Thần Điêu Hiệp Lữ - Bản tân tu (Mới nhất)

Hồi 38: Sinh Tử Mù Mịt

trước
tiếp

Hôm ấy Quách Tương thấy Kim Luân Quốc Sư hạ độc thủ đánh chết Trường Tu Quỉ, Đại Đầu Quỉ hai người, thì nàng đau lòng tự biết khó thoát ma chưởng của lão, bèn hiên ngang nói:

– Lão không mau đánh chết bổn cô nương, còn chờ gì nữa?

Kim Luân Quốc Sư cười, nói:

– Muốn đánh chết tên nhãi con như ngươi, nào có khó gì? Hôm nay ta giết hai người là đủ rồi. Vài hôm nữa ta sẽ chọn ngày lành đem ngươi ra khai đao, bây giờ thì hãy ngoan ngoãn đi theo ta.

Quách Tương biết rằng chống chọi lão ta lúc này chỉ tự chuốc nhục, đành đi theo, rồi tìm cách thoát thân sau, bèn nhìn rồi lão nhăn mặt lè lưỡi, lên ngựa đi.

Kim Luân Quốc Sư mừng rỡ, nghĩ: “Hoàng thượng và Tứ vương gia tìm thiên phương bách kế lấy mạng Quách Tĩnh, vẫn chưa như nguyện. Hôm nay ta bắt được ái nữ của Quách Tĩnh, dùng nó để kiềm chế, lo gì hắn không cúi đầu vâng mệnh. Thế này còn hơn một kiếm đâm chết hắn. Giả dụ Quách Tĩnh quật cường không chịu khuất phục, chúng ta đem con bé này đến dưới chân thành mà hành hạ, hắn sẽ đau đớn đứt từng khúc ruột, mất hết tinh thần, bấy giờ đại quân công thành, làm gì chẳng hạ được?”

Đi đến lúc trời tối, ghé đại vào một nhà ven đường nghỉ đêm. Người sống trong nhà mang đồ đạc tản cư đi hết, nhà chỉ trơ trọi bốn bức tường. Kim Luân Quốc Sư lấy lương khô ra chia cho Quách Tương cùng ăn, rồi bảo nàng sang sương phòng mà ngủ, còn lão ngồi dụng công ở gian giữa.

Quách Tương trằn trọc, làm sao ngủ nổi? Đến nửa đêm, nàng rón rén ngó sang gian giữa, thấy Quốc Sư ngồi dựa vào vách, hơi thở đều đều, chắc là đang ngủ say. Nàng cả mừng, rón rén vượt song ra ngoài, lấy tai nải vải xét làm tư, bọc vào bốn vó ngựa, rồi dắt ngựa đi rất nhẹ, từng bước một, đến khi cách nhà chừng nửa dặm, ngoảnh lại không thấy Quốc Sư đuổi theo, mới lên ngựa phóng đi. Nàng nghĩ rằng khi Quốc Sư tỉnh giấc, phát giác nàng bỏ chạy, sẽ đoán nàng chạy về thành Tương Dương, tất lão sẽ đuổi theo về phía nam, nên nàng bèn phóng ngựa về hướng tây bắc, phóng một mạch chừng nửa canh giờ, con ngựa đuối sức, mới đi chậm lại, dọc đường chốc chốc nàng ngó lại phía sau, thủy chung không thấy Quốc Sư đuổi theo. Đến khi trời sáng hẳn, tính ra đã chạy được năm, sáu chục dặm, trong bụng mới đỡ lo.

Lúc này nàng tới một con đường nhỏ ven núi, đường lên càng lúc càng cao, qua một thung lũng, bỗng thấy có một người nằm chắn ngang đường, ngáy như kéo bễ, nhìn kỹ, nàng giật mình suýt ngã ngựa, vì người nằm kia đầu trọc, mặc hoàng bào, chính là Kim Luân Quốc Sư. Cũng không biết bằng cách nào lão ta lại ở phía trước mặt. Quách Tương vội quay đầu ngựa, phi xuống dốc, ngó lại, thấy lão ta vẫn nằm đó, không hề đuổi theo.

Lần này nàng không đi trên đường nữa, mà phóng ngựa thẳng về hướng đông nam, chạy một hồi rất lâu, thấy có một người treo móc hai chân lên cây đại thụ phía trước mặt, đầu chúi xuống đất, cười hi hi với nàng, chính là Kim Luân Quốc Sư. Quách Tương không sợ mà cả giận, quát:

– Lão muốn cản đường, thì cản cho ngay ngắn tử tế, sao lại đi giở trò đùa bỡn với bổn cô nương như thế?

Nàng phóng ngựa tới gần, quất một roi vào mặt lão ta.

Chỉ thấy Quốc Sư không né tránh, roi ngựa vút tới mặt lão ta mà không nghe có âm thanh gì, đúng lúc ấy con ngựa phóng đi. Quách Tương tay phải định rút cây roi về, phát giác có một luồng lực truyền thụ sang tay mình, thân mình tự rời khỏi yên ngựa, bay lên cao. Thì ra Kim Luân Quốc Sư thấy roi ngựa vút tới, đã há miệng cắn lấy ngọn roi, thân hình đảo ngược lên cành cây, kéo Quách Tương lên theo.

Quách Tương lơ lửng trên không, không hề hoảng loạn, thấy Quốc Sư cúi lưng co người định kéo nàng lên, nàng liền buông cây roi, lợi dụng thế rơi thẳng xuống.

Quốc Sư lại hoảng hốt, sợ nàng ngã xuống bị thương, vội ngửa người giơ tay đỡ, miệng kêu:

– Cẩn thận!

Quách Tương kêu “Ối da!” rơi xuống cách hai tay Quốc Sư nửa thước, đột nhiên song chưởng cùng đánh ra, bình bình hai tiếng, trúng ngực lão ta. Nàng biến chiêu quá nhanh, Quốc Sư tuy võ công cao cường, lại cơ trí, cũng không tránh kịp, chỉ thấy lão ta loạng quạng chân tay ngã xuống đất, nằm bất động.

Quách Tương không ngờ vừa ra đòn đã thành công, cả mừng, nhấc một hòn đá to dưới đất lên, định đập xuống cái đầu trọc lốc của Quốc Sư. Nhưng trong đời nàng chưa giết ai bao giờ, tuy nàng rất căm hận người này đã giết hai vị bằng hữu của nàng, nhưng lúc cần ra tay, nàng lại không nỡ, cứ đứng ngây ra, cuối cùng nàng quăng hòn đá đi, giơ tay điểm các huyệt Thiên Đỉnh ở vai, Thân Trụ ở lưng, Thần Phong ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở cánh tay, Phong Thị ở chân, điểm liền một mạch mười ba đại huyệt trên người Quốc Sư, vẫn chưa yên tâm, lại bê bốn hòn đá nặng vài chục cân đè lên người lão ta, nói:

– Ác nhân ơi là ác nhân, bổn cô nương hôm nay không giết lão, từ rày lão phải biết tốt xấu, không được hãm hại người ta nữa!

Đoạn nàng nhảy lên ngựa.

Kim Luân Quốc Sư mở to mắt nhìn nàng, cười nói:

– Tiểu cô nương có lòng tốt, lão hòa thượng rất mến cô nương.

Chỉ thấy bốn hòn đá đột nhiên bị bắn lên cao, rơi ầm ầm khỏi người lão ta, lão ta bật ngay dậy, cũng chẳng hiểu làm cách nào lão ta đã giải hết mười ba huyệt đạo bị điểm. Quách Tương kinh ngạc, ngẩn ra không nói nên lời.

Nguyên Kim Luân Quốc Sư trúng song chưởng của nàng, nhưng hai chưởng ấy làm sao có thể đánh lão ta ngã khỏi cây? Dù có ngã cũng chẳng đến nỗi hết cựa quậy. Quốc Sư giả vờ bị thương, thử xem Quách Tương động thủ thế nào, khi thấy nàng bưng tảng đá không đập xuống, lão thầm nghĩ: “Cô nương này thông minh lanh lợi, tâm địa lại tốt, có cái hay mà không có cái dở của hai đệ tử của ta”. Bất giác lão muốn thu nàng làm đệ tử.

Quốc Sư bình sinh từng thu nhận ba đệ tử. Đại đệ tử văn võ song toàn, tư chất cực tốt, Quốc Sư vốn định truyền cho y bát, chẳng may y chết sớm. Nhị đệ tử Đạt Nhĩ Ba thật thà trung hậu, có thần lực, không thể lĩnh hội nội công cao thâm huyền diệu. Tam đệ tử Hoắc Đô vương tử bản tính khinh bạc, lúc nguy nan phản sư bỏ chạy. Quốc Sư tự nghĩ tuổi lão đã cao, một thân tuyệt kỹ chưa biết truyền thụ cho ai, chẳng lẽ trăm năm sau thứ võ công tuyệt thế của lão lại bị chôn vùi hay sao? Mỗi lần nghĩ thế, lão lại buồn bực. Giờ thấy Quách Tương tư chất thông minh, bình sinh hiếm gặp, tuy nói là con gái kẻ địch, nhưng nàng còn nhỏ tuổi, dễ dàng cải biến, thiết tưởng chỉ cần truyền cho tuyệt kỹ, lại thêm Phật pháp bồi đắp, lâu dần nàng sẽ quên chuyện cũ. Huống hồ lão ta với cha mẹ nàng chỉ do hai nước tương tranh mà đối địch với nhau, chứ chẳng có thâm cừu đại oán không đội trời chung gì hết. Người trong võ lâm rất kính trọng việc thu đồ truyền pháp, nhà tu hành không có con cái, bản sự đầy mình toàn dựa vào đệ tử mà truyền tông tiếp đại, việc truyền y bát lại là hệ trọng hàng đầu. Quốc Sư vừa nghĩ đến việc này, lập tức gác ngay chuyện đánh thành Tương Dương, gây áp lực với Quách Tĩnh sang một bên. Quách Tương tuy là nữ tử, truyền pháp không bằng nam tử, nhưng phật pháp tàng truyền cũng mười phần chuyên trọng các nữ bồ tát như Bạch Mẫu và Lục Mẫu, nên nữ đệ tử cũng được coi trọng.

Quách Tương thấy tròng mắt Quốc Sư chuyển động, trầm ngâm không nói gì, bèn xuống ngựa, nói:

– Lão hòa thượng bản lĩnh thật cao cường, chỉ tiếc không chịu làm việc tốt.

Quốc Sư cười, nói:

– Cô nương đã bái phục bản lĩnh của ta, chỉ cần bái ta làm sư phụ, ta sẽ truyền thụ mọi công phu cho cô nương.

Quách Tương xì một cái, nói:

– Bổn cô nương học công phu của lão hòa thượng có ích gì? Bổn cô nương lại không định làm ni cô.

Quốc Sư cười, nói:

– Chẳng lẽ cứ học võ công của ta thì phải làm ni cô hay sao? Cô nương điểm huyệt ta, ta tự giải huyệt, cô nương đè đá lên người ta, tảng đá tự nhảy dựng lên, cô nương phi ngựa, ta đi bộ lại đến trước nằm ngủ, các môn công phu ấy chẳng hay lắm sao?

Quách Tương nghĩ các môn công phu ấy quả rất hay, nhưng lão hòa thượng này là kẻ ác, làm sao có thể bái lão làm sư phụ, hơn nữa nàng cần tìm gấp Dương Quá, không có nhiều thời gian dính dáng với lão ta, nên lắc đầu nói:

– Lão bản lĩnh cao mấy, bổn cô nương cũng không thể bái kẻ ác làm sư phụ.

Quốc Sư nói:

– Sao cô nương biết ta là kẻ ác?

Quách Tương nói:

– Lão vừa xuất thủ đã đánh chết Trường Tu Quỷ, Đại Đầu Quỷ hai người, họ không hề có oán cừu gì với lão, sao lão nỡ hạ độc thủ?

Quốc Sư cười, nói:

– Ta chỉ giúp cô nương tìm ngựa khỏe, hai người ấy động thủ trước, cô nương không thấy hay sao? Nếu ta bản lĩnh kém cỏi, thì đã bị họ đánh chết rồi. Làm hòa thượng phải từ bi, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, thì không đời nào giết người.

Quách Tương hừ một tiếng, không tin lời lão, nói:

– Rốt cuộc thì lão muốn gì? Nếu lão là người tử tế, tại sao không để cho bổn cô nương đi?

Quốc Sư nói:

– Ta không cho cô nương đi hồi nào? Cô nương cưỡi ngựa muốn đi đông thì đi đông, đi tây thì đi đây, ta chỉ nằm ngủ trên đường, có giơ tay ra chắn đường hay không nào?

Quách Tương nói:

– Nếu đã nói vậy, lão hãy để cho bổn cô nương đi tìm Dương đại ca, đừng bám theo nữa.

Quốc Sư lắc đầu, nói:

– Như thế không được. Cô nương phải bái ta làm sư phụ, học ta hai mươi năm võ nghệ đã, rồi muốn đi tìm ai thì cứ việc.

Quách Tương thất vọng, nói:

– Lão đúng là không biết lý lẽ, bổn cô nương không thèm bái sư, lão cứ cưỡng ép là sao?

Quốc Sư nói:

– Cô nương không biết lý lẽ thì có, một minh sư như ta, khắp thiên hạ tìm đâu cho thấy kia chứ. Người khác lạy ta ba trăm cái, cầu xin chín, mười năm, ta cũng chưa thèm nhận làm đệ tử. Hôm nay cô nương gặp cơ hội ngàn năm có một, lại không thụ hưởng, thế có dại không?

Quách Tương bĩu môi, nói:

– Không biết xấu hổ. Lão mà đòi làm minh sư cái thá gì? Chẳng qua lão thắng được một cô bé hơn mười tuổi như bổn cô nương, có gì là lạ. Lão có thắng nổi phụ mẫu của bổn cô nương hay không? Có thắng nổi ngoại công của bổn cô nương là Hoàng đảo chủ hay không? Đừng nói ba người ấy, ngay đại ca ca Dương Quá của bổn cô nương, lão cũng không thắng nổi.

Quốc Sư bực tức nói:

– Ai bảo… ai bảo ta không thắng nổi tên tiểu tử Dương Quá?

Quách Tương nói:

– Anh hùng hảo hán thiên hạ đều nói thế. Mấy hôm trước, tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, mọi người đều bảo dù có ba Kim Luân Quốc Sư nhất tề động thủ, mỗi Kim Luân Quốc Sư ba đầu sáu tay, cũng đánh không lại Thần điêu đại hiệp Dương Quá có một cánh tay.

Câu này Quách Tương tiện miệng bịa ra để khích Quốc Sư, còn đại hội anh hùng chỉ thương nghị cách giữ thành Tương Dương, chống quân Mông Cổ, giả dụ có ai nhắc đến võ công mạnh yếu của Kim Luân Quốc Sư và Dương Quá, thì Quách Tương không tham dự, cũng chẳng thể biết. Ai ngờ câu này xoáy đúng vào chỗ đau của Kim Luân Quốc Sư. Mới mấy năm trước lão từng mấy phen bại trận dưới tay Dương Quá, lão tưởng anh hùng thiên hạ nói thế thật, liền nổi giận quát:

– Tên tiểu tử Dương Quá nếu có mặt ở đây, ta sẽ cho hắn nếm mùi “Long tượng bát nhã công”, ôm đầu thảm bại, sẽ biết thời nay rốt cuộc là Dương Quá tài giỏi hay Kim Luân Quốc Sư ta cao minh.

Quách Tương chợt nảy một kế, nói:

– Lão thừa biết đại ca ca của bổn cô nương không có ở đây mới dám huênh hoang như thế. Lão có gan đi tìm chàng đấu thử một trận hay không? Cái môn “Xà trư bất nhã công” của lão…

Quốc Sư vội nhắc:

– Là “Long tượng bát nhã công”!

Quách Tương nói:

– Lão phải thắng đại ca ca mới là rồng là voi, còn nếu chịu không nổi một đòn, thì đến con rắn con heo lão cũng chẳng bằng! Nếu lão thắng chàng, bổn cô nương tất nhiên sẽ bái lão làm sư phụ. Có điều là lão không dám đi tìm chàng nên mới khoác lác như vậy. Bổn cô nương cho rằng lão vừa nhìn thấy bóng Dương Quá, đã hoảng hồn chạy vắt chân lên cổ.

Quốc Sư làm gì không biết kế khích tướng của Quách Tương, nhưng bình sinh lão hết sức tự phụ, vậy mà từng bại dưới tay Dương Quá, những năm qua lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, cốt đi tìm Dương Quá rửa vết nhục đại bại hồi trước, nên nói lớn:

– Ta bảo ta biết Dương Quá ở chỗ nào là nói dối cô nương, chỉ tiếc là tên tiểu tử ấy chui rúc nơi nào, ta không biết, nếu biết ta sẽ tìm đến đánh cho hắn một trận phải rập đầu xin tha.

Quách Tương cười ha ha, vỗ tay, nói:

– Lão hòa thượng huênh hoang, tự khoe vô địch thiên hạ, thấy Dương Quá ở phía đông, vội vàng lủi ngay sang phía tây.

Quốc Sư hừ một tiếng, hầm hầm nhìn nàng.

Quách Tương nói:

– Bổn cô nương tuy không biết hiện thời Dương Quá ở đâu, nhưng lại biết hơn một tháng nữa, đại ca ca nhất định sẽ đến một chỗ.

Quốc Sư hỏi:

– Hắn đến chỗ nào?

Quách Tương nói:

– Nói cho lão biết làm gì? Lão đã không dám đi gặp chàng, có nói ra lão càng thêm kinh sợ.

Quốc Sư nghiến răng ken két, giục:

– Nói đi, cứ nói ta coi!

Quách Tương nói:

– Chàng sẽ đến trước Đoạn Trường nhai ở Tuyệt Tình cốc để gặp thê tử Tiểu Long Nữ. Một mình Dương Quá đã khiến lão hoảng sợ, thêm Tiểu Long Nữ nữa, thì lão có đến Đoạn Trường nhai sẽ chỉ để chịu chết mà thôi. Giả dụ vợ chồng họ đoàn tụ vui quá, không muốn giết người, thì lão đại bại cũng sẽ đau đớn đứt ruột mà chết.

Mười mấy năm nay, Quốc Sư khổ luyện “Long tượng bát nhã công” là muốn đấu với Dương Quá và Tiểu Long Nữ khi hai người ấy liên thủ sử dụng “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”. Nếu lão chưa nắm chắc một mình đánh thắng cả hai người, thì lần này lão đã chưa thể tùy tiện trở lại Trung Nguyên. Bây giờ nghe Quách Tương nói thế, càng chạm đúng vào sự kiêng kỵ trong lòng của mình. Quốc Sư chuyển giận sang cười, nói:

– Vậy thì hai ta cùng đi đến Tuyệt Tình cốc! Nếu ta đánh bại Dương Quá và Tiểu Long Nữ, thì sao nào?

Quách Tương nói:

– Giả dụ lão có võ công cao cường như thế thật, bổn cô nương còn mong gì nữa mà không vội bái lão làm sư phụ, lúc đó mới có thể nói là cầu mà không được. Chỉ tiếc rằng Tuyệt Tình cốc là nơi u tịch, không dễ gì tìm ra nó ở đâu.

Quốc Sư nói:

– Ta đã từng đến đó, cô nương khỏi lo. Hiện thời còn sớm, cô nương hãy theo ta tới quân doanh Mông Cổ, chờ ta liệu lý vài việc, rồi sẽ cùng đi Tuyệt Tình cốc.

Quách Tương thấy Quốc Sư chịu đi Tuyệt Tình cốc tìm Dương Quá tỷ võ, thì yên tâm hẳn, nghĩ thầm: “Ta chỉ lo lão không chịu đi, giờ lão chịu rồi, thì còn sợ gì nữa? Lão ác tăng hoành hành ở đây thôi, chứ khi gặp đại ca ca thì sẽ biết tay chàng”. Nàng bèn đi theo Quốc Sư tới quân doanh Mông Cổ.

Quốc Sư dọc đường lão đối với nàng rất tử tế, hiền hòa, cũng chú ý thể hiện nhân thiện với người khác. Có lúc Quách Tương đau xót cho Trường Tu Quỷ cùng Đại Đầu Quỷ chết thảm, trách Quốc Sư xuống tay tàn nhẫn, Quốc Sư cũng không giận, nhận ra nàng là người có cá tính, không giống vương tử Hoắc Đô bẩm sinh lương bạc, liền nói vài câu tự hối lỗi.

Quốc Sư đưa Quách Tương đến quân doanh Mông Cổ, là đại doanh phía nam do hoàng đệ Hốt Tất Liệt thống lĩnh, trong khi Dương Quá lại đi tìm kiếm Quách Tương mấy ngày ở đại doanh phía bắc do đại hãn Mông Kha thống lĩnh, chỉ là do hai sứ thần Mông Cổ thuận miệng tán gẫu, Kha Trấn Ác không nghe được tường tận đầu đuôi, nên khiến Dương Quá tìm mấy ngày mà không thấy. Quân Mông Cổ tấn công Tương Dương vào tháng chín bất lợi, nên đại hãn hạ thánh chỉ, tập trung lại lương thảo, rồi mới tấn công, nên hai doanh trại Nam Bắc đều ở yên bất động tại chỗ.

Kim Luân Quốc Sư được Hốt Tất Liệt tôn trọng, ở trong quân Mông Cổ chỗ đại doanh phía nam, được hầu hạ, áo cơm, đồ dùng không khác gì mấy so với Tứ vương gia, Quách Tương nhờ đó cũng được tôn vinh, ăn ngon mặc đẹp, hết sức xa hoa, thậm chí ở Quách phủ thành Tương Dương cũng không được ưu ái đến vậy. Nàng được bốn tiểu nha đầu bên cạnh phục dịch, họ là các cung nữ Mông Cổ được tuyển chọn từ Kim triều cũ. Quốc Sư tuyên bố với mọi người rằng cô nương mỹ mạo này là ái đồ được mình truyền y bát, sau này sẽ không tầm thường. Các tướng sĩ muốn lấy lòng Quốc Sư, nên đều e dè, cung cung kính kính Quách Tương, khiến nàng tạm quên mất lo âu, cứ vỗ tay cười lớn.

Trong những ngày này, Kim Luân Quốc Sư dốc túi dạy bảo nội ngoại môn võ công bổn môn. Quách Tương ngày thường nhàm chán, liền tự luyện tập giải sầu, trong lòng mong muốn tìm cách thoát thân, nên phải chiếm được lòng tin của Quốc Sư, để lão giảm bớt phòng bị với nàng, không khẩn thủ ngày đêm nữa, vì thế giả vờ bái sư, thành tâm học tập. Nàng vốn thông minh mẫn ngộ, giờ lại chuyên chú nên tiến cảnh cực nhanh, Quốc Sư thấy nàng học hỏi nhanh hơn cả đại đệ tử năm đó, thì thập phần thích thú.

Người xuất gia theo Phật không có con cái, lòng từ ái thông thường đều dành hết cho các đệ tử truyền pháp, Quốc Sư lúc này đối với Quách Tương không khác gì một người cha yêu thương ái nữ. Quách Tĩnh đôi khi còn quát mắng con gái, nhưng Quốc Sư lại nâng niu cứ như sợ nàng bay mất. Nghĩ đến đại đệ tử yêu dấu bị bệnh mà mất sớm, nên rất sợ Quách Tương cũng giống vậy, vì thế cũng quan tâm rất nhiều về lối ăn mặc lẫn chuyện ăn uống của nàng, không cho nàng chịu chút phong hàn nào.

Quách Tương nghĩ thầm lão hòa thượng này tuy là người xấu, nhưng võ công lại cao, võ công không phân biệt tốt xấu, chỉ cần biết cách dùng sao cho đúng đắn thôi, nàng nghĩ học võ công của lão thật giỏi, rồi mang đi để chuyên làm chuyện tốt thì cũng không tồi lắm. Nàng bẩm sinh tính thoải mái hào sảng, không thích sự quan tâm quá mức của Quốc Sư, cứ như kiểu một người bà hay người mẹ, có lúc nàng chu miệng lên giận dỗi, Quốc Sư lại vội vàng tìm trăm phương nghìn cách để chọc nàng vui vẻ ra mặt. Quách Tương trong lòng nhận ra Quốc Sư đối với mình là thiệt tình yêu quý, thành ra áy náy, nên cùng nói chuyện với Quốc Sư, hóa ra lại rất ăn ý.

Để lấy lòng nàng, Quốc Sư lúc nào cũng khen Hàng long thập bát chưởng của Quách Tĩnh, thuật Ngũ hành bát quái cùng Đả cẩu bổng pháp của Hoàng Dung, lại nói Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp của Dương Quá và Tiểu Long Nữ thiên hạ vô địch, trong võ công Mật Tông chưa có kiếm pháp nào để đối lại được. Mỗi lần lão khen Dương Quá với Tiểu Long Nữ, thì Quách Tương đều rất vui mừng, Quốc Sư thử trăm lần đều như thế. Khi Quách Tương hỏi lão lần sau gặp lại họ có chịu nhận thua không, thì Quốc Sư lại ra vẻ thần bí, nói :

-Sư phụ ngươi tất có biện pháp đối phó họ. Có điều Dương Quá là đại ca của ngươi, sư phụ cùng hắn hóa thù thành bạn, khi gặp lại, mọi người làm bằng hữu tốt với nhau là được.

Quách Tương nói :

-Thế thì quá tốt, sư phụ, người đánh không lại đại ca của ta, thì làm bằng hữu cũng là cách tương đối thông minh.

Quốc Sư nói :

-Làm sao ta không thắng được hắn? Chẳng qua ta đã luyện tới tầng mười Long tượng bát nhã công, vừa ra tay đã đánh chết đại ca ngươi rồi, ngươi nhất định sẽ khóc lóc, ta thì không nỡ để ngươi bi thương như vậy nên không đánh chết hắn được.

Quách Tương nói :

-Người tâm địa tốt đó, xin đa tạ.

Nói xong cúi phục trên đất, chiếu theo lễ tiết mật tông, hướng về lão ngũ thể chạm đất mà lạy. (ngũ thể bao gồm hai tay, hai chân, và đầu)

Quốc Sư cười ha ha, nói :

-Tiểu đồ nhi, ta nói với ngươi cái này, ngươi tương tư đại ca ca như thế cũng hoài công. Dương Quá tìm được Tiểu Long Nữ, hai người sẽ khoái hoạt vĩnh viễn bên nhau, ngươi không có phần mà xen vào đâu. Còn nếu không tìm được Tiểu Long Nữ, thì hắn cũng giơ kiếm tự sát, biến thành u quỷ, ngươi cũng chẳng có phần.

Quách Tương nói :

-Ta hi vọng chàng tìm được Tiểu Long Nữ, hai người khoái hoạt vĩnh viễn bên nhau, ta cũng biết rằng làm gì có phần nào cho mình. Ta muốn phần đó làm gì? Người đúng là lo xa.

Quốc Sư nói :

-Vậy thì ngươi sẽ phiền não cả đời đúng không? Nhất sinh nhất thế đều không khoái hoạt. Mật tông ta có biện pháp đó.

Lão mở một góc lều trại, lấy ra một tay nải bằng lông cừu đỏ thẩm, lôi ra một quyển trục. Khi mở ra, trên đó là tấm vải, có chỉ kim tuyến thêu hình một người đứng giữa mây trời giống như thần tiên, đầu đội pháp quan màu đỏ, tay trái cầm một đóa sen màu hồng, tay phải cầm kiếm, chém về phía một đám tơ rối. Quốc Sư nói :

-Người được thêu trên này là Tổ sư gia, là đại sĩ Liên Hoa Sinh, chúng ta cùng đồng loạt bái lễ Tổ sư gia.

Quách Tương liền làm theo Quốc Sư, hướng bức họa mà kính chào.

Quốc Sư nói :

-Tổ sư gia tay phải cầm Trí Năng kiếm của Văn Thù Bồ Tát, chém đứt các loại phiền não rối loạn cùng các loại vọng tưởng. Còn tay trái của người cầm đóa sen, là dạy người giữ lòng thanh tịnh bình thản, tựa như hoa sen, không nửa điểm tạp bẩn cặn bã, chỉ có trên đó ánh sương sớm trong vắt, mỹ lệ an tĩnh.

Quách Tương thấy trên ảnh thêu đại sĩ Liên Hoa Sinh từ bi trang nghiêm, nhất thời rất kính nể.

Quốc Sư lại nói :

-Từ hôm nay trở đi, ta sẽ dạy người tu tập “báo thân Phật” Kim Cương Tát Đỏa, theo như lời của mật thừa Du già (Yoga). Sau khi luyện thành, lại tu tập “pháp thân Phật” Phổ Hiền Bồ Tát theo lời của Đại Du già mật thừa, Vô biên Du già mật thừa, đến cuối cùng là Vô thượng Du Già mật thừa.

Quách Tương hỏi :

-Sư phụ, muốn luyện thành Vô thượng Du già mật thừa, thì mất bao lâu?

Quốc Sư nói :

-Vô thượng Du già mật thừa vô cùng vô tận, vĩnh viễn không nói được là có thể luyện thành, cũng không thể nói được là mất bao lâu.

Quách Tương nói :

-Vậy người cũng không luyện thành sao?

Quốc Sư thở dài, nói :

-Đúng vậy, nếu ta có luyện được một chút thành tựu, thì còn mất công khổ luyện Long tượng bát nhã công làm gì? Làm sao còn khởi tâm muốn cùng Dương Quá và Tiểu Long Nữ quyết thắng bại. Thật là hồ đồ.

Quách Tương nói :

-Ai nói người hồ đồ. Không phân thắng bại thì làm sao biết ai hồ đồ, ai thông minh.

Quốc Sư lại thở thật dài, nói :

-Để ta dạy ngươi trước sáu chữ trong Đại minh chú “Án”, “ma”, “ni”, “bát”, “mê”, “hồng”, ngươi thành tâm thành ý cùng ta niệm một lần.

Quách Tương học niệm, có lúc khẩu âm có hơi không đúng, Quốc Sư cũng sửa lại cho đúng. Quách Tương nói :

-Sư phụ, Tổ sư gia là người tốt, ta tuy có bái lạy người rồi, nhưng không học cái pháp môn loại bỏ phiền não của người đâu.

Quốc Sư hỏi :

-Tại sao không học ?

Quách Tương nói :

-Ta thích có phiền não trong lòng.

Nàng nghĩ : “Không có phiền não trong lòng, tức là trong lòng không có đại ca ca, ta thích trong lòng có đại ca ca hơn”.

Quốc sư miệng niệm chân ngôn Mật tông, mong cầu thượng sư từ bi kết nạp, cảm hóa Quách Tương phát tâm đi tu, học Du già mật thừa. Giáo pháp môn phái của lão chú trọng duyên pháp cùng với thành ý của người tu tập, người ngoài không được cưỡng ép, lão đâu biết lúc này trong lòng Quách Tương lại nghĩ :”Tiếc là mình sinh muộn hai mươi năm. Nếu mẹ sinh ta trước, rồi sinh tỷ tỷ, ta học xong Long tượng bát nhã công cùng Vô thượng Du già mật thừa của sư phụ rồi, khi đó ở phía ngoài đạo quán Toàn Chân Giáo, tự xưng là Đại Long Nữ, tiểu Dương Quá ở Toàn Chân Giáo bị sư phụ bắt nạt nên chạy trốn tới nhà mình, mình sẽ thu lưu chàng, dạy chàng võ công, thì chàng từ từ sẽ thích mình. Nếu sau này chàng gặp Tiểu Long Nữ, bất quá sẽ kéo tay nàng, cho nàng ba cái kim châm rồi nói “Tiểu muội tử, muội thật đáng yêu, ta rất thích muội, nhưng lòng ta thuộc về Đại Long Nữ rồi, mong muội dừng trách cứ. Muội có chuyện gì, cứ lấy một cái kim châm đem tới đây, ta nhất định sẽ thực hiện cho muội”, ôi, giờ mình còn có một cái kim châm, mình muốn chàng mặc kệ chuyện gì xảy ra, nói cái gì cũng không được tự vẫn. Chàng là Thần điêu đại hiệp oai chấn thiên hạ, lời hứa đáng giá ngàn vàng, không, vạn vàng, triệu vàng chứ, phải chấp nhận lời mình nói, không được thất tín, không tự vẫn, nhất sinh nhất thế cũng không được tự vẫn.

Trời bắt đầu trở lạnh, Quách Tương tính toán ngày tháng tới thời điểm hẹn ước mười sáu năm giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ, thấy từ đường Hồ Nam thong thả mà đi Tuyệt Tình Cốc thì cũng phải khoảng một tháng mới đến, liền nói :

-Sư phụ, rốt cuộc người có dám đi luận võ với Dương Quá và Tiểu Long Nữ không? Nếu người một mình đánh không lại, thì hai thầy trò ta liên thủ, sử mấy chiêu Vô thượng Du già mật thừa là được.

Kim Luân quốc sư cười ha ha, nói :

-Được. Ngày mai hai ta khởi hành, đi Tuyệt Tình Cốc gặp “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”.

Lão ở cùng với Quách Tương đã lâu, rất yêu mến nàng, sớm đã thay đổi ước nguyện ban đầu, không hề muốn đem nàng ra tra tấn, uy hiếp Quách Tĩnh quy hàng. Khi Quốc Sư cùng Quách Tương khởi hành đến Tuyệt Tình Cốc, thì Dương Quá đã đi trước một ngày. Ba người cách xa nhau bất quá hơn trăm dặm thôi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung sau khi ấu nữ bỏ đi, ngày đêm thương nhớ. Những đệ tử Cái Bang phái đi tứ xứ thăm dò lần lượt trở về bẩm báo, đều nói không biết tin tức gì. Hơn mười ngày sau, đột nhiên Trình Anh và Lục Vô Song đến thành Tương Dương, mang tin của Kha Trấn Ác, nói Quách Tương đã bị bắt vào quân doanh Mông Cổ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả kinh. Ngay đêm hôm đó, Hoàng Dung và Trình Anh lẻn vào quân doanh Mông Cổ dò xét mọi chỗ, cũng như Dương Quá, không tìm ra manh mối gì. Đêm thứ ba, hai người phải đấu với các võ sĩ Mông Cổ một trận, hơn bốn chục võ sĩ vây chặt Hoàng Dung và Trình Anh, may mà võ công hai người cao cường, Hoàng Dung lại thi triển ngụy kế, mới vượt khỏi vòng vây chạy thoát về thành Tương Dương.

Hoàng Dung cho rằng nữ nhi hoàn toàn không có ở trong quân doanh Mông Cổ, nhưng vẫn không nhận được tin tức gì khác, là điềm không hay. Thăm đò được đại quân Mông Cổ lại tu tập lương thảo, không có dấu hiệu gì chứng tỏ sắp đánh xuống phía nam, sau khi bàn với Quách Tĩnh, Hoàng Dung quyết định tự rời thành đi tìm. Hoàng Dung mang theo đôi chim điêu trắng, nếu có việc khẩn cấp, có thể cho chim chuyển tin tức về. Trình Anh và Lục Vô Song không yên tâm, nằng nặc xin đi theo. Ba người vòng qua đại quân Mông Cổ, đi về hướng tây bắc. Hoàng Dung nghĩ: “Tương nhi đi chuyến này là để khuyên Dương Quá đừng tự sát. Lần trước nó đã gặp Dương Quá ở gần Đồng Quan, bến Phong Lăng, lần này chắc nó trở lại chốn cũ, mình phải tới bến Phong Lăng dò la tung tích”.

Ba người rời thành Tương Dương vào cuối mùa thu, chậm rãi vừa đi vừa hỏi dò tin tức dọc đường, không bỏ sót bất kỳ tung tích nào, đến bến Phong Lăng thì đã là đầu mùa đông. Ba người hỏi dò tất cả những người lái đò, chủ quán, phu xe, khách bộ hành ở bến Phong Lăng, đều không một ai nhìn thấy tiểu cô nương nào như thế cả.

Trình Anh an ủi:

– Sư tỷ đừng lo. Tương nhi mới chào đời một ngày, đã bị hai đại ma đầu là Kim Luân Quốc Sư và Lý Mạc Sầu bắt đi. Tục ngữ có câu đại nạn không chết, tất có phúc lớn về sau. Hồi trước hung hiểm như thế còn chẳng việc gì, nữa là bây giờ?

Hoàng Dung thở dài, không nói gì. Ba người rời bến Phong Lăng, đi loanh quanh ra bên ngoài.

Hôm nay trời nắng ấm, gió nam thổi nhẹ, tuy ở Bắc quốc, cũng có chút thời tiết xuân nhỏ tháng mười. Vùng tấn nam vừa vào đông, liền không có chút hoa cỏ gì, hôm nay tới Sơn Dương, núi cao chắn gió bắc, khí hậu ấm áp. Hoàng Dung chợt thấy một bụi hoa nở dưới bức tường đổ, màu sắc kiều diễm, nói :

-Cây thu hải đường này nở đẹp quá.

Lục Vô Song nói :

-Sư tỷ, cây này ở Giang Nam gọi là Đoạn trường hoa, không, không mang lại tốt lành gì.

Nhân lúc Trình Anh gọi Hoàng Dung là “sư tỷ”, Lục Vô Song cũng muốn vai vế cao hơn Quách Phù, nên cũng gọi theo là “sư tỷ”

Hoàng Dung hỏi :

-Tại sao lại gọi là Đoạn trường hoa?

Lục Vô Song nói :

-Trước kia có một cô nương, nghĩ đến tình lang của mình, tình lang không tới, nàng thường rơi nước mắt bên tường. Sau đó dưới chân tường mọc lên một bụi họa, lá cây màu lục, mặt sau của lá thì lại đỏ rất đẹp, người ta nói rằng hoa chỉ đỏ ở mặt sau thì thật vô tình, nên mới gọi là Đoạn trường hoa.

Trình Anh nhớ tới Dương Quá năm đó ở Tuyệt Tình Cốc ăn Đoạn trường thảo để trị độc hoa Tình, liền tới hái lấy hai cây thu hải đường cầm trong tay, nói :

-Thu hải đường còn được gọi là Bát nguyệt xuân, cũng thật đẹp. Bây giờ đã gần tháng mười một, ở đây khí hậu ấm áp, vẫn còn mọc Bát nguyệt xuân, thật không dễ gì mà có.

Nàng cầm rồi ngắm nghía cành hoa, than nhẹ :

-“Hỏi hoa, không nói một câu.

Vì đâu hoa nở vì đâu hoa tàn.

Ba phần xuân sắc hồng nhan.

Nửa tan sóng biếc nửa tàn trần ai”

Hoàng Dung thấy Trình Anh mày đen da trắng, vẫn xinh đẹp hệt như mười mấy năm trước, vậy mà khuê phòng lạnh giá, bất giác cũng đau lòng thay cho nàng. Bỗng nghe tiếng vo vo, một con ong mật bay tới, cứ lượn quanh cành thu hải đường Trình Anh đang cầm, rồi đậu trên đài hoa mà hút mật. Hoàng Dung thấy con ong này thân màu xám nhạt, to gấp đôi loài ong mật thông thường, chợt nhớ ra, nói:

– Hình như đây là giống ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ vẫn nuôi, tại sao nó lại xuất hiện ở đây?

Lục Vô Song nói:

– Đúng, chúng ta hãy đi theo con ong này, xem nó bay về chỗ nào?

Con ong hút nhụy một hồi, rời cành hoa, lượn vài vòng, rồi bay về hướng tây bắc. Ba người vội thi triển công phu khinh thân bám theo. Con ong gặp cây hoa thì dừng lại hút nhụy, hút xong lại bay tiếp, cứ bay rồi đậu, đậu rồi bay như thế, lát sau thêm hai con nữa nhập bọn. Ba người đuổi theo tới chạng vạng thì đến một sơn cốc, chỉ thấy muôn hồng nghìn tía, cảnh sắc cẩm tú, dốc núi treo liền bảy, tám đõ ong bằng gỗ. Ba con ong kia bay vào trong đõ.

Bên kia dốc núi có ba gian nhà tranh, trước cửa có hai con cáo nhỏ, đưa cặp mắt long lanh nhìn ba người khách lạ. Bỗng két một tiếng, cánh cửa gỗ mở rộng, một người bước ra, nhan sắc trẻ trung. chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Hoàng Dung cả mừng gọi:

– Lão Ngoan đồng, xem ai đến này!

Chu Bá Thông thấy Hoàng Dung thì cười ha hả, bước ra đón, nhưng được vài bước đột nhiên đỏ bừng cả mặt, quay người đi vào nhà, kẹt một tiếng, đã đóng cửa lại. Hoàng Dung lấy làm lạ, không hiểu Lão Ngoan đồng có dụng ý gì, gõ gõ cửa, gọi:

– Lão Ngoan đồng, Lão Ngoan đồng, sao thấy khách phương xa đến, lại trốn đi như vậy?

Chu Bá Thông ở bên trong nói:

– Không mở, không mở! Chết cũng không mở đâu!

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão không mở, chúng tôi sẽ thiêu cái ổ chó của lão thành tro đấy.

Chợt nghe cánh cửa gian bên trái mở ra, một người nói:

– Hoang sơn quang lâm quí khách, lão hòa thượng cung nghênh.

Hoàng Dung ngó qua, thấy Nhất Đăng đại sư tươi cười đứng giữa cửa, chắp tay hành lễ. Hoàng Dung bước lên bái kiến, cười, nói:

– Thì ra đại sư là láng giềng của Lão Ngoan đồng, thật chẳng thể ngờ. Lão Ngoan đồng không hiểu vì cớ gì lại đóng cửa không tiếp khách?

Nhất Đăng đại sư cười ha ha, nói:

– Mặc kệ y! Mời ba vị vào nhà, lão tăng thết trà!

Ba người bước vào, Nhất Đăng đại sư bưng trà xanh ra, Hoàng Dung hỏi thăm cuộc sống nơi này. Nhất Đăng đại sư nói:

– Quách phu nhân thử đoán xem, gian bên phải có ai đang ở?

Hoàng Dung nghĩ vừa rồi Chu Bá Thông bỗng dưng đỏ mặt, chui vào nhà đóng cửa lại, đã biết vì sao, cười nói:

– Sóng xuân cỏ biếc ai cười, phòng sâu sáng rét giặt đôi áo hồng. Hay quá, hay quá!

Mấy câu này chính là đoạn cuối bài từ “Tứ trương ky” năm xưa Lưu quí phi Anh Cô đã sáng tác.

Nhất Đăng đại sư hiện thời tâm thanh tịnh, ngày ngày ngồi thiền, mọi dư hận si tình năm xưa đã mỉm cười cho qua từ lâu, liền vỗ tay cười:

– Quách phu nhân thần cơ diệu toán, chuyện gì cũng đoán trúng.

Lão bước ra cửa gọi:

– Anh Cô, Anh Cô, sang đây gặp tiểu hữu năm xưa chút nào.

Lát sau, Anh Cô bưng một cái khay gỗ đựng trái cây, bánh mật ong, hạt tùng rang sang mời khách. Bọn Hoàng Dung bái kiến, năm người cười nói thật vui.

Mối cừu hận, ân oán mấy chục năm khó cởi giữa Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Anh Cô, nhưng nay ba người đã già, tu vi lại tiến xa, cùng ẩn cư ở Bách Hoa cốc, nuôi ong trồng rau, tỉa hoa tưới cây, không còn để bụng tình thế khó xử năm nào. Nhưng Chu Bá Thông bất ngờ gặp Hoàng Dung, không thể không cảm thấy ngượng ngùng, bèn đóng cửa tránh mặt. Tuy lão ở phòng bên, song vẫn dỏng tai nghe năm người trò chuyện, nghe Hoàng Dung kể cảnh náo nhiệt tại anh hùng đại yến trong thành Tương Dương, kể đến chỗ cao trào vạch trần bộ mặt thật của Hà Sư Ngã, nàng lại không kể tiếp mà lảng sang chuyện khác, Chu Bá Thông không nhịn thêm được nữa, bèn sang gian buồng của Nhất Đăng đại sư mà hỏi:

– Sau đó tên Hoắc Đô thế nào? Không lẽ hắn chạy thoát hay sao?

Đêm ấy bọn Hoàng Dung nghỉ đêm ở gian buồng của Anh Cô. Sáng hôm sau, Hoàng Dung dậy, ra ngoài sân, thấy Chu Bá Thông đang hoa chân múa tay, có một con ong đậu trên lòng bàn tay, vẻ vô cùng đắc ý.

Hoàng Dung cười, nói:

– Lão Ngoan đồng, có gì vui thế?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, bản lĩnh của ta ngày càng cao siêu, tiểu muội có thán phục hay chưa?

Hoàng Dung biết Lão Ngoan đồng bình sinh có hai sở thích, một là chơi đùa, hai là võ học, mười mấy năm nay ẩn cư hoang cốc, chắc là lại sáng tạo ra môn võ công cao minh nào đó, đại loại như thuật “phân tâm nhị dụng, song thủ hỗ bác”, rất muốn biết, bèn nói:

– Võ công của Lão Ngoan đồng, tiểu muội phục sát đất từ hồi còn nhỏ, sao còn phải hỏi? Mấy năm rồi lại nghĩ ra công phu kỳ diệu gì phải không?

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không, không phải thế. Môn võ công hay nhất gần đây là “Ám nhiên tiêu hồn chưởng”, do tên tiểu tử Dương Quá sáng tạo, Lão Ngoan đồng tự thẹn không bằng. Thôi đừng nhắc đến võ học nữa!

Hoàng Dung lấy làm lạ: “Hài tử Dương Quá thật tài tình, trẻ như Quách Tương, già như Lão Ngoan đồng, ai cũng mê hắn, không biết “Ám nhiên tiêu hồn chưởng” là môn gì?” Bèn hỏi:

– Thế bản lĩnh ngày càng cao cường của lão là gì vậy?

Chu Bá Thông giơ cao bàn tay có con ong kia lên, dương dương tự đắc nói:

– Đấy là bản lĩnh nuôi ong của ta.

Hoàng Dung bĩu môi, nói:

– Đàn ong ngọc phong này là của Tiểu Long Nữ tặng cho, có gì mà khoe?

Chu Bá Thông nói:

– Tiểu muội chưa hiểu tường tận. Ong ngọc phong mà Tiểu Long Nữ tặng ta cố nhiên là loại ong cực quí, nhưng Lão Ngoan đồng đã tạo ra được loài ong thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, đúng là khéo hơn cả tạo hóa, phép lạ ấy Tiểu Iong Nữ bì sao kịp ta?

Hoàng Dung cười ha ha, nói:

– Lão Ngoan đồng càng già càng không biết ngượng, cái món mặt dày và huênh hoang một tấc đến trời thì đúng là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có, khéo hơn cả tạo hóa.

Chu Bá Thông cũng không giận, cười hi hi, nói:

– Tiểu Hoàng Dung, ta hỏi tiểu muội, người là cái linh của vạn vật, thân mình có xăm hoa xăm chữ, hoặc xăm hình đầu rồng vuốt hổ, hoặc xăm chữ “Thiên hạ thái bình”. Nhưng trừ con người ra, trên thân thể cầm thú côn trùng có khắc chữ hay không?

Hoàng Dung nói:

– Hổ có vằn vàng, báo có gấm hoa, bướm và rắn trên thân có nhiều hoa văn gấp bội.

Chu Bá Thông nói:

– Nhưng tiểu muội đã thấy trên thân côn trùng có chữ bao giờ chưa?

Hoàng Dung nói:

– Nếu là trời sinh, thì tiểu muội chưa thấy bao giờ.

Chu Bá Thông nói:

– Được, vậy hôm nay ta cho tiểu muội được một phen đại khai nhãn giới.

Đoạn giơ bàn tay trái có con ong đến trước mắt Hoàng Dung. Chỉ thấy trên đôi cánh của con ong lớn này quả nhiên có chữ, Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên cánh phải có ba chữ “đáy tình cốc”, trên cánh trái có ba chữ “ta ở dưới”, mỗi chữ nhỏ như hạt gạo, nhưng nét bút rõ ràng, chắc là dùng kim mà xăm. Hoàng Dung kinh ngạc, miệng lẩm bẩm:

– “Ta ở dưới đáy tình cốc”, “ta ở dưới đáy tình cốc”…

Nghĩ: “Sáu chữ này quyết không phải là trời sinh, mà có người cố ý xăm thành, tính nết của Lão Ngoan đồng, thì cái việc tỉ mẩn này không phải do lão làm”.

Bèn cười, nói:

– Thế thì có gì đáng gọi là thiên hạ vô song, nhân gian hiếm có? Lão hành hạ Anh Cô, bắt Anh Cô dùng kim xăm sáu chữ ấy trên cánh ong, tưởng che mắt được tiểu muội chắc?

Chu Bá Thông vừa nghe đã đỏ mặt, nói:

– Tiểu muội cứ việc sang hỏi Anh Cô xem có phải Anh Cô dùng kim xăm hay không?

Hoàng Dung cười, nói:

– Anh Cô dĩ nhiên sẽ chối phắt cho hợp ý lão. Lão bảo mặt trời mọc ở phía tây, Anh Cô cũng sẽ bảo “Đúng thế, mặt trời mọc ở phía tây, chưa khi nào mọc ở phía đông”.

Chu Bá Thông càng đỏ mặt hơn, vừa là ngượng ngập, vừa là uất ức vì bị oan, lão thả con ong bay đi, rồi kéo tay Hoàng Dung, nói:

– Nào lại đây, ta cho tiểu muội chính mắt nhìn thấy.

Lão kéo Hoàng Dung tới bên một đõ ong ở bên dốc núi, cái đõ ong này treo riêng một chỗ, không cùng với các đõ ong khác. Chu Bá Thông giơ tay bắt hai con ong, nói:

– Nhìn đi!

Hoàng Dung nhìn kỹ, thấy trên hai cánh mỗi con ong đều có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc” hệt như con ban nãy. Nghĩ thầm: “Tạo hóa tuy kỳ lạ, cũng nhất định không có lý gì tạo ra loài ong này. Bên trong hẳn có duyên cớ”, bèn nói:

– Lão Ngoan đồng, bắt vài con nữa xem nào.

Chu Bá Thông lại bắt bốn con ong nữa, thì hai con trong đó có hai con có chữ trên cánh, hai con thì không có. Lão thấy Hoàng Dung cúi đầu trầm ngâm, tựa hồ đã chịu thua, không dám bảo là do Anh Cô xăm chữ, nên cười nói:

– Tiểu muội còn gì để nói nữa không? Hôm nay đã phục Lão Ngoan đồng hay chưa?

Hoàng Dung không đáp, cứ lẩm bẩm: “Ta ở dưới đáy tình cốc” mấy lần, chợt hiểu: “Là ai ở dưới đáy Tuyệt Tình cốc? Không lẽ là Tương nhi?” Trống ngực đập dồn, liền quay sang nói:

– Lão Ngoan đồng, đõ ong này không phải do lão nuôi, mà ong từ nơi khác bay đến.

Chu Bá Thông đỏ mặt, nói:

– Ôi, kỳ thật, làm sao tiểu muội biết?

Hoàng Dung nói:

– Làm sao tiểu muội biết ư? Thế lũ ong bay đến đây được mấy hôm rồi?

Chu Bá Thông nói:

– Lũ ong này bay đến được mấy năm rồi, ban đầu ta không để ý trên cánh có chữ, mãi mấy tháng trước đây ta mới phát giác.

Hoàng Dung hỏi:

– Có thật là đã mấy năm không?

Chu Bá Thông nói:

– Đúng thế, chẳng lẽ chuyện đó còn phải giấu tiểu muội?

Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, trở về ngôi nhà tranh, bàn bạc cùng Nhất Đăng đại sư, Trình Anh và Lục Vô Song, ai cũng cảm thấy bên dưới Tuyệt Tình cốc tất có sự lạ. Hoàng Dung nghĩ đến con, sốt ruột muốn cùng tỷ muội Trình, Lục đi thăm dò một chuyến.

Nhất Đăng đại sư nói:

– Ở đây hiện không có việc gì, lão tăng sẽ đi cùng. Lần trước lệnh ái tới đây, tiểu cô nương ấy hào hiệp khảng khái, lão tăng rất mến.

Hoàng Dung bái tạ, nhưng trong lòng thêm một tầng  lo lắng âm thầm: “Nhất Đăng đại sư chắc nghĩ Quách Tương gặp tai nạn, nếu không đã chẳng tội gì bỏ nơi thanh tu này mà đi cùng ta?” Chu Bá Thông thấy có nhiệt náo, đời nào chịu ở lại, nhất định đòi cho Anh Cô đi cùng. Hoàng Dung thấy có thêm ba vị đại cao thủ tương trợ, đỡ hẳn lo ngại, cho rằng đoàn mình sáu người thế này, bất kể đấu trí đấu lực, e rằng thời nay không có ai địch nổi, Quách Tương có rơi vào tay kẻ gian, cũng nhất định sẽ được cứu ra. Thế là sáu người cùng cặp chim điêu cùng đi về hướng Tây.

Dương Quá đến Tuyệt Tình cốc vào ngày hai tháng mười hai, còn sớm năm ngày so với ước hẹn của Tiểu Long Nữ mười sáu năm về trước. Hiện thời trời rét đậm, thời tiết lạnh giá, Tuyệt Tình cốc không một bóng người, tòa ngang dãy dọc mà vợ chồng Công Tôn Chỉ và các đệ tử áo xanh dựng nên đã bị Cầu Thiên Xích nổi lửa thiêu cháy, đổ nát hoang tàn hết cả. Dương Quá sau khi rời Tuyệt Tình cốc mười sáu năm trước, cứ dăm năm chàng lại đến đây ở vài hôm, hi vọng rằng không chừng Nam Hải thần ni động lòng từ bi, đột nhiên cho phép Tiểu Long Nữ trở về sớm hơn hạn định. Tuy mỗi lần như thế chàng đều sầu khổ ra đi nhưng coi như cũng rút ngắn được kỳ hạn dăm năm.

Lần này trở lại vùng đất cũ, nhìn cỏ dại mọc đầy, núi rừng tịch mịch, tuyết đã rơi nhiều mấy ngày trước, giờ cũng đã tan hết, vẫn không một dấu chân người, chàng bèn chạy đến trước Đoạn Trường nhai, vượt qua chiếc cầu đá, đưa ngón tay miết dòng chữ mà Tiểu Long Nữ dùng mũi kiếm khắc vào đá, các nét chữ bị rêu xanh phủ lấp lập tức hiện ra hai hàng to nhỏ.

Dương Quá khe khẽ lẩm bẩm:

– Tiểu Long Nữ dặn “Phu quân Dương lang, vô cùng trân trọng, mong ngày đoàn tụ.”

Bất giác trống ngực chàng đập dồn.

Cả ngày hôm đó, chàng cứ đứng ngây người nhìn hai dòng chữ. Đến tối thì mắc dây thừng lên hai cây mà ngủ. Hôm sau chàng đi tha thẩn trong cốc, thấy những bụi cây hoa Tình mà năm xưa chàng cùng Trình Anh, Lục Vô Song chặt phá đã không mọc nữa, thấy một bông hoa hồng rực rỡ mà chàng đặt tên là hoa Long Nữ mới nở, chàng bèn ngắt lấy, đem tới cắm bên dòng chữ ở Đoạn Trường nhai.

Chờ đợi khổ sở năm ngày, đã đến ngày mồng bảy tháng mười hai. Chàng đã hai ngày đêm liền không ngủ, hôm nay càng không rời Đoạn Trường nhai nửa bước. Từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, mỗi khi gió thổi cây rung, hoa rơi lá rụng, chàng lại giật mình, đứng bật dậy ngó quanh tứ phía, nào thấy bóng dáng Tiểu Long Nữ?

Từ khi hỏi Hoàng Dược Sư về Nam Hải thần ni ở đảo Đại Trí, biết đó là chuyện Hoàng Dung bịa đặt, nhưng hai dòng chữ kia là do Tiểu Long Nữ khắc thì không phải giả, những mong nàng nói lời thì giữ lấy lời, cuối cùng tới gặp. Nhìn vầng dương từ từ lặn xuống núi, lòng Dương Quá cũng lặng dần. Khi vầng dương bị núi che một nửa, chàng kêu to, chạy lên đỉnh núi. Đứng trên đó, thấy vầng dương tròn trặn như cũ, lòng chàng nhẹ đi, chỉ cần vầng dương còn kia, ngày mồng bảy tháng mười hai vẫn chưa hết. Ở trên đỉnh núi chờ mặt trời lặn, lại lặp tức leo lên một ngọn núi cao hơn.

Nhưng mặc dù chàng đã đứng trên đỉnh cao nhất, thì bốn phía đã bắt đầu tối đen, mặt trời rốt cuộc cũng lặn xuống dưới đất. Chàng đứng lặng, nhìn bốn phía mịt mờ, cảm thấy khí lạnh thấm vào người, bóng tối cũng đã bao trùm lấy chàng.

Cứ đứng bất động hơn một canh giờ, rồi mảnh trăng bán nguyệt thong thả lên đến đỉnh trời. Không chỉ một ngày đã hết, mà một đêm cũng sắp trôi qua.

Tiểu Long Nữ thủy chung không tới.

Dương Quá đứng ngây như tượng đá trên đỉnh núi một đêm, mãi đến lúc vầng dương mọc lên ở phía đông. Bốn phía tiếng chim ríu rít, hoa thơm thoang thoảng, ý xuân đang nồng, lòng chàng lại như băng giá, có tiếng nói văng vẳng bên tai:

– Đồ ngốc! Nàng chết từ đời nào rồi, nàng chết từ mười sáu năm trước rồi. Nàng tự biết trúng độc không khỏi, ngươi lại quyết không chịu sống một mình, nên đã tự tận, song lại lừa ngươi chờ đợi mười sáu năm. Đồ ngốc! Nàng đối với ngươi tình ý sâu nặng như thế, sao đến tận hôm nay ngươi vẫn chưa hiểu tâm ý của nàng?

Chàng như một cái xác không hồn, lảo đảo đi xuống núi, một ngày một đêm không ăn không uống, cảm thấy môi khô họng rát, bèn tới bên dòng suối vục nước mà uống. Vừa cúi xuống, thấy bóng mình trong nước, hai bên tóc mai đã bạc trắng. Chàng năm nay ba mươi sáu tuổi, sức lực dồi dào, tóc không thể bạc, nhất là nội công tinh thuần, tuy một đời gian nan nguy hiểm, song chưa hề có sợi tóc bạc nào cả, đột nhiên bây giờ thấy hai bên tóc mai bạc trắng, mặt xám ngoét lấm bụi, cơ hồ không nhận ra diện mạo của mình nữa, chàng đưa tay giật ba sợi tóc ở mép trán mà xe, thấy hai sợi đã bạc.

Thời khắc ấy, chàng bỗng nhớ mấy câu trong bài từ của Tô Đông Pha viết để cho người vợ quá cố.

Mười năm sinh tử miên man

Lòng xuân khôn dứt muôn ngàn ái ân

Quan san vạn dặm cô phần

Thê lương tình ấy phân trần nơi đâu

Tương phùng chẳng nhận được nhau

Tóc xanh mặt ngọc đượm màu phong sương

Dương Quá một đời chuyên tâm luyện võ, đọc sách không nhiều, mấy năm trước tại một tửu điếm nhỏ ở Giang Nam, chàng đọc thấy bài từ này viết trên vách, thấy tình thâm ý chân, nhẩm vài lần đã thuộc, bây giờ tự dưng nhớ lại, đã quên tác giả là ai, nghĩ bụng: “Người ấy mười năm sống chết hai đường. Ta và Tiểu Long Nữ xa nhau đã mười sáu năm. Người ấy có một nấm mộ, biết hài cốt của ái thê ở đâu, còn ta thì ái thê chôn cất ở chỗ nào cũng không biết”. Rồi chàng nhớ tiếp nửa sau bài từ, trong đó nhà thơ một đêm nằm mộng thấy ái thê:

Đêm mơ về lại cố hương

Thấy em hiên vắng soi gương chải đầu

Nhìn nhau không nói một câu

Áo xanh ướt đẫm lệ sầu chứa chan

Biết khi trăng chiếu thông ngàn

Đoạn trường chốn ấy gặp nàng được chăng?

Bất giác lòng chàng trống rỗng: “Còn ta, còn ta ba ngày ba đêm không thể chợp mắt, đến một giấc mộng cũng chẳng có!” Đột nhiên chàng nhảy bật lên, chạy đến trước Đoạn Trường nhai, nhìn trân trân hai dòng chữ Tiểu Long Nữ khắc trên đá, thét lớn:

– “Mười sáu năm sau tái hợp ở đây, phu thê thâm tình, xin đừng lỡ hẹn.” Tiểu Long Nữ ơi là Tiểu Long Nữ. Đây là những chữ chính nàng viết ra, tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét của chàng phát ra từ đáy lòng, nghe vang rền cả sơn cốc, rừng núi bốn phía hưởng ứng, đông nam tây bắc, núi non xung quanh cùng dội lại:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

– …Không giữ lời hẹn… Không giữ lời hẹn…

Tính chàng vốn quật cường mạnh mẽ, giờ thì không còn thiết gì nữa, nghĩ: “Long nhi đã qua đời từ mười sáu năm về trước, ta còn sống thêm mười sáu năm thật vô vị”.

Chàng nhìn xuống vực sâu trước Đoạn Trường nhai, chỉ thấy dưới đó đầy sương mù. Mỗi lần tới đây, chàng chưa bao giờ thấy đáy cốc vì nó luôn có mây mù che phủ. Bây giờ cũng vậy. Chàng ngửa mặt hú một tiếng dài, khiến mấy trăm đóa hoa Long Nữ đã héo trên Đoạn Trường nhai bay lả tả, nói nhỏ:

– Năm xưa nàng đột nhiên mất tích, không biết đi đâu, ta tìm nàng khắp núi non, không thấy nàng, ta đoán nàng đã nhảy xuống cái vực sâu vạn trượng này, mười sáu năm nay chăng lẽ nàng không sợ tịch mịch hay sao?

Lệ làm mờ mắt, trước mắt tựa hồ thấp thoáng bóng áo trắng của Tiểu Long Nữ, rồi dường như chàng nghe văng vẳng có tiếng gọi của nàng từ dưới đáy vực:

– Dương lang, Dương lang chàng ơi, đừng đau lòng, đừng đau lòng!

Dương Quá nhún hai chân một cái, thân hình bay lên, chàng nhảy xuống vực sâu.

Quách Tương theo Kim Luân Quốc Sư đến Tuyệt Tình cốc. Quốc Sư có khi hiểm độc hơn cả rắn rết, nhưng lão đã có ý nhận Quách Tương làm truyền nhân y bát, cho nên dọc đường lão săn sóc nàng rất chu đáo, coi nàng y như ái nữ thân sinh của mình. Quách Tương nhớ mong, không biết có thể gặp được Dương Quá hay không, có thể xin chàng đừng tự sát hay không, lo được lo mất, tâm tình khó chịu, đối với Quốc Sư trước sau vẫn lạnh lùng. Quốc Sư cả đời được người ta tôn sùng, ở Mông Cổ lão được tôn sùng như đế vương, ngay cả Tứ vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt đối với lão cũng một mực kính nể. Vậy mà suốt dọc đường cô bé Quách Tương cứ lạnh nhạt, hết chê lão võ công không bằng Dương Quá, lại trách lão hồ loạn sát nhân, làm cho đệ nhất quốc sư Đại Mông Cổ phải dở khóc dở cười.

Thời tiết càng lúc càng lạnh, Quách Tương tính toàn ngày tháng, trong lòng bồn chồn, tới một ngày, hai người đến Tuyệt Tình Cốc, bỗng nghe có tiếng thét lớn:

– Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?

Tiếng thét đầy bi thương, tuyệt vọng, khổ đau.

Quách Tương nghe tựa hồ mỗi quả núi đều hùa theo “Tại sao nàng lại không giữ lời hẹn?”

Nàng kinh ngạc nói:

– Là đại ca ca đấy, ta đi mau lên!

Nàng chạy gấp vào cốc. Kim Luân Quốc Sư thấy đại địch ở phía trước, phấn chấn hẳn lên, rút kim, ngân, đồng, thiết, diên ngũ luân từ trong túi đeo sau lưng ra cầm tay. Lão đã luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, nhưng nghĩ mười sáu năm qua Dương Quá và Tiểu Long Nữ quyết chẳng ngồi không, cũng vẫn luyện võ, nên lão không dám khinh suất.

Quách Tương chạy về phía phát ra tiếng thét, chẳng mấy chốc đã tới trước Đoạn Trường nhai, thấy Dương Quá đứng trên sườn núi, mấy chục bông hoa lớn màu hồng bay lả tả xung quanh. Nàng thấy vách núi nhô ra rất hung hiểm, mình công phu thấp kém, không dám phi thân sang, chỉ gọi:

– Dương đại ca, muội tới đây!

Nhưng Dương Quá thẫn thờ đau khổ, không nghe thấy.

Quách Tương từ xa thấy cứ chỉ của chàng khác lạ, bèn nói:

– Muội còn có một cái kim châm của đại ca ca đây, hãy nghe muội nói, dù thế nào cũng đừng tự tận…

Vừa nói, nàng vừa chạy qua cái cầu đá sang chỗ chàng. Nàng chạy được nửa chừng, thấy Dương Quá tung người nhảy xuống vực sâu vạn trượng bên dưới.

Quách Tương sợ đến hồn xiêu phách lạc, cũng không biết là để cứu Dương Quá, hay là do thâm tình muốn theo chàng lìa trần, nàng nhún hai chân, nhảy luôn theo chàng xuống vực. Kim Luân Quốc Sư đi sau bảy, tám trượng, thấy nàng nhảy thì bay người tới cứu. Lão vội thi triển khinh công, hệt như mũi tên rời khỏi cung, mau lẹ không gì bằng, nhưng đã chậm một bước, Quách Tương đã rơi xuống dưới. Quốc Sư không kịp nghĩ ngợi, sử chiêu “Đảo quải kim câu”, cúi chộp cánh tay nàng. Chiêu này rất mạo hiểm, chỉ cần sơ sảy một chút, lão cũng sẽ bị kéo ngã xuống vực. Tay lão vừa chạm vào tay áo nàng, thì nghe soạt một tiếng, tay áo của Quách Tương đã bị xé rách, thấy thân hình nàng chui qua mây mù mấy chục trượng bên dưới, nàng rơi qua đó, mây mù liền khép lại, không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Quốc Sư thở dài buồn bã, tay cầm mảnh áo rách, thẫn thờ nhìn xuống vực.

Một hồi lâu, bỗng nghe có tiếng gọi từ sườn núi đối diện:

– Gã hòa thượng kia, ở đấy làm gì vậy?

—————

Quốc Sư nhìn sang, thấy bên đó có sáu người, đi đầu là một người tóc đen dung nhan trẻ trung, chính là Chu Bá Thông. Cạnh Chu Bá Thông có ba nữ tử, Quốc Sư chỉ nhận ra Hoàng Dung, không nhận ra hai nữ tử trẻ tuổi Trình Anh và Lục Vô Song, cũng không để tâm lắm. Phía sau là một lão tăng râu tóc bạc như cước, rồi đến một hắc y lão bà, Quốc Sư chưa biết đó là Nhất Đăng đại sư và Anh Cô. Quốc Sư đã mấy lần mục kích công phu của Chu Bá Thông, biết lão đầu nhi này võ công kỳ diệu, xuất quỷ nhập thần, xưa nay trong bụng có ba phần ngán ngại, còn Hoàng Dung thì kiêm sở trường của hai nhà Đông Tà, Bắc Cái cơ biến chồng chất, là một nhân vật cực kỳ lợi hại.

Quốc Sư đã luyện thành thần công, vốn có thể giao đấu với hai nhất lưu cao thủ võ học, nhưng lúc này lão ta còn đang thương tiếc Quách Tương chết thảm, nên buồn rầu nói:

– Quách Tương cô nương ngã xuống thâm cốc rồi. Than ôi!

Nói xong thở dài một tiếng, nước mắt không ngừng rơi xuống.

Mọi người nghe thấy đều cả kinh. Hoàng Dung càng chấn động, run giọng hỏi:

– Thật vậy ư?

Quốc Sư nói:

– Ta nói dối phu nhân làm gì? Chẳng phải mảnh áo của Quách cô nương đây sao?

Đoạn lão ta giơ mảnh áo lên. Hoàng Dung nhìn, đúng là mảnh rách từ áo của nữ nhi, thì toàn thân run rẩy như sa xuống hố băng, không nói nên lời.

Chu Bá Thông tức giận nói:

– Hòa thượng thối tha, sao ngươi lại đi giết hại một tiểu cô nương? Người gì mà tàn ác thế?

Quốc Sư lắc đầu, nói:

– Không phải ta giết hại đâu.

Chu Bá Thông nói:

– Đang yên đang lành tại sao tiểu cô nương lại đi nhảy xuống vực? Ngươi không đẩy, thì cũng là ngươi bức tiểu cô nương phải nhảy xuống.

Quốc Sư thở dài, nói:

– Đều không phải. Ta có ý thu nhận Quách cô nương làm đồ đệ, truyền cho y bát, sao lại đi giết hại làm gì?

Chu Bá Thông nhổ sang một bãi nước miếng, gằn giọng:

– Thối lắm, khó ngửi lắm! Ngoại công của Tương nhi là Hoàng lão tà, phụ thân là Quách Tĩnh, mẫu thân là Hoàng Dung, mỗi một người ấy không mạnh hơn hòa thượng thối tha nhà ngươi chắc? Ngươi lại đòi Tương nhi bái ngươi làm sư phụ, nhận y bát thối tha của ngươi. Lão Ngoan đồng ta chỉ cần dạy cho Tương nhi vài môn võ mèo quào, cũng đủ đánh bại mấy cái vòng tròn sắt gỉ đồng hoen kia của ngươi!

Chu Bá Thông và Quốc Sư cách nhau rất xa, bãi nước miếng kia như một viên đạn bắn thẳng tới mặt, Quốc Sư nghiêng đầu né tránh, thầm thán phục. Chu Bá Thông thấy mình vặn cho Quốc Sư á khẩu vô ngôn, thì dương dương tự đắc, lại quát:

– Chắc là Quách Tương không bội phục mấy võ công của ngươi đúng không? Còn ngươi cứ một mực muốn nhận Quách Tương làm đồ đệ, phải vậy không?

Quốc Sư gật gật đầu. Chu Bá Thông lại nói:

– Như thế tức là ngươi đã đẩy Quách Tương xuống vực.

Quốc Sư trong lòng phiền muộn, thở dài, nói:

– Ta không đẩy. Quách cô nương tại sao tự tận, thì ta quả thật không hiểu.

Hoàng Dung tâm thần hơi trấn tĩnh, thấy Quốc Sư ảm đạm rơi lệ, thật sự là đang đau lòng chuyện nữ nhi mất mạng, ái nữ quá nửa không phải hắn ra tay đẩy xuống vực, nhưng việc này cần phải có người chịu trách nhiệm, trong lúc bi thống, không kịp hỏi rõ ràng, liền nghiến răng, giơ cây trúc bổng, xông tới chỗ Kim Luân Quốc Sư. Hoàng Dung sử tự quyết chữ “Phong”, bổng ảnh loang loáng, lập tức phong bế khoảng vài thước trước mặt Quốc Sư. Trên chiếc cầu đá rộng chưa đầy một thước, Hoàng Dung đau đớn về cái chết của nữ nhi, chiêu nào cũng đều là sát thủ.

Quốc Sư võ công tuy cao hơn Hoàng Dung, cũng không dám đánh bừa, thấy bổng pháp tinh kỳ, nếu tiếp mấy chiêu của Hoàng Dung, Chu Bá Thông xông vào trợ chiến, chỗ này địa thế quá hiểm, sẽ rất khó đối phó, bèn nhún chân trái một cái, nhảy lùi ba thước, hú một tiếng dài, đột nhiên nhảy vọt qua đầu Hoàng Dung. Hoàng Dung chọc cây bổng lên, Quốc Sư dùng ngân luân gạt đi. Hoàng Dung hít một hơi, quay mình lại. Chỉ thấy Chu Bá Thông đã đấu với Quốc Sư. Quốc Sư coi trọng thân phận một đại tông sư, thấy đối phương dùng tay không, lão ta bèn giắt ngũ luân vào thắt lưng, dùng tay không đánh trả. Hoàng Dung chạy qua cầu đá trở lại, cây bổng điểm tới sau lưng Quốc Sư.

Quốc Sư sau khi luyện “Long tượng bát nhã công” đến tầng thứ mười, hôm nay mới gặp cao thủ, đang rất muốn thử, thấy Chu Bá Thông vung quyền đánh tới, liền dùng quyền đối quyền, quyền phong của đôi bên chưa đụng nhau, đã phát ra tiếng nổ lép bép bạo liệt. Chu Bá Thông kinh ngạc, đoán quyền lực của đối phương bất thường, không dám đón đỡ, khuỷu tay hơi trầm xuống, sử dụng công phu trong Không minh quyền. Một quyền này của Quốc Sư đánh ra, lực gần ngàn cân, tuy không thể nói có đại lực của rồng của voi, song thân phàm xác trần quyết không thể ngăn cản. Nhưng khi chạm với quyền lực của Chu Bá Thông, chỉ cảm thấy nhẹ bẫng, không có chỗ nào để sử lực, lòng thầm kinh dị, tả chưởng liền vỗ ra.

Chu Bá Thông đã cảm thấy kình lực của đối phương khác hẳn thông thường, thật là chưa từng gặp. Lão tính hiếu võ, hễ biết ai có tuyệt kỹ là bám lấy để giao đấu cho bằng được, cả đời đại chiến tiểu đấu, không biết đã gặp qua bao nhiêu hảo thủ giang hồ, nhưng luồng cự lực như Quốc Sư phát ra thế này thì chưa từng nghe, chưa từng thấy, nhất thời chưa rõ môn đạo ra sao, liền sử dụng bảy mươi hai lộ Không minh quyền, lấy hư ứng thực, vận không đương cường. Như thế, tuy làm cho lực đạo khủng khiếp của Quốc Sư không có đất dụng võ, song bản thân cũng không thể đả thương đối thủ.

Quốc Sư sử mấy chiêu, lại chỉ như gãi ngứa đối phương. Lão ta vùi đầu khổ luyện mười mấy năm, xuất thủ lại vô hiệu, tất hết sức nôn nóng, chợt nghe tiếng gió rít sau lưng, cây gậy trúc của Hoàng Dung đang chọc tới huyệt Linh Đài, lập tức lật tay chưởng lại, rắc một tiếng, cây trúc bổng lập tức gãy đôi, dư lực còn lại đánh cho cát đá bay mù mịt.

Hoàng Dung kinh hãi nhảy ra, nghĩ thầm lão ác tăng năm xưa lợi hại, hiện thời còn lợi hại gấp mấy hồi xưa, chưởng lực của lão ta ghê gớm như thế là môn công phu gì vậy?

Trình Anh và Lục Vô Song thấy Hoàng Dung bất lợi, một dùng bổng bạc, một dùng trường kiếm, từ hai phía tả hữu tấn công Quốc Sư. Hoàng Dung kêu lên:

– Hai vị hãy cẩn thận!

Lời chưa dứt, rắc rắc hai tiếng, bạc bổng và trường kiếm đã gãy cả. Vì Quách Tương đã thảm tử, Quốc Sư hôm nay không muốn đả thương mạng người, chỉ quát:

– Tránh ra!

Chứ lão ta không truy kích Trình, Lục hai nàng.

Bỗng thấy một bóng đen thấp thoáng, Anh Cô đã tiến đến bên lão. Quốc Sư hất chưởng đánh vào eo lưng Anh Cô. Võ công của Anh Cô vốn thấp hơn Hoàng Dung, nhưng Anh Cô luyện môn “Nê thu công”, giỏi về né tránh; lúc cảm thấy có luồng cự kình chạm tới, lão bà vặn người hai ba lượt đã luồn lách tránh được. Quốc Sư không biết rằng võ công của Anh Cô kỳ thực chưa tới cảnh giới cao thủ nhất lưu, lão đánh liền hai quyền đều bị lão bà dùng thân pháp cổ quái tránh được, thì không khỏi kinh ngạc. Lão cứ tưởng thần công của mình đủ để tung hoành thiên hạ, ai dè có hai lão nhân còn chưa làm gì nổi họ, thì không khỏi thất vọng, không ham đánh nữa, nhảy tránh sang một bên.

Anh Cô cố gắng hết sức mới tránh thoát hai chiêu của Quốc Sư, thấy lão ta nhảy lui thì không mong gì hơn, đâu còn dám xông tới. Chu Bá Thông quát:

– Đừng hòng bỏ chạy!

Lão vọt đuổi theo.

Quốc Sư đang định đánh lại một chưởng, bỗng có một tiếng vang nhỏ nghe chíu chíu, một luồng khí nhu hòa ập tới trước mặt, chính là Nhất Đăng đại sư sử dụng công phu “Nhất dương chỉ” chính diện chặn lão lại. Quốc Sư từ đầu vốn không để ý đến bạch mi lão tăng, không ngờ công phu trong một chỉ này của đại sư lại thâm hậu đến thế.

Lúc này, công phu “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư thật sự đã đạt tới cảnh giới đăng phong tạo cực, lô hỏa thuần thanh. Luồng cang khí do chỉ phát ra tưởng như ấm áp bình hòa, song ào ạt hồn hậu, không thể chống đỡ. Quốc Sư kinh sợ nghiêng mình né tránh, rồi mới đánh trả một chưởng. Nhất Đăng đại sư thấy chưởng lực của Quốc Sư cương mãnh cực kỳ, cũng không dám tương tiếp, nhẹ nhàng thoái lui vài bước. Một người là cao tăng Nam Chiếu, một người là dị sĩ đại mạc, đôi bên trao đổi một chiêu, không ai dám coi thường đối phương. Nếu Chu Bá Thông được cùng Quốc Sư đơn đả độc đấu thì chắc chắn sẽ rất hứng thú, nhưng nếu lão cùng Nhất Đăng liên thủ giáp công địch thì lại cảm thấy nhàm chán, nên đứng một bên quan chiến.

Khoảng cách giữa Nhất Đăng đại sư và Quốc Sư bất quá chỉ vài thước, nhưng người thì phát chưởng tới, ta thì phát chỉ đi, càng lúc càng xa, dần dần cách nhau hơn một trượng, mỗi bên dùng công lực bình sinh mà đánh từ xa. Hoàng Dung đứng ngoài xem, thấy trên đỉnh đầu Nhất Đăng đại sư có một luồng bạch khí bốc lên, càng lúc càng dày, tựa như một cái lồng hấp, rõ ràng đại sư đang vận chuyển nội kình, chỉ sợ đại sư tuổi cao lực suy, không địch nổi Quốc Sư, trong lòng lại thương nữ nhi thảm tử, rất muốn xông tới liều chết một phen với kẻ thù, nhưng thấy hai bên đang chưởng lai chỉ vãng, chân lực đấu nhau nghe vang lên vù vù, quả thật không thể xen vào, đang chưa biết tính sao, bỗng nghe có tiếng chim điêu trên cao, bèn huýt sáo ra hiệu, tay chỉ Quốc Sư.

Một đôi chim điêu màu trắng vừa kêu vừa lao bổ từ trên không trung xuống đầu Quốc Sư.

Nếu là Thần điêu của Dương Quá, chắc Quốc Sư ngán ngại, còn đôi chim điêu này tuy to xác, song tiếc rằng chúng cũng chỉ là loài chim, nào có thể làm gì được y? Nhưng lúc này Quốc Sư đang dốc toàn lực chống đỡ Nhất Đăng đại sư, không thể lơi lỏng chút nào, đôi chim điêu đột nhiên lao xuống, Quốc Sư đành đẩy tả chưởng lên hai cái, hai luồng chưởng lực phân kích đôi chim điêu.

Đôi chim điêu không chịu nổi, bay vọt lên cao. Nhưng một lần gián đoạn như thế đã giúp Nhất Đăng đại sư lập tức chiếm thượng phong. Quốc Sư phải vội vận lực vào tả chưởng mới tái lập được cục diện giằng co.

Đôi chim điêu nghe Hoàng Dung huýt sáo thúc giục, song chưởng lực của kẻ địch quá mạnh, bèn hư trương thanh thế, đột nhiên kêu to, lao nhanh xuống, nhưng còn cách đầu Quốc Sư hơn một trượng, không đợi lão ta phát chưởng, đôi chim điêu đã bay lên.

Song điêu cứ thay phiên nhau lao xuống như thế, tuy không đả thương, nhưng cũng làm rối loạn tâm trí Quốc Sư. Cao thủ đối địch, phải ngưng ý chuyên chí, tinh thần thanh tịnh, nội lực mới có thể phát huy đến cực hạn, chưởng lực của Quốc Sư tuy vững chắc hơn Nhất Đăng đại sư, nhưng tu tâm dưỡng tính thì thua xa Nhất Đăng, vừa rồi đau buồn tiếc hận việc Quách Tương thảm tử, tâm thần Quốc Sư đã bất định, giờ thêm đôi chim điêu quấy nhiễu, lão ta càng cảm thấy bực tức.

Tâm ý hơi loạn, chưởng lực của lão ta lập tức cảm ứng. Nhất Đăng mỉm cười, tiến lên nửa bước. Hoàng Dung thấy Nhất Đăng tiến bước, liền nói to:

– Quách Tĩnh, Dương Quá, hai người xông tới, cùng hợp lực bắt lấy hắn!

Kỳ thực Quách Tĩnh là trượng phu của Hoàng Dung, nàng quyết không gọi thẳng kỳ danh của chàng, song tiếng gọi vừa rồi cốt làm cho Quốc Sư giật mình, chứ nếu gọi “Tĩnh ca ca”, Quốc Sư sẽ phải suy nghĩ “Tĩnh ca ca” đó là ai ? Chỉ một nhịp như thế, hiệu quả gây giật mình sẽ giảm hẳn. Quả nhiên Quốc Sư vừa nghe hai cái tên “Quách Tĩnh, Dương Quá” đã giật mình kinh hãi: “Hai hảo thủ nữa đến, lão tăng ta nguy mất thôi!”

Lúc này Nhất Đăng lại tiến thêm nửa bước. Đôi chim điêu trên trời cũng đã nhận ra cơ hội, con chim cái kêu to, lao thẳng xuống mặt Quốc Sư, dùng vuốt nhọn định móc mắt lão ta. Quốc Sư chửi:

– Nghiệt súc!

Tả chưởng đánh lên. Không ngờ động tác của con chim điêu mái chỉ là hư chiêu, cách mặt Quốc Sư hơn một trượng nó đã bay vọt lên, trong khi con chim điêu trống lẳng lặng từ bên cạnh lao xuống đánh lén, chờ khi Quốc Sư phát giác, thì móng vuốt của nó đã chạm cái đầu trọc của lão.

Quốc Sư vừa kinh ngạc vừa tức giận, phẩy tay một cái, trúng bụng chim. Con điêu chộp cái mũ vàng trên đầu Quốc Sư mà bay lên. Nhưng cái phẩy tay của Quốc Sư rất mạnh, con điêu trống đã bị trọng thương, nó bay lên một đoạn thì hết chịu nổi, đột nhiên lộn nhào, rơi thẳng xuống vực sâu vạn trượng.

Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song, Anh Cô không nhịn được cùng kêu lên. Chu Bá Thông cả giận, quát:

– Hòa thượng thối tha, Lão Ngoan đồng không quan tâm quy củ giang hồ gì nữa. Muốn lấy hai đánh một.

Đoạn vung quyền đánh tới sau lưng Quốc Sư.

Con chim điêu mái thấy con trống rơi xuống vực, thì kêu lên thảm thiết lao qua đám mây mù xuống theo, hồi lâu không thấy nó bay lên.

Kim Luân Quốc Sư trước sau đều bị tấn công, bắt đầu sợ hãi. Lão ta võ công tuy cao, nhưng làm sao địch nổi hai đại cao thủ giáp công? Lão ta không dám ham đấu, vội tung kim luân và ngân luân, phía trước ngăn chặn Nhất dương chỉ, phía sau chống đỡ Không minh quyền, trong tình thế bị hai luồng nội lực giáp công, Quốc Sư nghiêng người vụt sang bên trái, lắc người một cái đã vọt sang khe núi. Chu Bá Thông quát to, đuổi theo sau.

Quốc Sư may mắn thoát thân, đề khí chạy gấp, nghĩ nếu để Chu Bá Thông đuổi kịp, phải đấu vài trăm chiêu cũng khó phân thắng bại, khi đó bạch mi lão tăng sẽ thừa cơ hạ độc thủ, lão ta sẽ phải bỏ cái mạng già ở Tuyệt Tình cốc này. Thấy phía trước có một cánh rừng dày, Quốc Sư vội chạy về phía đó, bỗng nghe “chíu” một tiếng, một viên sỏi từ trong cánh rừng bắn ra.

Cánh rừng cách lão ta hơn trăm bước, viên sỏi kia không biết do kình lực thần kỳ nào phóng đi, mà hình thể tuy nhỏ, tiếng rít phá không khí lại mạnh dị thường, bay thẳng đến trước mặt như thế. Quốc Sư giơ ngân luân gạt đi, “cạch” một tiếng, viên sỏi vỡ nát, mảnh vụn bay tứ tung, có hai mảnh văng vào mặt, tuy mảnh vụn nhỏ bé không thể đả thương lão, nhưng cũng đau ê ẩm. Quốc Sư kinh hãi: “Viên sỏi từ rất xa bắn tới mà làm chấn động ngân luân của ta, công lực của người bắn mạnh quá, thật không thua gì Lão Ngoan đồng và bạch mi lão tăng, sao thiên hạ có nhiều đại cao thủ đến thế?”

Quốc Sư đang bối rối, thì thấy từ trong cánh rừng thong thả bước ra một lão nhân mặc áo bào xanh, tay áo rộng thùng thình, phong thái tiêu sái xuất trần. Chu Bá Thông cả mừng, gọi:

– Hoàng lão tà, gã hòa thượng thối tha ấy hại chết ngoại tôn nữ nhi của huynh, hãy mau hợp lực bắt lấy hắn!

Người trong rừng đi ra chính là Hoàng Dược Sư.

Sau khi chia tay với Dương Quá, Hoàng Dược Sư đi lên phía bắc, một hôm đang ngồi uống rượu trong một tửu điếm nhỏ ở hương thôn, lão nhìn thấy có đôi chim điêu trắng bay trên trời, biết không phải nữ nhi, thì cũng là hai ngoại tôn nữ nhi đang ở gần đâu đây, bèn lẳng lặng bám theo, đến Tuyệt Tình cốc. Lão chưa muốn để Hoàng Dung nhìn thấy, chỉ đứng quan sát từ xa, mãi đến khi thấy Nhất Đăng và Chu Bá Thông lần lượt động thủ với Quốc Sư mà không thắng, nghĩ lão tăng này quả là hảo thủ bình sinh khó gặp, thì lão cảm thấy hưng phấn, liền xuất thủ. Quốc Sư gõ hai chiếc luân vào nhau keng một tiếng, nói:

– Các hạ có phải là Đông Tà Hoàng Dược Sư?

Hoàng Dược Sư gật gật đầu, nói:

– Không sai. Đại sư có gì chỉ giáo?

Quốc Sư nói:

– Khi tại hạ ở Mông Cổ, nghe đồn Trung Nguyên chỉ có năm người lợi hại là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, hôm nay được kiến diện, quả nhiên danh bất hư truyền. Còn bốn vị kia đâu?

Hoàng Dược Sư nói:

– Trung Thần Thông, Bắc Cái, Tây Độc đã tạ thế từ lâu, vị cao tăng kia là Nam Đế, còn vị Chu huynh đây là sư đệ của Trung Thần Thông.

Chu Bá Thông nói:

– Sư huynh của ta mà còn sống thì nhà ngươi không tiếp nổi mười chiêu.

Lúc này ba người đứng thành hình chữ Đinh, vây Quốc Sư vào giữa. Quốc Sư nhìn Nhất Đăng, nhìn Chu Bá Thông, lại nhìn Hoàng Dược Sư, thở dài, ném ngũ luân xuống đất, nói:

– Nếu đơn đả độc đấu, lão phu chẳng sợ ai hết.

Chu Bá Thông nói:

– Không sai. Nhưng hôm nay không phải là buổi luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn để tranh danh hiệu võ công đệ nhất thiên hạ, ai thèm đi đơn đả độc đấu với nhà ngươi làm gì? Xú hòa thượng làm nhiều việc ác, hãy tự mình giải quyết đi.

Quốc Sư thở dài, nói:

– Năm đại cao nhân Trung Nguyên, hôm nay được gặp hai vị, lão phu có chết dưới tay các vị, cũng không uổng. Chỉ tiếc “Long tượng bát nhã công” đến lão phu thì chấm hết, trên đời không có truyền nhân.

Nói đoạn giơ hữu chưởng đánh xuống Thiên linh cái của mình.

Chu Bá Thông nghe năm chữ “Long tượng bát nhã công” liền đưa tay gạt hữu chưởng của Quốc Sư, nói:

– Khoan đã!

Quốc Sư ngạc nhiên, hỏi:

– Lão phu có thể bị giết, không chịu nhục, các hạ còn muốn gì nữa?

Chu Bá Thông nói:

– “Long tượng bát nhã công” gì đó của lão quả rất lợi hại, nếu không có truyền nhân, đừng nói lão tiếc, mà ta cũng tiếc. Tại sao lão không truyền thụ cho ta, rồi hãy tính chuyện tự sát cũng chưa muộn?

Lời nói của Chu Bá Thông hoàn toàn thành thật.

Quốc Sư chưa kịp đáp, chợt có tiếng vỗ cánh, con chim điêu mái cõng con chim điêu trống từ dưới vực bay lên, cả hai con đều ướt sũng, xem ra đáy thâm cốc là đầm nước. Con chim điêu trống lông vũ tả tơi, chỉ còn thở thoi thóp, móng vuốt chân bên phải vẫn nắm chắc cái mũ của Quốc Sư. Con chim điêu mái đặt con trống xuống đất, rồi lại bay xuống vực lần nữa, lúc bay lên cõng theo một người, chính là Quách Tương.

Hoàng Dung vừa lo vừa vui mừng, gọi to:

– Tương nhi! Tương nhi!

Rồi chạy lại đỡ nàng khỏi lưng chim điêu.

Quốc Sư thấy Quách Tương không hề hấn gì, cũng ngẩn ra. Chu Bá Thông đang giữ cánh tay Quốc Sư, mắt phải nháy với Nhất Đăng, mắt trái nháy với Hoàng Dược Sư rồi nhăn mặt. Đông Tà, Nam Đế cùng xuất thủ, Quốc Sư bị trúng chỉ ở cả hai bên sườn. Nếu là người khác, dù có điểm trúng bộ vị yếu hại, cũng chưa thể phong bế huyệt đạo của Quốc Sư, nhưng hai ngón tay của Đông Tà, Nam Đế thì thời nay không có người thứ ba sánh kịp, một người sử dụng “Đạn chỉ thần thông” tinh vi ảo diệu, một người sử dụng “Nhất dương chỉ” huyền công thông thần, Quốc Sư làm sao chịu nổi? Lão ta lảo đảo; Chu Bá Thông bồi thêm một quyền vào huyệt Chí Dương ở sau lưng Quốc Sư, cười nói:

– Nằm xuống đi!

Quốc Sư thấy Quách Tương còn sống mà vui mừng, tâm thần hơi lơ đãng trong khoảnh khắc, thì thình lình các chỗ yếu hại liên tiếp trúng chiêu, hai gối Quốc Sư mềm nhũn, lão ta từ từ ngã ngồi xuống. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông nhìn nhau, đều kinh ngạc: “Lão Tạng tăng này quả lợi hại, bị trúng đòn nặng của cả ba người mà vẫn không té ngã”.

Ba người chạy lại bên Quách Tương thăm hỏi, chỉ nghe nàng gọi:

– Mẹ, chàng ở dưới ấy, ở dưới ấy, mau, mau xuống… cứu chàng…

Chỉ nói được thế rồi mệt quá ngất xỉu. Nhất Đăng xem mạch cổ tay nàng, nói:

– Không sao, chỉ bị hoảng sợ đó thôi.

Đại sư xoa xoa sau lưng mấy cái. Lát sau Quách Tương hồi tỉnh, nói:

– Đại ca ca đâu, chàng đã lên chưa?

Hoàng Dung hỏi:

– Dương Quá cũng ở dưới ấy ư?

Quách Tương gật đầu, nói khẽ:

– Đương nhiên.

Nàng tự nhủ thầm: “Nếu chàng không ở dưới ấy, con nhảy xuống đó làm gì?” Hoàng Dung thấy nữ nhi toàn thân ướt sũng, bèn hỏi:

– Bên dưới là đầm nước à?

Quách Tương gật đầu, nhắm mắt, không còn sức nói chuyện nữa, tay chỉ xuống vực.

Hoàng Dung nói:

– Dương Quá đã ở bên dưới, chỉ có cách sai điêu nhi xuống cõng lên.

Đoạn huýt sáo gọi chim. Gọi liền mấy tiếng, không thấy đôi chim điêu bay tới. Hoàng Dung lấy làm lạ, mấy chục năm qua đôi chim điêu hễ nghe tiếng sáo là tới, chưa hề trái lệnh, tại sao hôm nay chúng lại làm như không nghe thấy hiệu lệnh của chủ? Hoàng Dung lại huýt một tiếng sáo dài, thì thấy con chim điêu mái vỗ cánh bay lên trời cao, lượn vài vòng, kêu vài tiếng oắc oắc bi thương, rồi lao thẳng xuống núi. Hoàng Dung nghĩ: “Hỏng rồi” vội gọi to:

– Điêu nhi!

Chỉ thấy con chim điêu mái lao xuống tảng đá, vỡ đầu gãy cánh mà chết tức thì. Mọi người ngạc nhiên chạy lại xem, thì ra con chim điêu trống đã chết từ lâu. Mọi người thấy con chim điêu mái thâm tình trọng nghĩa như thế, ai cũng cảm khái. Hoàng Dung có đôi chim điêu bầu bạn từ nhỏ, càng đau đớn đến chảy nước mắt.

Đột nhiên Lục Vô Song tựa hồ nghe văng vẳng bên tai tiếng hát trong trẻo của sư phụ Lý Mạc Sầu: “Hỏi thế gian tình là vật chi? Khiến cho đôi lứa tử sinh nguyện thề, song phi khách cả, trời nam đất bắc, đôi cánh già bay? qua bao đông lạnh, niềm vui sướng kia, cùng ly biệt khổ, giữa chừng lại có, những kẻ tình si, quân ứng có lời, giữa muôn trùng mây, ngàn núi tuyết chiều, chỉ bóng ai đi”

Nàng từ nhỏ theo Lý Mạc Sầu học nghệ, những lúc đêm khuya thường nghe sư phụ hát khúc ca ấy, bấy giờ nàng chưa trải thế tình, chưa hiểu thâm ý của khúc ca, lúc này nhìn thấy sau khi con chim điêu trống chết, con chim điêu mái tuẫn tình, nghĩ thầm: “Con chim điêu mái giả dụ không chết, rồi đây một mình nó bơ vơ vạn dặm tầng mây, thiên sơn một tuyết, chỉ có bóng ảnh cô đơn của nó, thử hỏi chịu sao cho thấu?” Nghĩ thế mà nước mắt rưng rưng.

Trình Anh nói:

– Sư phụ, sư tỷ, Dương đại ca đã ở dưới vực, chúng ta phải nghĩ cách cứu chàng lên mới được.

Hoàng Dung lau nước mắt, hỏi Quách Tương:

– Quang cảnh dưới đó thế nào?

Quách Tương đã phần nào trấn tĩnh tinh thần, nói:

– Hài nhi nhảy xuống, chìm thẳng xuống nước, hoảng hốt uống mấy ngụm nước. Sau không biết sao tự dưng nổi lên mặt nước, ra là Dương đại ca kéo tóc hài nhi, nâng lên…

Hoàng Dung hơi yên tâm, hỏi:

– Xung quanh đầm nước có nham thạch, có hang đá làm chỗ dung thân phải không?

Quách Tương nói:

– Xung quanh đầm nước toàn là đại thụ.

Hoàng Dung hỏi:

– Tại sao con lại nhảy xuống đó?

Quách Tương nói:

– Dương đại ca kéo hài nhi lên, câu đầu tiên cũng hỏi như thế. Hài nhi bèn lấy cái kim châm đưa cho chàng, nói: “Tiểu muội nhảy xuống bảo Dương đại ca bảo trọng thân thể, không nên tự vẫn”. Chàng cứ chăm chú nhìn hài nhi, không nói gì. Lát sau thấy con chim điêu trống rơi xuống, con chim điêu mái bay xuống cõng lên, rồi nó lại bay xuống để đưa hài nhi lên. Hài nhi bảo Dương đại ca lên trước, chàng không nói một lời, nhấc hài nhi đặt lên lưng con chim điêu. Mẹ ơi, hãy sai con chim điêu xuống lần nữa đón Dương đại ca lên đi.

Hoàng Dung tạm thời chưa nói cho Quách Tương biết cặp chim điêu đã chết, cởi áo ngoài khoác lên mình Quách Tương, quay lại nói:

– Xem ra Dương Quá nhất thời chưa bị nguy hiểm, chúng ta mau tết một sợi dây dài, thả xuống kéo Quá nhi lên.

Mọi người khen phải, tản ra bóc vỏ cây. Thoáng chốc đã bóc được không ít vỏ cây.

Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô tết thành một sợi dây dài. Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Hoàng Dung bốn người tiếp tay xé, dao cắt mà lột vỏ cây. Bốn người tuy là đại cao thủ võ lâm thời nay, nhưng làm những việc thô thiển thế này chỉ hơn ở chỗ lực mạnh, chứ vẫn thua người thợ thạo nghề, mãi đến lúc trời tối, mới tết được một sợi dây dài hơn trăm trượng, xem ra còn lâu mới đủ dài. Trình Anh buộc một hòn đá vào đầu sợi dây, đầu kia vắt qua cành một cây đại thụ, rồi tết dài dây mà thả dần hòn đá qua lớp sương mù xuống vực.

Bảy người ai nấy nội lực sung mãn, làm việc cả buổi tối không nghỉ. Đến sáng hôm sau, Quách Tương cũng giúp sức. Hoàng Dung mới hỏi mấy câu sơ qua về chuyện nàng bị Quốc Sư bắt đi như thế nào.

Sợi dây đã dài lắm, mà Dương Quá ở bên dưới vẫn không phát tín hiệu gì. Hoàng Dược Sư rút cây ngọc tiêu vận khí thổi mạnh, tiếng tiêu vọng xuống vực. Xét về lý Dương Quá nghe thấy tiếng tiêu, tất phải hú thật dài đáp lời, nhưng Hoàng Dược Sư thổi một hồi lâu, dưới vực vẫn tĩnh mịch vô thanh.

Hoàng Dung trầm ngâm, lấy kiếm chặt một cành cây dùng mũi kiếm khắc lên gỗ năm chữ: “Bình an thì trả lời”, rồi ném khúc gỗ xuống. Rất lâu sau vẫn không có tiếng hồi đáp. Mọi người nhìn nhau không khỏi lo âu.

Trình Anh nói:

– Sơn cốc tuy sâu, nhưng sợi dây cũng dài đến đáy, để tiểu muội xuống xem sao.

Chu Bá Thông nói:

– Để lão phu xuống trước!

Cũng không đợi người bên cạnh trả lời, lão chạy tới mép vực, nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống, trong giây lát đã mất hút trong sương mù, không tới nửa canh giờ thấy lão leo lên nhanh nhẹn như một con vượn, đầu tóc dính đầy rêu xanh, lão cứ lắc đầu lia lịa, nói:

– Không thấy tăm hơi, chả có Dương Quá gì hết, ngay cả Trâu Quá, Ngựa Quá cũng không có!

Mọi người nhìn Quách Tương nghi ngờ. Quách Tương ức phát khóc lên được, nói:

– Dương đại ca rõ ràng ở dưới đó, sao lại không thấy? Chàng ngồi trên một cây đại thụ trên bờ đầm ấy.

Trình Anh không nói lời nào, cứ nắm lấy sợi dây tuột luôn xuống vực, Lục Vô Song theo sau. Tiếp đó Anh Cô, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đều nắm lấy sợi dây tuột xuống.

Hoàng Dung nói:

– Tương nhi, con còn mệt, không thể xuống, đừng để ta lo thêm. Dương đại ca của con nếu ở dưới đó, chúng ta nhiều người thế này nhất định sẽ cứu được lên, hiểu chưa?

Quách Tương nóng ruột, nuốt nước mắt vâng lời. Hoàng Dung nhìn Kim Luân Quốc Sư đang ngồi một chỗ, nghĩ lão ta bị điểm huyệt, sắp qua mười hai canh giờ, người này nội công cực cao, không thể để lão ta dùng chân khí xung khai huyệt đạo, bèn bước tới điểm các huyệt Linh Đài ở lưng, Cự Quyết ở ngực, Thanh Lãnh Uyên ở hai cánh tay lão ta, rồi mới nắm lấy sợi dây tuột xuống vực. Tay nắm hơi lỏng, thân hình rơi xuống càng lúc càng nhanh, giữa chừng lại nắm chặt để rơi chậm lại, rồi lại nới lỏng, cứ thế mấy lần thì xuống tới đáy cốc.

Thấy đáy cốc quả nhiên là đầm nước trong xanh, những người xuống trước đang đứng trên bờ đầm quan sát, chưa hề thấy tung tích Dương Quá. Lại thấy trên mấy cây lớn ở bên trái đầm treo ba chục cái đõ ong lớn, cái thấp cái cao, bay quanh các đõ ong toàn là ong ngọc phong. Hoàng Dung chợt hiểu, nói:

– Chu đại ca, hãy bắt thử một con ong, xem cánh nó có xăm chữ hay không?

Chu Bá Thông bắt một con ong, xem kỹ, nói:

– Không có chữ.

Hoàng Dung quan sát hình thế xung quanh sơn cốc, thấy bốn phía đều là vách đá cao trăm trượng, không có lối đi, các cây đại thụ bên đầm nước đều kỳ hình quái trạng, không biết cây gì, ngẩng đầu, sương mù che kín, khó thấy mặt trời, đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe Chu Bá Thông reo:

– Con này có chữ, con này có chữ!

Hoàng Dung bước lại thấy trên đôi cánh con ong ấy quả nhiên có sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, đoán rằng mấu chốt là ở trong đầm nước. Trong bảy người ở đây, chỉ một mình Hoàng Dung giỏi bơi lặn. Bèn ngậm vào miệng một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn”, đề phòng trong nước có độc trùng hay rắn nước, hít một hơi, rồi nhảy xuống đầm.

Đầm nước khá sâu, Hoàng Dung lặn nhanh, lúc này thời tiết vốn đã lạnh, hồ nước lại còn lạnh hơn. Càng xuống càng lạnh, sau đó lạnh thấu xương, mở mắt ra, thấy xung quanh một màu xanh lam, tựa hồ toàn băng là băng. Hoàng Dung kinh ngạc, nhưng chưa chịu, ngoi lên mặt nước hít vài hơi, lại lặn xuống. Nhưng đến chỗ cực sâu có lực đẩy lên, càng xuống sâu lực đẩy lên càng mạnh. Hoàng Dung cố gắng hết mức cũng không thể xuống tới đáy đầm, đồng thời lại quá lạnh, xung quanh không có chỗ tựa, đành ngoi lên.

Mọi người thấy Hoàng Dung môi tím ngắt, tóc bám đầy một lớp tuyết mỏng, thì kinh hãi. Trình Anh và Lục Vô Song vội bẻ cành khô, đốt một đống lửa cho Hoàng Dung sưởi.

Quách Tương thấy mẫu thân cùng mọi người tuột cả xuống đầm, thì nghĩ: “Dương đại ca không chịu lên, ngoại công và mẹ cũng sẽ khiêng chàng lên. Rốt cuộc tại sao chàng lại muốn tự tận? Chẳng lẽ Dương đại tẩu chết rồi ư? Vĩnh viễn không gặp lại chàng nữa ư?”

Đang ngây người xuất thần, bỗng nghe Kim Luân Quốc Sư kêu to “Ối!”. Quách Tương ngoảnh nhìn, thấy Quốc Sư mặt mũi nhăn nhó, rõ ràng đang phải chịu đựng đau đớn. Nàng hừ một tiếng, nói:

-May là đại ca ca không đi lên, nếu không lão có chạy trốn cũng không thoát đâu.

Quốc Sư kêu to hơn:

– Ối đau quá!

Ánh mắt lộ rõ vẻ cầu khẩn.

Quách Tương không nhịn được, hỏi:

– Sao, đau lắm à?

Quốc Sư nói:

– Mẹ cô nương điểm huyệt Linh Đài ở lưng, huyệt Cự Quyết ở ngực, toàn thân lão phu như bị hàng ngàn con kiến đốt, đau nhức không sao chịu nổi. Tại sao Hoàng phu nhân không điểm thêm hai huyệt Đản Trung và Ngọc Chẩm kia chứ?

Quách Tương sững người, nàng từng được mẫu thân dạy phép điểm huyệt, biết Đản Trung và Ngọc Chẩm là hai đại yếu huyệt trên thân người, chỉ cần hơi bị tổn thương, có thể lập tức mất mạng, bèn nói:

– Mẫu thân bổn cô nương tạm tha chưa lấy mạng lão, lão không cảm kích, còn kêu ca nỗi gì?

Quốc Sư ngang nhiên nói:

– Nếu điểm hai huyệt Đản Trung và Ngọc Chẩm, lưng và ngực lão phu sẽ tê dại, đỡ đau nhức rất nhiều. Lão phu tu vi thâm hậu, không lẽ lại đi coi thường mạng sống của mình?

Quách Tương không tin, nói:

– Lão đừng nói dóc. Mẫu thân bổn cô nương bảo rằng đụng vào hai huyệt Đản Trung và Ngọc Chẩm là mất mạng, lão bị đau nhức thì cố mà chịu, mọi người sắp trở lên rồi đó.

Quốc Sư nói:

– Quách cô nương, suốt dọc đường lão phu đối xử với cô nương thế nào?

Quách Tương nói:

– Cũng không đến nỗi. Nhưng lão đã giết Trường Tu Quỷ, Đại Đầu Quỷ, lại làm chết đôi chim điêu của gia đình bổn cô nương, lão có đối xử tử tế mấy với bổn cô nương cũng không chuộc lại được.

Quốc Sư nói:

– Thôi được, giết người đền mạng, lát nữa cô nương giết lão phu để trả thù cho bằng hữu của cô nương cũng được. Nhưng còn suốt dọc đường lão phu đối xử tử tế với cô nương, cô nương sẽ báo đáp sao đây?

Quách Tương hỏi:

– Lão muốn báo đáp như thế nào?

Quốc Sư nói:

– Cô nương hãy điểm hai huyệt Đản Trung và Ngọc Chẩm cho lão phu đỡ khổ sở một chút, coi như đã trả ơn lão phu.

Quách Tương lắc đầu, nói:

– Lão muốn bổn cô nương giết lão, nhưng bổn cô nương không làm thế đâu.

Quốc Sư vội nói:

– Đại trượng phu một lời như dao chém đá, cô nương điểm hai huyệt ấy, lão phu nhất định không chết đâu. Lão phu còn chờ mẫu thân cô nương trở lên để cầu xin tha mạng, ai lại chết đi là sao?

Quách Tương thấy lão ta nói năng thành thật, nghĩ: “Mình hãy điểm huyệt thật nhẹ thôi xem sao”. Bèn đưa tay điểm nhẹ huyệt Đản Trung ở ngực lão ta.

Quốc Sư thở phào, nói:

– Quả nhiên dễ chịu lắm, cô nương hãy ấn mạnh chút nữa.

Quách Tương ấn mạnh thêm, chỉ thấy Quốc Sư tươi cười, không có dấu hiệu gì chứng tỏ tổn thương, sắc mặt chuyển từ màu hồng sang màu trắng, rồi lại chuyển từ màu trắng sang màu hồng.

Quốc Sư nói:

– Mạnh chút nữa!

Quách Tương theo phép điểm huyệt phụ mẫu đã dạy, ấn một cái vào huyệt Đản Trung của Quốc Sư.

Quốc Sư nói:

– Dễ chịu quá! Ngực lão phu hết đau rồi, cô nương thấy đó, lão phu không chết được, đúng chưa?

Quách Tương lấy làm lạ, nói:

– Bổn cô nương sẽ điểm huyệt Ngọc Chẩm này!

Nàng ban đầu ấn nhẹ thử, rồi mới ấn mạnh một cái.

Quốc Sư nói:

– Đa tạ, đa tạ.

Lão nhắm mắt vận khí, đột nhiên đứng bật dậy, nói:

– Đi nào!

Quách Tương kinh hãi, kêu lên:

– Lão… lão…

Quốc Sư chộp ngay lấy cổ tay nàng, nói:

– Đi mau! Kim Luân Quốc Sư ta võ công độc bộ thiên hạ, chẳng lẽ cái công phu thô thiển “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” lại không biết hay sao?

Nói đoạn kéo Quách Tương chạy đi.

Quách Tương kêu to:

– Quân lừa đảo, quân lừa đảo.

Nàng thầm hối hận: “Mình thật kém hiểu biết, ngay cái công phu thô thiển ấy cũng không biết”.

Nàng đâu biết rằng kỳ công “Thôi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt” chẳng thô thiển chút nào. Thực ra đó là nội công cực kỳ thâm ảo khó luyện của Kim Cương Tông Mông Cổ , tuy không kỳ diệu bằng phép nghịch chuyển kinh mạch toàn thân của Âu Dương Phong, nhưng cũng là một môn thần công quái dị khó luyện. Bất quá sau khi luyện xong thì cũng không có tác dụng lớn, nên rất ít người luyện. Khi Quách Tương điểm hai huyệt Đản Trung và Ngọc Chẩm, Quốc Sư ngầm đổi kinh chuyển mạch, dịch cung hoán huyệt, đem hai huyệt khác chuyển đến chỗ này. Quách Tương lúc ấn huyệt còn sợ làm cho lão ta mất mạng, kỳ thực nàng đang giải huyệt cho lão ta.

Quốc Sư kéo Quách Tương chạy được vài trượng, đột nhiên nảy sinh độc kế, thấy sợi dây dài vắt qua cành cây, chỉ cần dứt đứt nó, thì cả bọn Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng, Hoàng Dung sẽ bỏ mạng dưới đáy cốc, lão bèn chạy tới chộp sợi dây mà vận lực dứt đứt.

Quách Tương cả kinh, thúc mạnh cùi chỏ vào mạng sườn Quốc Sư. Cũng tại Quốc Sư quá mức tự đại, không đề phòng gì nàng, còn Quách Tương theo lão nhiều ngày, luyện qua nhiều võ công, tuy không có bước tiến nhảy vọt, nhưng kình lực cũng đại tăng, nên lão bị cùi chỏ thúc trúng vào huyệt Uyên Dịch. Các yếu huyệt của lão chưa được giải hoàn toàn, nội lực chưa hồi phục nên nhất thời nửa thân tê dại, trong giây lát toàn thân vô lực. Quách Tương giật mạnh một cái, cổ tay thoát khỏi bị nắm, song chưởng đặt vào lưng lão, nói:

– Bổn cô nương đẩy lão ác tăng ngã xuống vực cho chết này!

Quốc Sư cả kinh, ngầm vận nội lực xung huyệt, cười ha ha, nói:

– Công phu non kém như cô nương, đẩy ngã ta sao nổi kia chứ?

Quách Tương mềm lòng, không đành lòng thật sự liều màng với lão, kế đến là không biết thời cơ trôi qua nhanh chóng, lúc này Quốc Sư huyệt đạo chưa được giải hết, nàng chỉ cần đẩy mạnh một cái, lão ta sẽ ngã xuống vực hoặc phải nhanh tay lập tức điểm các huyệt đạo trên người lão ta, thì lão ta cũng chẳng tài gì kịp hoán chuyển huyệt đạo.

Nhưng nàng từng thấy ban nãy mình điểm hai huyệt Đàn Trung và Ngọc Chẩm mà lão ta chẳng việc gì, lại còn giúp lão giải huyệt, có điểm huyệt nữa cũng vô dụng, bèn tung mình nhảy đi, chạy tới bên vách núi, nói:

– Bổn cô nương sẽ chết theo mẫu thân!

Rồi nàng định bụng có gì sẽ nhảy xuống vực. Quốc Sư cả kinh, hít một hơi dài, xung phá huyệt Uyên Dịch vừa bị Quách Tương điểm, không kịp dứt đứt sợi dây, vội đuổi theo nàng. Quách Tương chạy len lỏi giữa các mô đá và thân cây. Nếu ở chỗ đất bằng, Quốc Sư chỉ cần nhảy vài bước cũng đủ đuổi kịp nàng, nhưng trước Đoạn Trường nhai toàn những cổ mộc quái thạch, nàng cứ len chỗ này lách chỗ kia thoăn thoắt, Quốc Sư chạy loanh quanh một hồi, cuối cùng sử chiêu “Nhạn lạc bình sa” từ trên cao chụp xuống, mới chộp được cánh tay nàng.

Quách Tương kêu to:

– Mẹ ơi!

Quốc Sư vội lấy tay bịt miệng nàng. Đúng lúc ấy từ xa vẳng lại tiếng gọi của Lục Vô Song:

– Tiểu Quách Tương đâu rồi?

Quốc Sư giật mình, nghĩ thầm: “Tiếc quá, thế là mất cơ hội rồi!” Lão đưa tay điểm á huyệt của Quách Tương rồi kéo nàng chạy đi. Thực ra lúc ấy cơ hội vẫn còn, mới chỉ có một mình Lục Vô Song leo lên, nếu Quốc Sư chạy đến dứt đứt sợi dây, Lục Vô Song làm sao cản nổi? Chỉ vì lão ta đã nếm đòn của Chu Bá Thông, Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư, may giữ được tính mạng, nên bỗng nhiên nghe có tiếng người liền tưởng cả đám người kia đã leo lên, đâu dám sinh sự.

Bọn Hoàng Dung ở dưới đáy cốc tìm kiếm một hồi, không thấy tung tích gì, bốn phía cũng không có vệt máu, xem ra Dương Quá không bị sao cả, mọi người bàn nhau, đành leo lên trước rồi định liệu sau. Người đầu tiên bám dây leo lên là Lục Vô Song, tiếp đến Trình Anh, Anh Cô.

Khi Hoàng Dung lên đến nơi, nghe bọn Trình Anh, Lục Vô Song và Anh Cô gọi to: “Tiểu Quách Tương đâu rồi?” thấy nữ nhi và Quốc Sư biến mất, thì lo cuống cuồng, vội leo lên cây cao quan sát. Đợi Nhất Đăng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông lên đủ, bảy người tìm khắp Tuyệt Tình cốc một lượt cũng chẳng thấy tung tích hai người.

Ra đến cốc khẩu, thấy có một chiếc hài của Quách Tương rơi dưới đất, Trình Anh nói:

– Sư tỷ đừng lo, Quốc Sư đem Tương nhi đi xuống phía nam đây. Tương nhi để lại chiếc hài, để chúng ta cùng biết. Hài tử này thông minh cơ trí, thật chẳng thua mẹ nó.

Hoàng Dung nhớ lại câu nói của nữ nhi, rằng Quốc Sư chỉ bức nó bái lão ta làm sư phụ, muốn truyền y bát cho nó, nghĩ nhất thời không có gì nguy hiểm, mới bớt lo.

Comments

comments


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.