưu Ma Trí gật đầu:
– Quả đúng như thế! Huyền Sinh hỏi tiếp:
– Xin hỏi quốc sư, vị đại anh hùng đó là ai thế? Cưu Ma Trí đáp:
– Danh xưng đại anh hùng, thật tình không dám nhận. Huyền Sinh biến sắc:
– Là quốc sư đấy ư?
Cưu Ma Trí gật đầu chắp tay, thần thái nghiêm nghị đáp:
– Chính thế!
Hai tiếng đó ra khỏi miệng ông ta, các nhà sư ai nấy mặt mày ngơ ngác, nghĩ thầm: “Gã này quả là huênh hoang quá đỗi, dám bạo miệng như thế có khác gì thằng điên?”. Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm có môn chuyên luyện hạ bàn, có môn chuyên luyện khinh công, môn thì nặng về quyền chưởng, môn lại sử dụng ám khí, hoặc đao hoặc bổng, mỗi môn có một chỗ đặc biệt, người sử kiếm không biết sử thiền trượng, người có đại lực thần quyền thì lại không chuyên về ám khí, tinh thông công phu về chân thì không khỏi quyền chưởng hơi kém.
Tuy có người tinh thông ba bốn môn thật, nhưng môn nọ phụ môn kia chứ không mâu thuẫn lẫn nhau. Cao tăng phái Thiếu Lâm ai nấy đều biết mà Thần Sơn, Đạo Thanh thì cũng biết rõ, còn nếu bảo rằng một người biết đủ bảy mươi hai môn, thật có khác gì khinh nhờn người khác.
Trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, có đến mười ba mười bốn môn cực kỳ khó luyện, dẫu người thiên tư cực cao, cả đời khổ tu một môn, cũng chưa chắc đã luyện thành. Hiện giờ cả chùa có trên một nghìn nhà sư, dù có hợp lại tất cả cũng không có đủ bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Xem chừng Cưu Ma Trí độ trên dưới năm mươi, dẫu có mỗi năm luyện được một môn, tính ngay từ khi vừa ra khỏi bụng mẹ thì cũng phải mất bảy mươi hai năm. Huống chi mỗi một môn trong bảy mươi hai tuyệt kỹ này đều hết sức thâm áo phức tạp, không lẽ y một năm luyện được đến mấy môn?
Huyền Sinh bụng cười thầm nhưng ngoài mặt vẫn hết sức cung kính nói:
– Quốc sư không phải là người phái Thiếu Lâm, những môn Ma Ha chỉ, Bát Nhã chưởng, Đại Kim Cương quyền cũng đều tinh thông hay sao?
Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:
– Không dám, vẫn mong được Huyền Sinh đại sư chỉ giáo.
Thân hình hơi nghiêng đi, chưởng bên trái đột nhiên giơ ngang, quyền bên phải đánh ra vù một tiếng, chiếc đỉnh đồng cắm hương trước tượng Phật Như Lai trúng phải quyền kình, nghe keng một tiếng, nhảy vọt lên, chính là một chiêu trong Đại Kim Cương quyền pháp tên là Lạc Chung Đông Ứng. Quyền không chạm vào đỉnh mà kêu thành tiếng, không phải là khó, thế nhưng rõ ràng quyền đánh thẳng ra mà chiếc đỉnh đồng lại nhảy tưng lên đủ biết lực của quả đấm khéo léo dường nào, đúng là bí yếu của Đại Kim Cương quyền.
Cưu Ma Trí không đợi cho đỉnh đồng rơi xuống, tay trái lại đánh ra một chưởng, tư thức đúng là chiêu Nhiếp Phục Ngoại Đạo trong Bát Nhã Chưởng. Chiếc đỉnh đồng đang ở trên không xoay đi nửa vòng, nghe bịch một tiếng, một vật gì đó rơi xuống, có điều tro trong đỉnh tung tóe thành một vùng mờ mịt nên không nhìn rõ là gì. Khi đó dư lực chiêu Lạc Chung Đông Ứng đã hết rồi, chiếc đỉnh rơi tụt xuống, Cưu Ma Trí liền đưa ngón tay cái ấn về trước một cái, một luồng sức mạnh mẽ bắn ra, chiếc đỉnh lập tức di chuyển sang bên trái nửa thước. Cưu Ma Trí ấn ra ba lần, chiếc đỉnh nhích sang một thước rưỡi, lúc đó mới xuống tới đất.
Các cao tăng chùa Thiếu Lâm trong bụng thán phục. Biết rằng gẩy tay ba lần như thế trông không có gì kỳ lạ, công lực giấu bên trong đã đến mức siêu phàm nhập thánh, chính là chỉ số chính tông của Ma Ha Chỉ, tên là Tam Nhập Địa Ngục. Ấy là nói tu tập ba cái gẩy tay đó dụng công khổ sở, mỗi lần ấn ra chẳng khác gì một lần đi vào địa ngục.
Tro than nhạt dần, thấy dưới đất có vật gì to bằng bàn tay, chúng tăng nhìn xuống, ai nấy đều kinh hoảng, kêu bật lên một tiếng, đó chính là một bàn tay bằng đồng thau, năm ngón tay rõ ràng, cạnh bàn tay sáng loáng, chói lọi như vàng, lưng bàn tay màu rỉ xanh. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, cười nói:
– Môn Cà Sa Phục Ma Công này luyện chưa được tinh, xin phương trượng sư huynh chỉ điểm.
Câu nói chưa dứt, chiếc đỉnh ở cách xa bảy thước trước mặt kia dường như một sinh vật sống, tự nhiên xoay vòng mấy cái, lúc đứng lại, phía trước kia quay vào bên trong nay hướng ra ngoài, trên thân đỉnh có một dấu cắt hình bàn tay, vết cắt sáng loáng. Những người vai vế hơi thấp trong quần tăng bấy giờ mới rõ, Cưu Ma Trí vừa rồi sử dụng chiêu Nhiếp Phục Ngoại Đạo trong Bát Nhã chưởng chưởng lực không khác gì bảo đao sắc bén, cắt trên đỉnh một vết hình bàn tay.
Trong một thoáng đại điện không một tiếng động, người người đều bị thần công tuyệt thế của Cưu Ma Trí trấn nhiếp. Qua một lúc sau, Huyền Từ thở dài một tiếng nói:
– Lão nạp đến hôm nay mới biết ngoài trời có trời, trên người có người, Lão nạp mấy chục năm khổ học nhưng dưới mắt quốc sư, thật chẳng bõ cười. Quy củ cũ của Thiếu Lâm chắc phải sửa lại cho linh động.
Cưu Ma Trí thản nhiên như không, chỉ chắp tay nói:
– Thiện tai! Thiện tai! Phương trượng sư huynh có gì mà phải khiêm tốn quá như thế?
Bao nhiêu sư sãi trong chùa Thiếu Lâm ai nấy ủ rũ cúi đầu, biết rằng phương trượng bị bắt buộc phải nói như thế, ấy là tự nhận võ công phái Thiếu Lâm không bằng người ta, luôn luôn tự hào xưng hùng cái gọi là bảy mươi hai tuyệt kĩ, bất quá cũng bình thường mà thôi, hơn nữa quy củ cũ cũng không thật thỏa đáng. Phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua danh tiếng lừng lẫy, đứng đầu về võ học trong thiên hạ. Việc xảy ra hôm nay, không những chùa Thiếu Lâm thua một trận không còn gì mà còn khiến cho võ nhân Trung Thổ mất mặt trước người Phiên. Quán Tâm, Đạo
Thanh, Giác Hiền, Dung Trí, Thần Âm cũng thấy bẽ mặt.
Trên điện xảy ra như thế, Hư Trúc đều nhìn rõ không sót mảy may, đến khi nghe phương trượng nói ra câu đó, các bậc tiền bối trong chùa người nào mặt cũng buồn thiu. Y đưa mắt nhìn sư phụ Tuệ Luân thấy ông nước mắt ròng ròng, cực kỳ thương tâm. Tuy y không hiểu rõ nguyên do bên trong, nhưng biết rằng vừa rồi Cưu Ma Trí phô bày võ công, trong chùa không ai địch nổi, phương trượng không còn cách nào khác chỉ còn cách tự nhận không bằng.
Thế nhưng trong bụng y có một điều thắc mắc không sao giải được. Trước mắt tuy Cưu Ma Trí sử dụng Đại Kim Cương Quyền quyền pháp, Bát Nhã Chưởng chưởng pháp, Ma Ha Chỉ chỉ pháp, chiêu số quả đúng không sai, y chưa học qua những môn này nên không biết được, thế nhưng cách vận dụng nội công trong quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp, y lại nhìn ra rõ ràng, hiển nhiên đó là Tiểu Vô Tướng Công.
Môn Tiểu Vô Tướng Công y được Vô Nhai Tử truyền thụ, về sau khi Thiên Sơn Đồng Mỗ truyền cho y ca quyết của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ mới phát giác trong người y có thần công này, hết sức giận dữ đau lòng vì công phu đó sư phụ bà ta chỉ truyền cho một mình Lý Thu Thủy mà thôi, Hư Trúc nhận được từ Vô Nhai Tử thì giữa Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy hai người phải có gắn bó sâu xa, không cần phải hỏi cũng biết. Thiên Sơn Đồng Mỗ sau đó đã cho y hay cách thức vận dụng Tiểu Vô Tướng Công, nhưng những điều Đồng Mỗ biết chỉ có hạn, mãi đến khi y xem các đồ hình trên vách đá trong địa đạo cung Linh Thứu mới hiểu thêm được khá nhiều bí áo trong môn này.
Tiểu Vô Tướng Công là sở học Đạo gia, nói về thanh tĩnh vô vi, thần ngao du cõi Thái Hư, tuy cũng na ná như môn võ công “vô sắc vô tướng” của Phật gia, tuy nhiên tên hơi giống nhau nhưng thực chất lại khác hẳn. Hư Trúc nghe Cưu Ma Trí tự xưng tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản phái, vậy mà khi thi triển thì rõ ràng chỉ có một môn Tiểu Vô Tướng Công sử động chiêu số Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ, Đại Kim Cương Quyền, chỉ vì Tiểu Vô Tướng Công uy lực quá mạnh, vừa thi triển đã trấn áp đương trường, mọi người không biết môn này, lại tưởng y tinh thông tuyệt kỹ Thiếu Lâm thực. Kì thực trong bảy mươi hai môn tuyệt kĩ Thiếu Lâm, Bát Nhã Chưởng có Bát Nhã Chưởng nội công, Ma Ha Chỉ có Ma Ha Chỉ nội công, Đại Kim Cương Quyền có Đại Kim Cương Quyền nội công, phân biệt rõ ràng không chút lẫn lộn.
Tuy không phải vàng thau lân lộn, Tiểu Vô Tướng Công uy lực không kém bất cứ tuyệt kỹ nào của phái Thiếu Lâm nhưng dẫu sao vẫn là treo đầu dê bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen. Hư Trúc thấy thật lạ lùng, việc này rõ như ban ngày, vậy mà sao từ phương trượng đổ xuống, cả hơn nghìn nhà sư Thiếu Lâm không ai đứng ra nói rõ thị phi.
Y có biết đâu môn Tiểu Vô Tướng Công này bác đại tinh thâm, lại là võ học Đạo gia, trong đại điện mọi người đều là đệ tử nhà Phật, võ công tuy cao nhưng đâu có người nào tu tập Đạo gia, huống chi Tiểu Vô Tướng Công cũng lấy Vô Tướng làm yếu chỉ, không chấp trước vào hình tướng, không dấu vết gì mà truy lùng, trừ những người cũng cao thâm về môn đó những người khác không sao nhìn ra được.
Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Độ mọi người tuy thấy nội công Cưu Ma Trí có hơi khác nội công phái Thiếu Lâm, lại tưởng từ Thiên Trúc truyền qua chắc có đổi đi đôi chút, cũng là chuyện thường. Đất xa nhau mấy vạn dặm, thời cách nhau mấy trăm năm, tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm đã được bao nhiêu đời cao thủ thêm thắt biến hóa, nếu như hai bên vẫn còn hoàn toàn giống nhau thì lại không hợp đạo lý, thành thử chẳng ai nghi ngờ chút nào.
Hư Trúc lúc đầu lại tưởng các vị tiền bối sư trưởng có thâm ý, y chỉ là một chú tiểu ở hàng thứ ba, làm sao dám đứng ra góp ý? Thế nhưng y thấy tình thế tụt dốc thật bất ngờ, các bậc sư trưởng ai ai cũng phẫn nộ chán chường, không còn biết làm gì khác, bản tự hiển nhiên lâm vào một kiếp nạn trọng đại, nên định tiến ra, chỉ rõ cho mọi người biết rằng Cưu Ma Trí vừa sử dụng không phải tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Thế nhưng y ở trong chùa hơn hai chục năm qua, chưa bao giờ đứng trước đám đông nói lấy một câu, nơi đại điện khung cảnh trang nghiêm thế này, lời ra đến cửa miệng lại rụt ngay lại.
Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
– Phương trượng nếu đã nói thế thì đã tự nhận bảy mươi hai tuyệt kỹ của quý phái bên trong không khỏi có chút khuyết điểm, thậm chí căn bản không phải từ chùa Thiếu Lâm mà ra, chữ “tuyệt” kia phải đổi đi mới được.
Huyền Từ lặng thinh không nói, ruột như dao cắt. Trong đám chữ Huyền có một lão tăng thân hình cao to hậm hực nói:
– Quốc sư đã chiếm thượng phong, phương trượng bản tự đã bằng lòng sửa lại quy củ, sao còn xử ép như thế, không để lại chút dư tình là sao?
Đó chính là Huyền Chỉ. Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
– Tiểu tăng chẳng qua chỉ muốn phương trượng bằng lòng một điều, để tiện thông báo cho toàn thể đồng đạo võ lâm. Theo ý kiến tiểu tăng, chùa Thiếu Lâm chi bằng giải tán đi thôi, các vị cao tăng chia nhau ra đầu nhập chùa Thanh Lương, chùa Phổ Độ các nơi tự viện tìm đường dung thân, hoặc đến nước Thổ Phồn chuyển sang tu Mật tông Phật pháp, bái lạy thượng sư Lạt ma, tiểu tăng cũng tìm cách giới thiệu. Chẳng hơn là ở chùa Thiếu Lâm hưởng cái hư danh, sống thừa sống nhục?
Lời của y vừa nói ra, những nhà sư Thiếu Lâm dù công phu hàm dưỡng rất cao cũng không nhịn nổi, nhao nhao sỉ mắng. Quần tăng bấy giờ mới rõ, gã Cưu Ma Trí này lên núi là dùng sức một một người đánh đổ chùa Thiếu Lâm, không những tiếng tăm y sẽ để lại muôn đời, mà võ lâm rồi đây cũng sẽ mất đi một tòa trọng trấn, làm lợi cho nước Thổ Phồn của y rất nhiều.
Lại nghe y sang sảng nói:
– Tiểu tăng một thân đến Trung Thổ, bản ý mong được biết đến phong phạm của chùa Thiếu Lâm một phen, để xem cái nơi xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm kia khí tượng trang nghiêm hùng vĩ đến chừng nào. Thế nhưng sau khi nghe lời lẽ các vị cao tăng, xem cử chỉ các vị cao tăng rồi, ha ha ha, xem chừng còn kém cả chùa Thiên Long của nước Đại Lý náu mình một cõi Nam cương. Ôi, quả là khiến cho tiểu tăng thất vọng làm sao!
Trong hàng chữ Huyền có người đáp:
– Chùa Thiên Long nước Đại Lý, Khô Vinh đại sư và phương trượng Bản Nhân Phật pháp uyên thâm, hễ đã là đệ tử họ Thích không ai là không ngưỡng mộ. Người xuất gia vốn dĩ không còn cái tâm cạnh tranh hiếu thắng, quốc sư bảo chùa Thiếu Lâm không bằng chùa Thiên Long cũng có ai để vào tai?
Nói xong chậm rãi đi ra, người đó là một lão tăng mặt mũi hồng hào. Ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay phải ông ta hơi khép lại, nở một nụ cười, thần sắc ôn hòa. Cưu Ma Trí cũng mỉm cười nói:
– Đã từ lâu ngưỡng mộ môn Niêm Hoa Chỉ của Huyền Độ đại sư luyện đến mức xuất thần nhập hóa, hôm nay được thấy, quả thực may mắn biết bao.
Nói xong hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay phải của y cũng khép lại, làm thế niêm hoa. Hai nhà sư đồng thời chầm chậm đưa tay trái ra, hướng về đối
phương búng luôn ba cái. Chỉ nghe sùy sùy sùy ba tiếng, chỉ lực chạm nhau, Huyền Độ đại sư người lảo đảo, đột nhiên trước ngực vọt ra ba dòng máu xa đến mấy thước. Hai bên giao đấu rồi, Huyền Độ địch không lại, bị chỉ lực của Cưu Ma Trí xuyên vào ngực, thật chẳng khác gì ba mũi dùi nhọn đả thương.
Huyền Độ đại sư là người từ hòa, rất được các tăng lữ tiểu bối yêu mến. Năm Hư Trúc mười sáu tuổi cũng đã từng được sai đến hầu hạ Huyền Độ, quét nhà châm trà trong tám tháng liền. Huyền Độ đãi y cực kỳ thân thiết, lại còn chỉ điểm cho y về pho La Hán Quyền. Sau đó Huyền Độ bế quan tham thiền, Hư Trúc rất ít khi được gặp lại nhưng tình nghĩa ngày xưa vẫn luôn luôn ghi nhớ trong lòng.
Y thấy Huyền Độ đại sư bị trúng chỉ lực, biết rằng nếu chậm trễ một chút lập tức nguy đến tính mạng. Y từng được Tô Tinh Hà dạy cho cách trị thương, về sau lại học bí quyết của phép phá giải Sinh Tử Phù, rất quen thuộc với cách chữa người sắp chết, thấy trước ngực Huyền Độ máu tươi vọt ra không kịp suy nghĩ, lắc người một cái vọt ra trước mặt Huyền Độ, đánh nhứ một chưởng.
Việc đó xảy ra chỉ trong chớp mắt, ba dòng máu chưa rơi tới đất, bị chưởng lực của y đẩy ngược trở lại, cũng nhanh nhẹn vô cùng chui ngược trở về ngực Huyền Độ. Tay Hư Trúc như gẩy tì bà, hư điểm vòng vòng, chỉ trong khoảnh khắc đã phong bế mười một huyệt đạo trước sau trái phải của vết thương, máu tươi liền không chảy ra nữa, lại lấy một viên linh dược trị thương Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu nhét vào mồm ông ta.
Hôm trước khi Hư Trúc được Đoàn Diên Khánh phá giải cuộc cờ Trân Lung của Vô Nhai Tử, Cưu Ma Trí đã gặp y một lần, bây giờ đột nhiên thấy y chạy ra dùng luân chỉ hư điểm, phong bế huyệt đạo Huyền Độ, thủ pháp khéo léo, công lực mạnh mẽ, chưa từng thấy bao giờ, khiến y không khỏi hoảng vía.
Khi đó sáu nhà sư bọn Tuệ Phương thấy Hư Trúc một chưởng đánh chết Huyền Nạn, lại thấy y làm chưởng môn một phái khác, cực kỳ lạ lùng, không sao hiểu được, liền khiêng thi thể Huyền Nạn trở về chùa Thiếu Lâm. Huyền Từ phương trượng cùng các cao tăng tra hỏi kỹ càng, biết Huyền Nạn chết vì chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán của Đinh Xuân Thu, chưởng đánh của Hư Trúc không liên quan đến, đợi mãi không thấy Hư Trúc trở về nên sai hơn chục nhà sư khác đi tìm kiếm nhưng không thấy tung tích y đâu.
Hư Trúc trở về chùa lại gặp ngay lúc chùa Thiếu Lâm đang có biến cố trọng đại, vừa nhận được thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền yêu cầu phái Thiếu Lâm đưa y lên làm minh chủ võ lâm Trung Nguyên. Huyền Từ ngày nào cũng cùng chư tăng hàng chữ Huyền, chữ Tuệ tìm cách đối phó, thực không biết cái gã chưa nghe tên tuổi tên là Trang Tụ Hiền kia là hạng người gì. Cái Bang là bang hội số một trên giang hồ, nhân số rất đông, thực lực rất mạnh, xưa nay vốn dĩ theo đường hiệp nghĩa, cùng với Thiếu Lâm hai bên nương tựa lẫn nhau, chủ trì chính khí cho giang hồ, công đạo cho võ lâm, tự nhiên đòi ngồi cao hơn phái Thiếu Lâm, khiến cho các cao tăng không biết phải xử trí thế nào cho phải.
Sư phụ Hư Trúc là Tuệ Luân thấy phương trượng và các sư bá sư thúc đang có việc quan trọng phải bàn thảo nên cũng không dám lên báo cáo là Hư Trúc đã trở về chùa, lại liên tiếp phạm nhiều giới luật. Ngay cả việc y ở vườn rau gánh phân tưới nước chư tăng cũng không hề hay biết, bây giờ đột nhiên thấy y thi triển thủ pháp cao siêu, đẩy ngược máu tươi quay trở về thân thể Huyền Độ, ai nấy đều cực kỳ lạ lùng. Hư Trúc nói:
– Thái sư bá đừng vận khí để vết thương khỏi chảy máu.
Nói rồi y xé tăng bào, buộc chặt vết thương. Huyền Độ cười gượng gạo nói:
– Đại Luân Minh Vương… công phu Niêm Hoa Chỉ… ghê gớm thật! Lão nạp… lão nạp bái phục.
Hư Trúc nói:
– Đại sư bá, ông ta sử dụng không phải là Niêm Hoa Chỉ, cũng không phải Phật môn võ công.
Quần tăng nghe nói thế, đều ngầm cảm thấy có điều hoang mang, chỉ pháp của Cưu Ma Trí cùng Huyền Độ không khác gì nhau, đến cả hai người vẻ mặt hiền từ mỉm cười cũng giống hệt, vậy mà không phải Niêm Hoa Chỉ trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của Thiếu Lâm thì là gì? Ai ai cũng biết Cưu Ma Trí là Hộ Quốc pháp sư nước Thổ Phồn, được phong làm Đại Luân Minh Vương, cứ năm năm lại một lần khai đàn nơi chùa Đại Luân trên Đại Tuyết Sơn, giảng kinh thuyết pháp, cao tăng cư sĩ bốn phương vân tập đến nghe, hỏi kinh điển, nêu thắc mắc, người người đều ca ngợi. Y là một cao tăng thiên hạ ai ai cũng biết tiếng, không lẽ lại không sử dụng võ công Phật môn hay sao?
Cưu Ma Trí trong lòng hoảng thầm: “Tiểu hòa thượng này sao lại biết rằng ta không sử dụng Niêm Hoa Chỉ? Không phải võ công Phật môn?”. Y suy nghĩ một chút lập tức hiểu ngay: “Đúng rồi! Niêm Hoa Chỉ vốn dĩ là một công phu cực kỳ vương đạo, hòa bình, chỉ điểm huyệt người ta, chế ngự địch nhưng không làm hại tính mạng, ta gấp rút cầu thắng, lấy Hỏa Diễm Đao vận công, chỉ lực quá ư lợi hại, đâm thủng ba lỗ trên ngực lão tăng kia, không phải là bản ý Niêm Hoa Vi Tiếu của Ca Diếp tôn giả, có lẽ chú tiểu này vì thế mà biết được”.
Y trời sinh thông tuệ, từ khi còn nhỏ đã gặp kỳ duyên, nhờ dùng thần công Hỏa Diễm Đao được sư phụ truyền phát kình, ở chùa Thiên Long nước Đại Lý đã liên tiếp thắng Khô Vinh, Bản Nhân, Bản Tướng các cao thủ, sau đó lại gặp nhân duyên, lấy được Tiểu Vô Tướng Công bí kíp. Lần này lên chùa Thiếu Lâm vốn định dùng võ công của mình, đơn thương độc mã đánh đổ một tòa thiên niên cổ tháp nổi tiếng võ lâm đương thời, thấy Hư Trúc chỉ độ ngoài hai mươi, tuy vừa rồi dùng phép Luân Chỉ Phong Huyệt có chiều huyền diệu, nhưng chắc võ công cũng chẳng cao được bao nhiêu, liền mỉm cười hỏi:
– Tiểu sư phụ bảo rằng Niêm Hoa Chỉ của ta không phải võ công Phật môn thì để võ công Thiếu Lâm vào chỗ nào đây?
Hư Trúc không giỏi biện bác, chỉ đáp:
– Niêm Hoa Chỉ của sư bá tổ Huyền Độ dĩ nhiên là võ học cửa Phật, còn đại sư… đại sư sử dụng… lại là…
Y vừa nói vừa giơ tay trái lên, bắt chước thủ pháp của Huyền Độ, búng luôn ba cái, chỉ lực sử dụng Tiểu Vô Tướng Công. Y đối với người kính cẩn, ba cái búng đó không dám nhắm vào Cưu Ma Trí, chỉ quay về phía không có người bắn ra, chỉ nghe boong boong boong ba tiếng, chiếc đại đồng chung treo trong điện vang lên. Ba cái búng của Hư Trúc búng vào chiếc chuông thật chẳng khác gì dùng chày đập vào. Chúng tăng nghe xong đều kinh dị. Cưu Ma Trí kêu lên:
– Hảo công phu! Để thử một chiêu Bát Nhã chưởng của ta.
Nói xong dựng song chưởng lên tưởng như hành lễ nhưng hai tay không chắp lại, vù một tiếng, một luồng chưởng lực đánh về phía Hư Trúc, chính là chiêu Hiệp Cốc Thiên Phong trong Bát Nhã Chưởng. Nhưng Bát Nhã Chưởng lấy ý chính là “không, vô, phi không, phi vô”, một chưởng này của y mạnh mẽ trầm trọng, không phải là bổn ý của Bát Nhã Chưởng.
Hư Trúc thấy chưởng thế của y mãnh liệt, không thể không chống đỡ, lập tức dùng một chiêu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải chưởng lực của y. Cưu Ma
Trí cảm thấy trong chưởng của y có chứa sức hút để khắc chế chưởng lực của mình, chính là để đối phó với Tiểu Vô Tướng Công, trong bụng chột dạ, cười nói:
– Tiểu sư phụ, công phu đó là công phu cửa Phật đó sao? Hôm nay ta đến quý bảo sát là muốn lãnh giáo thần kỹ của phái Thiếu Lâm, sao ngươi lại đem công phu bàng môn ra sử dụng? Võ học Thiếu Lâm tại Đại Tống đứng hàng thứ nhất thứ nhì, không lẽ chỉ có hư danh, không chống nổi võ công dị bang hay sao?
Hư Trúc hiểu ngay ý của y bèn nói thẳng:
– Tiểu tăng tư chất ngu độn, bản phái võ công chỉ học được một bài La Hán Quyền, một môn Vi Đà Chưởng, là công phu nhập môn tối căn cơ của bản phái, làm sao có thể quá chiêu với quốc sư được?
Cưu Ma Trí bật cười ha hả nói:
– Nếu đã như thế, ngươi tự biết mình là khôn, không phải đối thủ của ta thì lui ra đi thôi.
Hư Trúc đáp:
– Vâng! Tiểu tăng cáo thoái.
Y chắp tay hành lễ, lui vào trong hàng chữ Hư. Thế nhưng Huyền Từ phương trượng cực kỳ tinh minh, tuy không biết rõ võ công của Hư Trúc như thế nào, nhưng vừa mới thấy y biểu diễn vài chiêu, chiêu số tinh kỳ, nội công thâm hậu, có thể đương cự được với Cưu Ma Trí, chùa Thiếu Lâm hôm nay gặp cảnh nguy cơ tồn vong vinh nhục, sao không sai y ra chống đỡ một phen, dù có thua thì cũng còn hơn là không làm được chuyện gì, liền nói:
– Quốc sư tự xưng tinh thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, cao minh uyên bác, khiến cho mọi người cực kỳ bội phục. Công phu nhập môn thô thiển của phái Thiếu Lâm thì lại càng không đáng quốc sư để mắt tới.
Hư Trúc, bản tự tăng chúng theo vai vế Huyền, Tuệ, Hư, Không mà sắp xếp, ngươi là đệ tử hàng thứ ba của bản phái, vốn không tư cách quá chiêu với quốc sư là đệ nhất cao thủ nước Thổ Phồn. Thế nhưng quốc sư vạn dặm từ xa đến đây, duyên may khó gặp, ngươi hãy dùng La Hán Quyền và Vi Đà Chưởng để xin quốc sư chỉ điểm cho vài chiêu.
Ông đã chặn trước, Hư Trúc chẳng qua chỉ là một chú tiểu chữ Hư, đệ tử hàng thứ ba của phái Thiếu Lâm, sở học bất quá chỉ là công phu thô thiển nhập môn phái Thiếu Lâm, dẫu có thua dưới tay Cưu Ma Trí thì uy danh chùa Thiếu Lâm cũng không bị tổn hại, còn như miễn cưỡng chống đỡ nổi qua được một nén hương, hai nén hương, lúc đó mình thừa thế quát bảo ngừng lại, Cưu Ma Trí sẽ không còn mặt mũi nào lôi thôi thêm nữa.
Hư Trúc nghe thấy phương trượng ra lệnh như thế, không dám vi phạm, khom lưng đáp:
– Vâng!
Y tiến lên mấy bước, chắp tay nói:
– Xin quốc sư thủ hạ lưu tình!
Y nghĩ bụng đối phương là tiền bối cao nhân nhất định không ra tay trước, lập tức hai tay chắp lại vái xuống, chính là khởi thức Linh Sơn Lễ Phật trong Vi Đà Chưởng. Y ở trong chùa Thiếu Lâm nửa ngày đọc kinh, nửa ngày luyện võ, hơn chục năm nay, đã luyện hai môn La Hán Quyền và Vi Đà Chưởng thuần thục vô cùng.
Chiêu Linh Sơn Lễ Phật vốn chỉ là một chiêu kính trọng đối phương, ý là đệ tử nhà Phật coi lễ nhượng làm đầu, không phải là phường hiếu dũng thích đánh nhau. Thế nhưng trong người y lúc này có chứa ba nguồn nội lực thâm hậu của ba cao thủ phái Tiêu Dao, lại thêm được Đồng Mỗ tận tâm chỉ dạy, thêm mấy tháng nghiền
ngẫm những võ công trong hang sâu trên núi Linh Thứu, được nhiều điều ích lợi, song chưởng vừa vái xuống, tăng y trên người liền hơi phồng lên, chân khí lưu chuyển hộ vệ toàn thân.