Thế là mọi người ở lại Tương Dương để trò chuyện. Chu Bá Thông không thể không khoe khoang khả năng chỉ huy đàn ong Ngọc Phong của mình. Gần tiết Thanh minh, các trạm gác thăm dò rõ ràng được đại quân Mông Cổ quả thực đã lui quân. Đám Quách Tĩnh lặng lẽ đi thành hàng ra cổng thành phía bắc, hướng thẳng tới Hoa Sơn. Bọn Lục Vô Song, huynh đệ họ Võ, Điểm Thương Ngư Ẩn thương thế chưa lành, nên ngồi ở trong xe lớn dưỡng thương. Những người còn lại thì cưỡi ngựa, chậm rãi mà đi. Cũng may đây là việc không gấp, nên mỗi ngày chỉ đi mấy chục dặm thì dừng lại nghỉ ngơi.
Theo tập tục Trung Hoa, từ trước đến nay nếu đi thăm mộ, tảo mộ, nếu không phải là vào tiết Thanh Minh thì cũng là ngày Trung Dương, gọi là “Xuân Thu nhị tế”. Mấy ngày sau đã đến Hoa Sơn, những người bị thương dưỡng thương dần trên đường, đến nay cũng đã thuyên giảm nhiều. Đoàn người lên núi, Dương Quá chỉ chỗ mai táng Hồng Thất Công và Âu Dương Phong, Hoàng Dung lúc còn ở dưới chân núi đã mua sẵn gà, rượu, thực phẩm, bây giờ liền nổi lửa nấu mấy món ăn mà sinh thời Hồng Thất Công thích nhất để cúng. Quần hùng nhất nhất vái lạy.
Mộ phần của Âu Dương Phong nằm ngay bên cạnh Hồng Thất Công. Quách Tĩnh đối với Âu Dương Phong thù sâu như biển, nghĩ đến việc Âu Dương Phong ngoan độc giết hại ngũ hiệp là ân sư của chàng như Chu Thông, Toàn Kim Phát, tuy đã cách mấy chục năm, song vẫn vô cùng oán hận. Chỉ có Dương Quá nghĩ đến tình xưa, cùng Tiểu Long Nữ quì vái trước mộ. Chu Bá Thông bước đến vái một cái, nói:
– Lão độc vật ơi lão độc vật, lão sinh tiền tác ác đa đoan, sau khi chết lại nằm cạnh lão khiếu hóa, cũng có thể nói là may mắn ba đời. Hôm nay người người đều đến cúng viếng lão khiếu hóa, chỉ có hai đứa nhóc con tới khấu đầu trước mộ lão mà thôi, lão nằm dưới đất có biết hẳn cũng hối hận về sự tàn bạo ngày trước của mình đấy nhỉ?
Lời khấn của Lão Ngoan đồng sáng tạo khác người, ai nghe cũng thấy tức cười.
Mọi người lấy chén đũa ra, định ngồi ăn uống ngay bên mộ, bỗng nghe từ sau núi theo gió vọng lại tiếng binh khí va chạm nhau cùng tiếng la hét, hiển nhiên có người đang động thủ. Chu Bá Thông giành chạy trướcq về phía phát ra tiếng huyên náo. Mọi người chạy theo sau. Qua hai cái thung lũng, thì thấy trên một bãi đá bằng phẳng tụ tập ba, bốn chục nam nữ tăng tục, tay người nào cũng lăm lăm binh khí.
Đám người kia cãi cọ ầm ĩ, thấy đoàn người Chu Bá Thông, Quách Tĩnh… chạy đến, chỉ tưởng là khách du sơn, nên cũng chẳng buồn để ý. Một đại hán cao lớn nói to:
– Mọi người cứ làm loạn cả lên thế này không được. Danh hiệu “Đệ nhất võ công thiên hạ” quyết không phải cứ to mồm là giành được. Hôm nay các lộ hảo hán đều tụ tập ở đây, tại sao mọi người không dựa vào binh khí, quyền cước mà thư hùng một phen? Chỉ cần người nào luôn thắng không bại, mọi người đều phục, sẽ tôn làm “Đệ nhất võ công thiên hạ”.
Một đạo nhân râu dài vung kiếm nói:
– Đúng đấy. Võ lâm tương truyền có một sự kiện trọng đại tên là “Hoa Sơn luận kiếm”. Hôm nay chúng ta cũng thử luận một phen, xem rốt cuộc ai là người đứng đầu anh hùng đương thời?
Những người còn lại vỗ tay khen phải, rồi có mấy người nhảy ra trước, nói to:
– Ai dám ra nào?
Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư nhìn nhau, vì cả đám người kia không một ai quen mặt.
Cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” lần thứ nhất, Quách Tĩnh còn chưa ra đời, bấy giờ Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông vì tranh nhau bộ “Cửu Âm chân kinh” mà ước định với nhau lên đỉnh Hoa Sơn luận võ mà đánh giá, ai võ nghệ cao nhất sẽ được sở hữu, kết quả Trung Thần Thông Vương Trùng Dương độc quán quần hùng, được tôn là “Đệ nhất võ công thiên hạ”.
Hai mươi lăm năm sau, Hoàng Dược Sư lại đến Hoa Sơn luận kiếm, lúc đó Vương Trùng Dương đã tạ thế, ngoài Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, còn có thêm ba người tham gia là Chu Bá Thông, Cầu Thiên Nhận, Quách Tĩnh. Mỗi người tu vi tinh thâm, đều có sở trường riêng, nhưng thật sự đạt bốn chữ “Đệ nhất thiên hạ” thì cũng khó nói, luận võ công đơn thuần, tựa hồ Âu Dương Phong lúc phát điên là mạnh nhất, phải đến khi Hoàng Dung sử kế mới mới khiến hắn sợ quá chạy mất. Không ngờ mấy chục năm sau, lại có một đám hảo thủ võ lâm hẹn nhau làm cuộc “Hoa Sơn luận kiếm” lần thứ ba. Việc này khiến đoàn Hoàng Dược Sư vô cùng kinh ngạc, càng lạ nữa, là mấy chục người kia toàn người lạ, chẳng lẽ đúng là “Trường Giang sóng sau đè sóng trước, một lớp người mới hơn lớp người cũ”? Chẳng lẽ cả đoàn người mình đều là ếch ngồi đáy giếng, không biết rằng ngoài trời có trời, trên người có người?
Chỉ thấy đám kia nhảy ra sáu người, chia làm ba cặp sử dụng binh khí bắt đầu động thủ. Sau vài chiêu, bọn Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông… đều không nhịn được mà bật cười, ngay cả Nhất Đăng đại sư là người trang nghiêm hiền từ cũng phải tủm tỉm. Thêm vài chiêu nữa thì Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Dương Quá, Hoàng Dung… có người chỉ cười, có người ôm bụng cười phá lên. Nguyên lai sáu người động thủ võ công quá ư tầm thường, ngay với huynh đệ họ Võ, tỷ muội Quách gia cũng còn thua xa. Xem chừng bọn này chỉ là một nhóm người ngông cuồng trong giang hồ, không biết nghe ở đâu được bốn chữ “Hoa sơn luận kiếm”, nên cũng kéo đến bắt chước bừa.
Sáu người kia nghe đoàn Chu Bá Thông cười to thì ngừng đấu, nhảy tách ra, gằn giọng quát:
– Đúng là một bọn chán sống muốn chết! Các lão gia đây đang tỷ võ luận kiếm, tranh danh hiệu “Đệ nhất võ công thiên hạ”, các người lại hi ha cái gì. Mau mau xéo xuống núi, sẽ được bọn ta tha mạng.
Dương Quá cười ha ha, hú một tiếng dài, sơn cốc tứ phía âm vang, ngay lập tức tựa như gió quạt mặt đất, mây mù tụ lại. Đám người kia thoạt tiên tái mặt, rồi thân hình run rẩy, nghe tiếng ù ù bất tuyệt, các thứ binh khí đều rơi xuống đất.
Dương Quá quát:
– Tất cả cho ta thử với!
Đám người kia ngẩn ngơ một hồi, đột nhiên bảo nhau cắm đầu cắm cổ chạy xuống núi, binh khí cũng không dám nhặt, thoáng chốc đã không còn một bóng người.
Anh Cô, Quách Phù… cười gập cả bụng, cười không nói được. Hoàng Dược Sư thở dài, nói:
– Bọn ngông cuồng lừa đời lấy tiếng vẫn còn khá nhiều, nhưng không ngờ trên đỉnh Hoa Sơn lại có hạng người như vậy.
Chu Bá Thông nói:
– Thiên hạ “Ngũ Tuyệt” năm xưa, Tây Độc, Bắc Cái, Trung Thần Thông thì đã đã tạ thế, cao thủ đương thời liệu có mấy người xứng danh “Ngũ Tuyệt”?
Hoàng Dung cười, nói:
– Nhất Đăng đại sư và gia gia của tiểu muội công lực còn thâm hậu hơn trước, năm xưa đã nằm trong “Ngũ Tuyệt”, hiện nay còn gì để nghi ngờ chứ. Nghĩa đệ Quách Tĩnh của Chu huynh được Bắc Cái chân truyền, có thể xứng đáng. Quá nhi tuy trẻ tuổi nhưng võ công trác tuyệt, anh tài mấy lứa trẻ không ai sánh kịp, huống hồ còn là nghĩa tử của Âu Dương Phong. Đông và Nam là hai vị cũ, Tây và Bắc hai vị tất do nghĩa đệ của Chu huynh và Dương Quá kế thừa.
Chu Bá Thông lắc đầu, nói:
– Không đúng, không đúng!
Hoàng Dung hỏi:
– Sao lại không đúng?
Chu Bá Thông nói:
– Âu Dương Phong là Tây Độc, tên tiểu tử Dương Quá thủ đoạn và tâm địa đều không tàn độc, gọi nó là tiểu độc vật thì hơi oan cho nó.
Hoàng Dung cười, nói:
– Tĩnh ca ca cũng không làm khiếu hóa tử, Nhất Đăng đại sư hiện cũng không còn làm hoàng đế nữa rồi. Tiểu muội thấy nên đổi ngoại hiệu của mấy vị đi. “Đông Tà” của gia gia muội đã là danh hiệu gắn liền cả đời, khỏi cần đổi. Nhất Đăng đại sư hiện không còn làm hoàng đế, đang làm hòa thượng, nên gọi là “Nam Tăng”, Quá nhi thì tiểu muội tặng cho chữ “Cuồng”, các vị thấy có được không?
Hoàng Dược Sư là người đầu tiên khen hay, nói:
– Đông Tà, Tây Cuồng, một già một trẻ, hai ta chính thành một cặp.
Dương Quá nói:
– Thiết tưởng tiểu tử ít tuổi, tu vi nông cạn, sao có thể thể sánh vai với các vị tiền bối được.
Hoàng Dược Sư nói:
– A ha, tiểu huynh đệ, huynh đệ nói thế sai rồi. Huynh đệ đã có chữ “Cuồng” trong ngoại hiệu, thì cứ cuồng một chút đã sao? Hơn nữa, với danh tiếng lừng lẫy, võ công cao cường như huynh đệ hiện giờ, chẳng lẽ còn chưa thắng Lão Ngoan đồng hay sao?
Hoàng Dược Sư biết nữ nhi cố ý không nhắc đến Chu Bá Thông là muốn khích cho lão ngứa ngáy trong lòng, chỉ đơn giản là châm chọc lão một chút. Dương Quá cũng hiểu tâm ý của hai cha con Hoàng Dược Sư, nên nhìn Tiểu Long Nữ mỉm cười, nghĩ: “Chữ Cuồng quả có lý”.
Chu Bá Thông nói:
– Nam Đế, Tây Độc đều đổi ngoại hiệu, còn Bắc Cái thì đổi thành gì?
Chu Tử Liễu nói:
– Hào kiệt thiên hạ thời nay khi nhắc đệ tử Quách huynh đều gọi là Quách đại hiệp, mà không gọi tên. Quách huynh mấy chục năm nay khổ thủ thành Tương Dương, bảo cảnh an dân, lòng hiệp nghĩa như thế, cái dũng nhất thời của Chu Gia, Quách Giải thời cổ quyết không sánh kịp. Đệ nói gọi Quách huynh là Bắc Hiệp, chắc ai ai cũng tâm phục.
Nhất Đăng đại sư, Võ Tam Thông đều vỗ tay khen hay. Hoàng Dược Sư nói:
– Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, bốn người đều có rồi, còn Trung ương thì ai giữ đây?
Đoạn nhìn Chu Bá Thông một cái, nói tiếp:
– Dương phu nhân là truyền nhân duy nhất của phái Cổ Mộ. Năm xưa Lâm Triêu Anh nữ hiệp võ công trác tuyệt, Ngọc nữ kiếm pháp xuất thần nhập hóa, ngay cả Trùng Dương Chân Nhân cũng phải e ngại ba phần. Bấy giờ giả dụ Lâm nữ hiệp tham gia cuộc “Hoa Sơn luận kiếm”, đừng nói danh hiệu “Ngũ Tuyệt” đã khác đi, ngay Trùng Dương Chân Nhân cũng vị tất được tôn xưng là “Đệ nhất võ công thiên hạ”. Võ nghệ của Dương Quá là do phu nhân truyền thụ, đệ tử được xếp vào “Ngũ Tuyệt”, sư phụ càng xứng đáng. Vậy địa vị Trung ương thuộc về Dương phu nhân.
Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:
– Địa vị ấy, tiểu nữ không thể nào dám nhận.
Hoàng Dược Sư nói:
– Thế thì thuộc về Dung nhi. Hoàng Dung võ công tuy không cực mạnh, nhưng túc trí đa mưu, cơ biến chồng chất, xưa nay trí vẫn thắng lực, xếp Hoàng Dung vào “Ngũ Tuyệt” là xứng đáng.
Chu Bá Thông vỗ tay reo cười:
– Hay lắm, hay tuyệt! Hoàng lão tà, Quách đại hiệp gì gì, Lão Ngoan đồng nói thực, đều không tâm phục, chỉ có con nhãi Hoàng Dung tinh linh cổ quái, Lão Ngoan đồng hễ gặp là như bị trói chân trói tay, không cựa quậy nổi, thực sự khẩu phục tâm phục. Xếp Hoàng Dung vào “Ngũ Tuyệt” là hay nhất.
Mọi người nghe vậy đều sững sờ, luận về võ lực mạnh, đám người Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đều tự biết còn thua Chu Bá Thông ba phần, sở dĩ chưa nhắc đến tên lão, chỉ là vì muốn chọc tức cho lão cuống lên để vui cười một phen. Ai ngờ Chu Bá Thông ngây thơ hồn nhiên, trong lòng không so đo tính toán chút gì, tuy bẩm sinh hiếu võ, song hoàn toàn không có ý tranh hùng dương danh, chẳng hề tính xếp mình vào hàng “Ngũ Tuyệt”.
Hoàng Dược Sư cười, nói:
– Lão Ngoan đồng ơi là Lão Ngoan đồng, huynh mới thật sự ghê gớm. Hoàng lão tà ta coi nhẹ cái danh, Nhất Đăng đại sư coi cái danh là hư ảo, chỉ có Chu huynh trong lòng trống không, còn không tồn tại ý niệm về chữ “danh” luôn, so ra còn cao hơn bọn tiểu đệ một bậc. Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng, trong “Ngũ Tuyệt”, huynh đứng đầu!
Mọi người nghe mười một chữ “Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng” thì nhất tề reo hò, song cũng tức cười.
Địa vị “ Tân Ngũ Tuyệt” đã định xong, người người hoan hỉ, liền tản đi các nơi trên đỉnh Hoa Sơn mà thưởng ngoạn phong cảnh.
Dương Quá chỉ đỉnh Ngọc Nữ nói với Tiểu Long Nữ:
– Hai ta học “Ngọc nữ kiếm pháp”, đỉnh Ngọc Nữ kia không thể không đến xem.
Tiểu Long Nữ nói:
– Đúng vậy.
Hai người dắt tay nhau lên đỉnh núi, thấy có một ngôi miếu nhỏ, cạnh miếu có tạc một con ngựa đá. Đây là miếu Ngọc Nữ. Trong miếu, trên một phiến đá lớn có một chỗ lõm sâu, nước đọng ở đó xanh ngắt.
Dương Quá năm xưa từng lên Hoa Sơn, tuy chưa thăm đỉnh Ngọc Nữ, song từng nghe Hồng Thất Công kể về các thắng cảnh trên núi, bèn nói với Tiểu Long Nữ:
– Đây là cái chậu gội đầu của Ngọc Nữ, nước trong quanh năm không cạn.
Tiểu Long Nữ nói:
– Chúng mình vào trong điện bái lạy Ngọc Nữ đi.
Vào trong điện, thấy tượng thần Ngọc Nữ dung mạo xinh đẹp, phong tư uyển chuyển, rất giống bức chân dung sư tổ Lâm Triêu Anh trong tòa Cổ Mộ. Hai người cùng kinh ngạc.
Tiểu Long Nữ nói:
– Không lẽ vị nữ thần này chính là tổ sư bà bà của chúng mình?
Dương Quá nói:
– Tổ sư bà bà đương niên hành hiệp thiên hạ, có ơn với nhiều người, người ta nhớ đến ân đức mà lập miếu thờ để cung phụng, không chừng đúng là tổ sư bà bà.
Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:
– Nếu là một tiên cô thông thường, hà tất còn có một con ngựa đá? Chắc là để tưởng nhớ con ngựa của tổ sư bà bà.
Hai người kề vai quỳ lạy trước tượng Ngọc Nữ, tâm ý tương thông, cùng lầm rầm khấn:
– Nguyện đời đời kiếp kiếp hai chúng con được kết làm phu phụ.
Bỗng có tiếng bước nhẹ vào điện. Hai người đứng dậy, thấy Quách Tương đi vào. Dương Quá vui mừng nói:
– Tiểu muội tử, hãy cùng hai ta đi chơi nhé!
Quách Tương nói:
– Vâng!
Tiểu Long Nữ cầm tay Quách Tương, ba người ra khỏi điện.
Qua một cái cầu đá, đến một núi cao, thấy ở lưng chừng núi có một cái đầm lớn. Quách Tương ngó xuống đầm, chỉ thấy từ dưới đầm một luồng hàn khí xộc lên, không khỏi rùng mình. Cái đầm lớn này sâu không thấy đáy, khác hẳn với cái vực sâu ở Tuyệt Tình cốc. Cái vực ở Tuyệt Tình cốc bị sương mù bao phủ, nhìn từ trên xuống không biết quang cảnh bên dưới thế nào, người ta cứ việc tha hồ tưởng tượng. Cái đầm này thì nhìn rõ ràng ngay trước mắt, có điều là càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm mà sợ. Tiểu Long Nữ kéo tay Quách Tương, nói:
– Cẩn thận!
Dương Quá nói:
– Cái đầm này nghe đồn nó thông ra tận Hoàng Hà, là một trong tám hồ chứa nước lớn nhất thiên hạ. Đời Đường phương bắc bị đại hạn, Đường Huyền Tông từng viết lời khấn cầu mưa lên mặt mảnh ngọc, rồi ném xuống đầm này.
Quách Tương nói:
– Cái đầm này thông ra tận Hoàng Hà thật ư? Lạ quá nhỉ?
Dương Quá cười, đáp:
– Là người xưa tương truyền thế thôi, chưa ai lặn xuống, khó biết có thông ra hay không.
Quách Tương hỏi:
– Lúc Đường Huyền Tông ném mảnh ngọc xuống đầm, có Dương quý phi ở bên cạnh nhà vua hay chăng? Sau đó trời có mưa hay không?
Dương Quá cười ha ha, nói:
– Chuyện ấy sao tiểu muội lại hỏi ta, ông trời muốn mưa thì mưa, không muốn mưa thì nắng, vị tất nghe lời cầu xin của hoàng đế lão nhân.
Quách Tương nhìn đăm đăm xuống đầm, rầu rầu nói:
– Đó, dù là cao quý như đế vương, cũng chưa chắc muốn sao được vậy.
Dương Quá thầm nghĩ: “Tiểu cô nương này mới một chút tuổi đầu mà đa sầu đa cảm thế. Phải tìm cách làm cho tiểu cô nương vui lên mới được”. Đang tìm lời an ủi, thì Tiểu Long Nữ động kêu “Ôi kìa” và nói:
– Ai lên núi thế kia?
Dương Quá nhìn theo tay chỉ của Tiểu Long Nữ, thấy dưới chân núi có hai người đang luồn lách trong lớp cỏ cao đi lên. Hai người ấy khinh công rất cao, luồn lách rất khôn khéo kín đáo, rõ ràng sợ bị người ta phát hiện, nhưng Tiểu Long Nữ nhãn lực hơn hẳn người thường, vẫn phát hiện từ xa.
Dương Quá nói nhỏ:
– Hai kẻ kia lén lén lút lút, võ công lại rất lợi hại, lên Hoa Sơn tất có duyên cớ, chúng ta hãy nấp vào một chỗ xem họ giở trò gì.
Ba người liền nấp vào sau tảng đá và gốc đại thụ mà đợi.
Qua một hồi lâu, nghe có tiếng bước chân vọng tới. Lúc này trời đã nhá nhem. Vầng trăng non treo phía trên ngọn đại thụ. Quách Tương dựa vào bên người Tiểu Long Nữ, hoàn toàn không quan tâm đến hai kẻ đang đi lên núi. Nàng nhìn mặt nghiêng của Dương Quá, bỗng nghĩ: “Ước gì suốt đời mình được ở bên cạnh đại ca ca, Long tỷ tỷ như thế này, thì không còn mong gì hơn”. Lúc này nàng chỉ muốn thời gian dừng lại, vĩnh viễn không trôi qua tình cảnh mỹ mãn này, dù trong thâm tâm biết rằng điều đó quyết không thể xảy ra.
Tiểu Long Nữ trong bóng tối nhá nhem vẫn nhìn rất rõ, thấy dưới hàng mi dài và cong của Quách Tương có ngấn nước mắt, nghĩ bụng: “Thần tình tiểu cô nương hơi lạ, không biết có tâm sự gì. Mình và Quá nhi phải tìm cách giúp tiểu cô nương vui lên mới được”.
Chỉ nghe hai kẻ kia đã lên đến đỉnh núi, nấp sau một khối nham thạch lớn, lát sau, một người lên tiếng:
– Tiêu Tương huynh, Hoa Sơn rừng thẳm núi cao, khắp nơi có thể ẩn thân. Chúng ta lánh ở đây vài ngày, con lừa trọc ấy dù có thần thông quảng đại đến mấy, cũng chưa chắc tìm thấy. Chờ khi lão ta đi nơi khác tìm, hai ta hãy đi sang phía Tây.
Dương Quá không nhìn thấy mặt hai kẻ kia, nghe khẩu âm, kẻ vừa nói chính là Doãn Khắc Tây, còn “Tiêu Tương huynh” tất là Tiêu Tương Tử. Chàng nghĩ: “Đám võ sĩ Mông Cổ sang Trung Nguyên ta lộng hành, Kim Luân Quốc Sư, Ni Ma Tinh, Hoắc Đô đã đền tội. Đạt Nhĩ Ba, Ma Quang Tá làm ít điều ác, chỉ còn hai gã Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây. Lần trước mình đã tha mạng cho hai tên này, nhưng xem ra chúng làm ác không chịu hối cải; chẳng hiểu lại đến giở trò gian ác gì đây?”
Chỉ nghe Tiêu Tương Tử trọng điệu lo âu nói:
– Doãn huynh đừng mừng vội, con lừa trọc tìm chưa thấy chúng ta, lão nhất định sẽ canh giữ ở cửa động dưới chân núi. Chúng ta tùy tiện đi xuống là rơi vào tay lão.
Doãn Khắc Tây nói:
– Tiêu Tương huynh thâm mưu viễn lự, nói rất đúng, vậy huynh có cao kiến gì?
Tiêu Tương Tử nói:
– Đệ nghĩ trên núi này có rất nhiều tự quán, chúng ta chọn một chỗ vắng vẻ, bất kể trụ trì là hòa thượng hay đạo sĩ, ta đều hạ thủ giết quách, chiếm lấy tự quán, ở lại ít lâu. Con lừa trọc ấy quyết không thể ngờ hai ta lại ở trên núi lâu như vậy. Lão ta sẽ nôn nóng tìm kiếm vài lượt, rình dưới chân núi vài tháng rồi cũng bỏ đi thôi.
Doãn Khắc Tây vui mừng nói:
– Kế của Tiêu Tương huynh hay lắm!
Hắn mừng rỡ nên nói to hơn.
Tiêu Tương Tử vội nói:
– Đừng lớn tiếng!
Doãn Khắc Tây nói:
– Chết, đệ mừng quá quên biến đi mất.
Tiếp đó hai gã hạ thấp giọng, Dương Quá không nghe rõ, thầm lấy làm lạ: “Hai tên này e ngại một vị hòa thượng, sợ vị hòa thượng đó truy đuổi. Hai tên này võ công rất lợi hại, hiện thời ngoài mấy vị như Hoàng đảo chủ, Nhất Đăng đại sư, Quách bá bá, ít ai có thể địch nổi chúng, huống hồ hai tên này liên thủ lại càng lợi hại, không biết vị cao tăng ấy là ai mà làm cho chúng run sợ như vậy? Mà không biết vì sao lại phải khổ sở truy đuổi hai tên ác nhân này bằng được làm gì?” Lại nghĩ: “Tiêu Tương Tử nói sẽ giết người chiếm chùa, chủ ý tàn ác, mình đã biết trước, làm sao có thể bỏ qua?”
Có tiếng Quách Phù gọi vang vọng phía xa:
– Dương đại ca, Dương đại tẩu, nhị muội… Dương đại ca, Dương đại tẩu, nhị muội… về ăn cơm… về ăn cơm thôi!
Dương Quá ngoảnh lại nhìn Tiểu Long Nữ và Quách Tương, xua xua tay, bảo họ đừng lên tiếng đáp ứng. Một hồi sau, Quách Phù không gọi nữa.
Bỗng nghe từ lưng chừng núi có tiếng quát:
– Hai vị bằng hữu mượn sách không trả, hãy ra đây gặp nào!
Tiếng quát vang vọng núi rừng, hiển nhiên nội lực cực kỳ sung mãn, tuy không uy mãnh, nhưng công lực tinh thuần như thế thật chẳng thua gì tiếng hú của Dương Quá.
Dương Quá kinh ngạc, nghĩ: “Trên thế gian còn có một vị cao thủ như thế mà mình lại chưa biết!”
Chàng hơi nhô người ra nhìn về phía người nói, dưới ánh trăng thấy có một vệt xám mau lẹ vô luân, chạy nhanh lên núi, nhìn kỹ gồm hai người, một hòa thượng áo xám dắt một gã thiếu niên. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây nấp trong cỏ cao, không dám thở mạnh. Dương Quá thấy thân hình và bộ pháp của vị hòa thượng thì kinh ngạc: “Người này khinh công chưa chắc cao hơn mình và Long nhi, nhưng còn phải dắt theo một người mà chạy lên dốc núi như bay, nội lực thâm hậu có thể sánh ngang với Quách bá bá, Nhất Đăng đại sư. Tại sao trên giang hồ chưa hề nghe nhắc đến nhân vật này?”
Vị hòa thượng chạy lên gần mé trái, nhìn tứ phía, không thấy tung tích Tiêu, Doãn hai gã, bèn chạy sang quả núi mé tây. Quách Tương không nhịn được, gọi:
– Này hòa thượng, hai kẻ kia núp ở đây này!
Tiếng gọi vừa dứt, nghe chíu chíu, có hai ngọn phi chùy, một mũi táng môn đinh bắn nhanh tới chỗ Quách Tương đang nấp. Dương Quá phẩy tay áo cuốn lấy ba mũi ám khí. Quách Tương nội công không sâu, tiếng gọi truyền đi không xa, vị hòa thượng lại chạy quá nhanh nên không nghe thấy tiếng gọi của nàng. Quách Tương thấy hòa thượng vẫn chạy đi xa hơn, vội nói:
– Đại ca ca, mau gọi họ lại đi.
Dương Quá ngâm lên:
– Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng!
Hai câu này từng chữ vang đi rất xa. Vị hòa thượng đang chạy ở lưng chừng quả núi bên kia lập tức dừng chân, ngoảnh đầu lại, nói:
– Phiền cao nhân chỉ điểm bến mê.
Dương Quá lại ngâm:
– Đi mòn hài sắt tìm không thấy, có lúc lại gặp chẳng tốn công.
Vị hòa thượng cả mừng, dắt gã thiếu niên chạy như bay trở lại.
Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây nghe tiếng ngâm của Dương Quá thì hoảng sợ, nhìn nhau ra hiệu, từ trong bụi cỏ chạy vọt sang mé đông. Dương Quá thấy vị hòa thượng cước lực tuy nhanh, nhưng khoảng cách khá xa, trên Hoa Sơn này khắp nơi đầy bụi cỏ, thạch động, nếu để hai tên ác nhân kia lẩn đi, đêm tối thế này khó bề tìm được, bèn giơ ngón tay búng một cái, một ngọn phi chùy xé gió bay vút đi, chính là dùng thứ ám khí ban nãy Tiêu Tương Tử đã tập kích Quách Tương. Dương Quá chưa biết vị hòa thượng tìm hai tên kia về chuyện gì, chưa muốn lấy mạng chúng, mũi phi chùy bay vụt qua trước mặt chúng chừng một thước, gió quạt vào mặt như dao cắt, hai gã “A” một tiếng nhỏ, quay đầu sang mạn bắc. Dương Quá lại búng một mũi táng môn đinh, buộc hai gã chuyển hướng.
Hai lần ngăn chặn như thế, vị hòa thượng kia đã chạy tới gần. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây biết khó bề thoát thân, bèn rút binh khí cầm tay, đứng kề vai nhau, một gã cầm cây tang bổng, một gã cầm nhuyễn tiên. Sợi Kim long tiên ngọc ngà châu báu của Doãn Khắc Tây đã bị Dương Quá làm gãy nát ở cung Trùng Dương, sợi nhuyễn tiên này tuy cũng gắn ít vàng ngọc, nhưng không hoa lệ huy hoàng bằng Kim long tiên ngày trước.
Vị hòa thượng nhìn bốn phía, thấy người giúp mình không xuất hiện, thì chưa thèm để ý đến hai tên Tiêu, Doãn kia, mà chắp tay thi lễ về phía trống không, nói:
– Tiểu tăng Giác Viễn ở Thiếu Lâm tự kính tạ cư sĩ cao nghĩa.
Dương Quá nhìn vị hòa thượng, thấy thân hình cao cao, phong thái nho nhã, nếu không mặc tăng bào thì giống như một thư sinh tướng công. So với vị hòa thượng này, Hoàng Dược Sư có ba phần sơn lâm phóng túng hơn, Chu Tử Liễu thì có ba phần quý khí chốn triều đình kim mã ngọc đường. Hòa thượng Giác Viễn tuổi trạc ngũ tuần, quả thực là “bụng có sách vở, khí tự tỏa ra.” Tư thế nghiêm trang, vững vàng, rộng lớn, hào quang tỏa sáng, đúng là một vị túc nho uyên thâm quảng bác, một danh gia kinh thuật. Dương Quá không dám xem thường, liền từ chỗ nấp bước ra, vái dài đáp lễ, nói:
– Tiểu tử Dương Quá bái kiến đại sư.
Chàng nghĩ: “Phương trượng, thủ tòa Đạt Ma viện, thủ tọa La Hán đường của Thiếu Lâm tự mình đều quen biết, tu vi võ công của hai người ấy xem chừng không bằng vị cao tăng này, tại sao mình chưa hề nghe họ nhắc đến vị này?”
Giác Viễn cung kính nói:
– Tiểu tăng được Dương cư sĩ tôn phạm, may mắn quá chừng.
Rồi bảo gã thiếu niên đứng bên cạnh:
– Mau khấu đầu chào Dương cư sĩ đi.
Gã thiếu niên bước lên quì lạy, Dương Quá đáp nửa lễ. Lúc này Tiểu Long Nữ và Quách Tương cũng đều xuất hiện, Giác Viễn chắp tay rất mực cung kính.
Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đứng chôn chân tại chỗ; nếu xông tới động thủ, tự biết không phải là đối thủ của Giác Viễn, Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nếu bỏ chạy, cũng hoàn toàn không thể thoát thân. Hai gã đứng đó, mắt láo liên, chỉ mong chờ có cơ hội để ám toán.
Dương Quá nói:
– Thủ tòa La Hán đường Vô Sắc thiền sư của quí tự hào sảng khoáng đạt, tương giao với tại hạ đã hơn mười năm. Sáu năm trước, tại hạ có được phương trượng quí tự Thiên Minh thiền sư mời đến núi Thiếu Thất lễ Phật, được trò chuyện với phương trượng và Thủ tòa Đạt Ma viện Vô Tướng thiền sư, mở rộng tầm mắt. Có lẽ khi ấy đại sư đi vắng, nên tại hạ không có duyên bái kiến.
Thần điêu đại hiệp Dương Quá danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, song Giác Viễn lại không biết, chỉ nói:
– Thì ra Dương cư sĩ có quen biết Thiên Minh sư thúc, Vô Tướng sư huynh và Vô Sắc sư huynh. Tiểu tăng nhận một chức vị an nhàn ở Tàng kinh các, ba chục năm nay không hề bước ra khỏi cửa, chỉ vì chức phận thấp kém, nên không dám giao tiếp với quí khách đến bản tự.
Dương Quá thầm lấy làm lạ: “Thiên hạ thật là rộng lớn, bậc kỳ tài dị năng nơi nào cũng có. Vị Giác Viễn đại sư này võ công tuyệt thế mà giấu kín không lộ, trong Thiếu Lâm tự e rằng cũng không ai hay biết, nếu không Vô Sắc giao hảo với mình như thế, nếu biết bản tự có một nhân vật cỡ đó, hẳn đã kể với mình”.
Dương Quá và Giác Viễn đối đáp với nhau, cánh Hoàng Dược Sư đã nghe thấy, biết mé núi này có chuyện, bèn nhất tề kéo đến. Trong lúc Dương Quá và Giác Viễn nói chuyện, mọi người đã tới nơi, Dương Quá liền dẫn kiến mọi người. Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Hoàng Dung nổi danh đã mấy chục năm trong võ lâm, có thể nói bất cứ ai trong giang hồ cũng đều biết, riêng Giác Viễn lại không hề biết tên tuổi họ, chỉ cung kính hành lễ và sai gã thiếu niên vái lạy mọi người. Mọi người thấy Giác Viễn uy nghi, nghiêm trang, cũng không khỏi kính nể.
Giác Viễn thi lễ xong, bèn chắp tay nói với Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây:
– Tiểu tăng giám quản Tàng kinh các, chỉ một trang giấy bị mất, tiểu tăng cũng bị nghiêm trách, cuốn kinh thư mà hai vị đã mượn, xin trả lại cho, thật cảm đại đức.
Dương Quá vừa nghe đã biết Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây ăn cắp cuốn kinh thư gì đó ở Tàng kinh các của Thiếu Lâm tự, nên Giác Viễn mới nhất quyết đuổi theo, song thấy đối với hai tên đạo tặc, Giác Viễn còn nói năng tử tế thì thật không ngờ.
Doãn Khắc Tây cười hi hi nói:
– Đại sư nói sai rồi. Hai chúng tôi gặp bất hạnh, may được đại sư thi ân thu lưu, báo đáp còn chưa kịp, ai lại đi mượn kinh thư của đại sư mà không trả lại, phiền đại sư phải cất công theo đòi? Hơn nữa, hai chúng tôi hoàn toàn không phải là đệ tử cửa Phật, đi mượn kinh thư của đại sư làm gì kia chứ.
Doãn Khắc Tây xuất thân buôn bán châu báu, miệng lưỡi giảo hoạt, lời hắn vừa nói nghe cũng có lý. Nhưng cánh Dương Quá thừa biết hắn và Tiêu Tương Tử không phải là người lương thiện, kinh thư mà chúng đánh cắp cũng không phải là kinh Phật thông thường, mà hẳn là quyền kinh kiếm phổ của phái Thiếu Lâm.
Cứ như tâm tính của Dương Quá, chỉ cần nhảy tới giáng cho mỗi tên một chưởng, lục soát kinh thư trong người chúng là xong, hà tất phải phí lời? Song Giác Viễn là người nho nhã, lại nói với mọi người:
– Sự việc thế nào, tiểu tăng xin thưa cùng các vị, mong các vị bình đạo lý cho.
Quách Tương không nhịn được, liền nói:
– Đại sư, hai người này lén lút nấp ở chỗ kia, bàn nhau giết người cướp chùa, làm cho đại sư tìm bọn chúng không được. Nếu họ không có tâm hành ác, thì sao lại có mưu đồ xấu xa như vậy?
Giác Viễn hướng về phía Tiêu, Doãn hai gã, nói:
– Tội quá, tội quá, hai vị cư sĩ có nghiệt tâm như thế, hãy sớm thành tâm hối cải.
Mọi người thấy Giác Viễn nói năng hành sự có phần cổ hủ, tựa hồ hoàn toàn không rõ thế sự, đối với hai tên gian ác mà lại khuyên chúng thành tâm hối cải, thì không khỏi tức cười.
Doãn Khắc Tây thấy Giác Viễn không động thủ, mà định nói lý lẽ, thì có thêm vài phần hi vọng, bèn nói:
– Mọi người cần phải bình đạo lý cơ mà?
Giác Viễn gật đầu, nói:
– Thưa các vị, một hôm tiểu tăng đang đọc kinh thư trong Tàng kinh các, bỗng nghe sau núi có tiếng ẩu đả, rồi có người kêu cứu. Tiểu tăng chạy ra xem, thấy hai vị cư sĩ đây nằm dưới đất, bị bốn võ quan Mông Cổ đánh cho chỉ còn thở thoi thóp, tiểu tăng không nỡ lòng nào, liền tới khuyên bốn vị võ quan, rồi dìu hai vị cư sĩ bị thương vào Tàng kinh các nghỉ ngơi. Xin cứ hỏi hai vị cư sĩ đây, có đúng vậy không?
Doãn Khắc Tây nói:
– Không sai. Đúng là như thế, bởi vậy hai chúng tôi vô cùng cảm kích ơn cứu mạng của đại sư.
Dương Quá hừ một tiếng, nói:
– Với võ công của hai vị cư sĩ này, đừng nói bốn võ quan Mông Cổ, dù bốn chục, thậm chí bốn trăm võ sĩ Mông Cổ cũng không đánh ngã nổi. Quân tử chỉ có thể bị lừa bằng trá kế, Giác Viễn đại sư đã rơi vào kế của hai tên này rồi.
Giác Viễn lại nói:
– Hai vị đây dưỡng thương một ngày, nói nằm một chỗ buồn quá, xin tiểu tăng cho mượn kinh thư. Tiểu tăng thiết nghĩ hoằng pháp quảng đạo là việc tốt, mấy khi được hai vị cư sĩ nảy sinh tuệ căn, thân cận Phật pháp, thế là liền cho họ mượn đọc mấy bộ kinh thư. Ai ngờ có một buổi tối hai vị cư sĩ này nhân lúc tiểu tăng tham thiền nhập định, lại lấy đi bốn quyển “Kinh Lăng Già” mà tiểu đệ tử Quân Bảo đang tụng. Tự tiện lấy đi, không mở miệng hỏi, khó tránh khỏi vi phạm cái đạo của bậc quân tử, vậy xin hai vị trả lại cho.
Nhất Đăng đại sư Phật học tinh thâm, Chu Tử Liễu theo hầu sư phụ lâu ngày, cũng từng đọc không ít kinh Phật, nghe nói thế, đều nghĩ: hai kẻ này lấy trộm kinh thư trong Thiếu Lâm tự, mình cứ ngỡ chỉ là sách quyền kinh kiếm phổ, ai dè lại là bốn quyển “Kinh Lăng Già”. Bộ “Kinh Lăng Già” tuy là do Đạt Ma tổ sư sở truyền tới phương đông, nhưng trong kinh lại chép rằng đó là yếu chỉ thuyết pháp của Phật Như Lai trên đảo Lăng Già, minh tâm kiến tính, tuyên thuyết Phật pháp Đại thừa, không liên quan gì đến võ công. Hai tên ác nhân này lấy trộm mang đi làm gì? Hơn nữa “Kinh Lăng Già” trong thiên hạ nơi nào cũng có, không phải là bí tịch bất truyền, vì sao Giác Viễn lại truy đuổi đến cùng, tất bên trong có chuyện gì đây.
Chỉ nghe Giác Viễn nói:
– Bốn quyển “Kinh Lăng Già” ấy là bản sao chép lại từ bản kinh khắc trên vỏ sò mà Đạt Ma tổ sư mang theo khi đi sang phía đông, vẫn viết bằng văn tự Thiên Trúc không đổi một chữ, cực kỳ trân quý, hai vị cư sĩ không thể biết, chứ đó là vật báu truyền thụ bao đời của Thiếu Lâm bổn tự.
Mọi người chợt hiểu: “Thì ra là bản sao từ kinh thư khắc trên vỏ sò mà Đạt Ma tổ sư mang theo từ Thiên Trúc, thật không phải tầm thường.”
Doãn Khắc Tây cười hi hi, nói:
– Hai chúng tôi không biết văn tự Thiên Trúc, ai lại đi mượn đọc bộ kinh ấy? Tuy gọi là báu vật, nhưng đem bán cũng chẳng đáng giá bao nhiêu. Trừ cao tăng Phật gia, chẳng ai thiết đến nó. Mà các đại hòa thượng hóa duyên qua ngày, làm gì có tiền bạc để mua.
Mọi người nghe hắn giảo biện đã tức giận, riêng Giác Viễn vẫn khí độ ung dung mà nói:
– Bộ “Kinh Lăng Già” tổng cộng có bốn bản dịch Hán văn khác nhau, hiện còn giữ được ba bản. Một là bản dịch của Bạt Đà La thời Lưu Tống, tên là “Lăng Già A Bạt Đa La bảo kinh”, gồm bốn quyển, người đời gọi là “Bốn quyển Lăng Già”, văn bản tương đồng với kinh thư mà Đạt Ma tổ sư truyền lại, có thể đối chiếu được. Hai là bản dịch thời Nguyên Ngụy của Bồ Đề Lưu Chi dịch, tên là “Nhập Lăng Già kinh” gồm mười quyển, người đời gọi là “mười quyển Lăng Già”. Ba là bản dịch thời nhà Đường của Bảo Thoa Nan Đà, tên là “Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh” gồm bảy quyển, người đời gọi là “Bảy quyển Lăng Già”, đều là ra sau. Trong ba bản dịch ấy, bản “Bảy quyển Lăng Già” dịch lưu loát, dễ hiểu nhất, tiểu tăng có mang theo đến đây nếu hai vị cư sĩ tâm cận Phật pháp, tiểu tăng sẵn lòng gửi tặng. Nếu hai vị muốn bản “Bốn quyển Lăng Già” hoặc bản “Mười quyển Lăng Già”, cũng không phải là không thể, tiểu tăng sẽ đi tìm mang tới.
Nói đoạn rút từ trong ống tay áo ra bản “Bảy quyển Lăng Già”, đưa cho gã thiếu niên, sai mang tặng Doãn Khắc Tây.
Dương Quá nghĩ thầm: “Vị Giác Viễn đại sư này cổ hữu bất kham, ít thấy trên đời, chẳng trách bộ kinh thư do đại sư giám quản bị hai tên ác nhân lấy đi.”
Chỉ nghe chàng thiếu niên nói:
– Sư phụ, hai kẻ kia có mưu đồ bất lương, họ lấy mất bộ kinh quý, đâu phải là có tâm cận Phật pháp?
Chàng thiếu niên thân hình nhỏ bé, nhưng lời nói chứng tỏ trung khí sung mãn, giọng vang như chuông.
Mọi người thấy chàng ta diện mạo kỳ dị, trán nhọn gáy nhỏ, ngực rộng chân dài, mắt tròn tai to, tuy chỉ độ mười hai, mười ba tuổi, nhưng rất chững chạc, uy nghiêm.
Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:
– Vị tiểu huynh đệ này cao tính đại danh là gì?
Giác Viễn nói:
– Tiểu đồ họ Trương, tên Quân Bảo, từ nhỏ sống trong Tàng kinh các, giúp tiểu tăng tưới cây, quét nhà, phơi sách, tuy hắn gọi tiểu tăng là sư phụ, kỳ thực hắn chưa quy y, vẫn còn là tục gia đệ tử.
Dương Quá khen:
– Danh sư xuất cao đồ, đệ tử của đại sư khí vũ bất phàm.
Giác Viễn nói:
– Sư phụ không phải danh sư, nhưng tên đồ nhi này thì quả là bất phàm. Chỉ tiếc tiểu tăng tu vi nông cạn, không khỏi thiệt thòi cho nó. Quân Bảo, hôm nay ngươi được gặp nhiều bậc cao sĩ, đúng là tam sinh hữu hạnh, ngươi hãy thỉnh giáo các vị. Tục ngữ có câu “Nghe người khôn nói chuyện một buổi hơn đọc sách mười năm”.
Trương Quân Bảo đáp:
– Vâng.
Chu Bá Thông nghe Giác Viễn cứ nói vòng vo đâu đâu mãi, tuy sự việc không liên quan đến mình, nhưng cũng là người đầu tiên hết nhịn nổi, lên tiếng:
– Này hai gã Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây kia, hai đứa bay lừa được vị đại hòa thượng chứ không lừa nổi Lão Ngoan đồng này. Hai đứa bay có biết “Ngũ Tuyệt” thời nay gồm những ai không?
Doãn Khắc Tây nói:
– Không, xin nói cho biết.
Chu Bá Thông dương dương đắc ý nói:
– Được, hai đứa bay đứng cho vững mà nghe đây: Đông Tà, Tây Cuồng, Nam Tăng, Bắc Hiệp, Trung Ngoan Đồng. Trong “Ngũ Tuyệt”, Lão Ngoan đồng này đứng đầu, hiểu chưa. Lão Ngoan đồng đã đứng đầu “Ngũ Tuyệt”, lời nói tất nhiên có sức nặng. Bộ kinh thư ấy ta nói là hai đứa bay lấy trộm, tức là hai đứa bay lấy trộm. Cho dù không phải hai đứa bay lấy trộm, thì nó cũng đang ở trong người hai đứa bay, mau lấy ra trả cho đại hòa thượng! Nếu trì hoãn, ta sẽ giật đứt mỗi đứa một cái lỗ tai, rồi tính sau. Hai đứa bay thích bị giật đứt tai bên trái hay bên phải nào?
Nói đoạn lão xoa xoa hai tay chuẩn bị động thủ.
Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cau mày, thầm biết Lão Ngoan đồng võ công rất cao, nói sao làm vậy đang chưa biết làm thế nào, thì Giác Viễn nói:
– Chu cư sĩ nói sai rồi! Thế sự không qua được một chữ “Lý”. Bộ “Kinh Lăng Già” hai vị cư sĩ nếu đã mượn, tức là đã mượn. Nếu không mượn, tức là không mượn. Nếu quả thật hai vị cư sĩ không mượn, thì có lý nào lại vu cho họ lấy trộm?
Chu Bá Thông cười ha hả, nói:
– Các vị xem đại hòa thượng này có ra sao không? Ta giúp y đòi lại bộ kinh, y lại đi thanh minh cho kẻ cắp, buồn cười quá? Đại hòa thượng, ta nói cho hòa thượng biết, dù ta có tội thì tất sẽ chịu tội, không có tội thì cũng muốn chịu tội. Bộ kinh ấy nếu quả thật chúng không lấy trộm, thì ta sẽ bắt hai đứa nó đến Thiếu Lâm tự lấy trộm ngay trong hôm nay. Nói tóm lại, quân trộm cắp là quân trộm cắp, chưa trộm cắp, thì sẽ trộm cắp. Hôm qua chưa trộm cắp, ngày mai tất trộm cắp, hôm nay đã trộm cắp, ngày mai tiếp tục trộm cắp.
Giác Viễn gật đầu lia lịa, nói:
– Chu cư sĩ nói rất hợp với Phật lý. Phật gia nói sắc tức là không, không tức là sắc, ranh giới giữa sắc và không, vốn không nên phân định một cách gượng ép. Nói “lấy trộm sách” e bất nhã, chi bằng nói là “không hỏi cứ mượn”. Hai vị cư sĩ nếu đã có cái tâm “không hỏi cứ mượn”, thì dù chưa “không hỏi cứ mượn”, thể nào cũng “không hỏi cứ mượn”.
Mọi người nghe hai bên nói lý, một người cổ hủ, một người cả vú lấp miệng em, ai cũng có cái lý của mình, nếu cứ tiếp tục, không biết bao giờ mới dừng.
Dương Quá cướp lời Chu Bá Thông, nói với hai gã Tiêu, Doãn:
– Hai đứa ngươi giúp Mông Cổ xâm phạm cương thổ của bọn ta, giết hại bách tính nước ta, có chết cũng chưa hết tội. Nhưng hôm nay có hai võ hiệp cao tăng Nhất Đăng đại sư và Giác Viễn đại sư ở đây, nếu ta xuất thủ giết hai đứa ngươi, hai vị cao tăng hẳn không đành lòng. Vậy ta chỉ cho hai con đường cho hai đứa ngươi tự lực chọn, một là ngoan ngoãn đưa trả bộ kinh thư, từ nay không được đặt chân lên Trung Thổ. Hai là mỗi đứa tiếp một chưởng của ta, sống chết tùy vận khí của từng đứa.
Doãn, Tiêu nhìn nhau, không dám tiếp lời. Hai gã từng ăn đòn của Dương Quá, thừa biết một chưởng của chàng, chúng không thể chịu nổi. Doãn Khắc Tây nghĩ: “Chỉ cần qua được hôm nay, mai sau luyện thành võ công, sẽ trở lại báo thù rửa hận. Trong đám người kia, chỉ có Giác Viễn hòa thượng là dễ nói chuyện nhất, muốn thoát nạn, phải dựa vào gã hòa thượng ấy”, bèn nói:
– Dương đại hiệp, chuyện giữa tại hạ và đại hiệp, để sau hãy tính. Đại hiệp võ công cao hơn tại hạ, tại hạ không dám đắc tội với đại hiệp. Còn chuyện có mượn kinh thư hay không, cứ để Giác Viễn đại sư bàn tính tỉ mỉ với hai chúng tôi, việc ấy đâu có liên quan đến Dương đại hiệp?
Dương Quá chưa trả lời, Giác Viễn đã gật đầu lia liạ, nói:
– Đúng, đúng thế, Doãn cư sĩ nói rất có lý.
Dương Quá lắc đầu cười khổ, ngoảnh đầu lại, thấy Trương Quân Bảo mục quang long lanh, ngọ nguậy muốn hành động. Dương Quá bèn nháy mắt, ngụ ý bảo cậu ta cứ hành động, chàng sẽ đứng sau hỗ trợ.
Trương Quân Bảo hiểu ý, nói to:
– Doãn cư sĩ, hôm ấy tiểu tử đang đọc kinh ở hành lang, cư sĩ lẻn đến sau lưng tiểu tử, điểm huyệt tiểu tử rồi lấy đi bốn quyển “Kinh Lăng Già”, chuyện ấy có hay không?
Doãn Khắc Tây lắc đầu nói:
– Nếu ta muốn mượn sách, thì ta chỉ việc hỏi mượn là tiểu sư phụ cho mượn, hà tất phải điểm huyệt?
Giác Viễn gật đầu nói:
– Ờ, ờ, kể cũng có lý.
Trương Quân Bảo nói:
– Hai vị bảo không hề mượn, vậy có dám để cho tiểu tử lục soát trên người hay không?
Giác Viễn nói:
– Khám người thì quá ư vô lý. Nhưng vụ này phải trái chưa rõ, hai vị cư sĩ có cách gì hay, có thể cho biết?
Doãn Khắc Tây đang định giảo biện, Dương Quá cướp lời:
– Giác Viễn đại sư, bốn quyển “Kinh Lăng Già” có điểm nào đặc dị hay không?
Giác Viễn hơi trầm ngâm, nói:
– Người xuất gia không nói dối, Dương cư sĩ đã hỏi, tiểu tăng đành nói thật. Trong các chỗ trống của bộ “Kinh Lăng Già” còn có một bộ kinh thư khác do một vị cao nhân năm xưa viết vào, gọi là bộ “Cửu Dương chân kinh”.
Lời này vừa dứt, ai nấy giật mình. Thời trước các võ sĩ tranh đoạt “Cửu Âm chân kinh” mà dẫn đến chỗ chém giết nhau khắp cả thiên hạ, cuối cùng năm đại cao thủ tụ tập tại “Hoa Sơn luận kiếm”, bộ kinh đó rốt cuộc do Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất sở hữu. Sau đó việc Hoàng Dược Sư đuổi hết đệ tử, Chu Bá Thông bị nhốt ở đảo Đào Hoa, Âu Dương Phong tâm thần thác loạn, Đoàn hoàng gia xuất gia đi tu bao nhiêu việc đều có liên quan đến bộ “Cửu Âm chân kinh”. Ai dè ngoài bộ “Cửu Âm chân kinh” ra, lại còn có một bộ “Cửu Dương chân kinh” khác. Tên của bộ kinh thư này, mọi người lần đầu nghe thấy, còn bộ “Cửu Âm chân kinh” thì quá nổi tiếng, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Dương Quá, Tiểu Long Nữ đều đã trước sau nghiên tập, Cửu Dương và Cửu Âm thường được nhắc đến cùng nhau, nội dung mỗi loại mỗi vẻ, tất nhiên không phải tầm thường, mọi người vừa nghe xong, nhất thời xôn xao.
Giác Viễn không thấy sự kinh ngạc của mọi người, nói tiếp:
– Chức phận của tiểu tăng là giám quản Tàng kinh các, tất cả các bộ kinh thư tất nhiên đều phải xem qua một lượt. Cứ ngỡ trong kinh Phật toàn chép những câu danh ngôn chí lý, tiểu tăng rất tin tưởng, bộ “Cửu Dương chân kinh” này là do một vị cao nhân tiền bối sở soạn, trong kinh có rất nhiều pháp môn cường thân kiện thể, dịch cân tẩy tủy, tiểu tăng nhất nhất luyện theo mấy chục năm nay, kết quả là bách bệnh không sinh; mấy năm qua bèn truyền thụ một số môn dễ luyện cho Quân Bảo. Bộ “Cửu Dương chân kinh” chẳng qua chỉ dạy người ta bảo dưỡng cái thân xác hữu sắc hữu tướng mà thôi, cái thân xác hôi thối này vốn cũng không đáng gì cho lắm. Các thuật trong kinh thư tuy rằng cao thâm ảo diệu, nhưng chỉ là cái học bỉ tướng tiểu đạo, mất đi cũng không sao. Nhưng bản Kinh Lăng Già này là sao chép từ bản kinh của tổ sư mang từ Thiên Trúc tới, uống nước phải nhớ nguồn, nên thập phần trân trọng. Hai vị cư sĩ lại không biết văn tự Thiên Trúc, có mượn cũng vô dụng. Chi bằng hãy trả lại cho tiểu tăng.
Dương Quá thầm kinh hãi: “Giác Viễn đã học xong công phu thượng thừa trong võ học mà hoàn toàn không biết, cứ tưởng chỉ là pháp môn cường thân kiện thể, bách bệnh không sinh mà thôi. Chuyện lạ nhường này, trong võ lâm chưa từng xảy ra. Nếu mình không tận mắt chứng kiến Giác Viễn đại sư cố chấp, một mực giữ lễ, ắt sẽ cho rằng Giác Viễn cố ý giả bộ, giấu kín võ công. Chẳng trách các vị thiền sư cao tăng Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng chung sống với Giác Viễn mấy chục năm trong chùa mà không biết rằng đang ở bên cạnh một dị nhân”.
Nhất Đăng đại sư thì khẽ gật đầu, nghĩ thầm: “Vị sư huynh bảo “Cửu Dương chân kinh” chỉ là cái học bỉ tướng tiểu đạo, quả nhiên thâm ngộ Phật lý. Cái học Thiền tông cố nhằm minh tâm kiến tính. Nếu biết “Cửu Dương chân kinh” là võ công, thì Giác Viễn đã chẳng học theo”.
Doãn Khắc Tây vỗ vỗ trên người, cười, nói:
– Tại hạ tứ đại giai không, trên người làm gì có kinh thư?
Tiêu Tương Tử cũng phẩy phẩy áo, nói:
– Tại hạ cũng không có.
Trương Quân Bảo bỗng quát lên:
– Để ta tới lục soát!
Chàng ta bước tới giơ tay chộp lấy cổ tay trái Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây tay trái vùng ra, tay phải đẩy nhẹ vào vai cậu ta một cái, Trương Quân Bảo lập tức bị ngã lộn một vòng.
Giác Viễn kêu lên:
– Ôi trồi, không hay rồi, Quân Bảo! Ngươi hãy khí trầm Vu Uyên, lực ngưng Sơn Căn, theo đạo lý trong Cửu dương chân kinh.
Trương Quân Bảo lại hướng Doãn Khắc Tây mà đánh tới.
Mọi người đang chán chường, chợt nghe Giác Viễn chỉ điểm võ nghệ cho Trương Quân Bảo, đều vui thích, nghĩ bụng: “Không ngờ vị hòa thượng quân tử này cũng biết dạy đồ đệ đánh nhau”.
Chỉ thấy Trương Quân Bảo xông thẳng đến, Doãn Khắc Tây chộp lấy cánh tay chàng ta mà đẩy về phía trước một cái. Trương Quân Bảo y theo cách bình thời sư phụ đã dạy, khí trầm hạ bàn, cái đẩy của đối phương chỉ khiến nửa thân trên hơi nghiêng, còn toàn thân không bị xê dịch. Doãn Khắc Tây kinh ngạc, nghĩ: “Ta chỉ e ngại Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Dương Quá, là những đại cao thủ hạng nhất trong võ lâm, ngoài mấy người ấy ra, ta hoàn toàn có thể tung hoành thời nay, ai ngờ tới một tên tiểu hài đồng mà cũng không làm gì nổi”. Bèn gia tăng kình lực đẩy thật mạnh.
Trương Quân Bảo vận khí kìm lại. Không ngờ lực đẩy của Doãn Khắc Tây đột nhiên mất tiêu, Trương Quân Bảo đứng không vững, ngã chúi xuống đất. Doãn Khắc Tây đỡ dậy, cười nói:
– Tiểu sư phụ, không cần dùng đại lễ đâu.
Trương Quân Bảo đỏ bừng cả mặt, trở lại bên cạnh Giác Viễn, nói:
– Sư phụ, vẫn chưa được.
Giác Viễn lắc đầu, nói:
– Đấy là đối phương cố ý lấy “hư” và “không” để thắng “có”. Chân kinh có nói, trong lúc vận khí, ngươi cần phải vận khí ghìm mình, thây kệ ngoại lực từ phía nào đẩy tới. Ngươi hãy nhìn ngọn núi kia coi.
Đoạn chỉ tay về phía một ngọn núi nhỏ ở mé tây, nói tiếp:
– Ngọn núi sừng sững ở đó, thiên cổ vẫn vậy. Đại phong từ phía tây thổi tới, bạo vũ từ phía đông tràn sang, ngọn núi vẫn không di chuyển, cũng không cố ý kháng cự.
Trương Quân Bảo ngộ tính rất cao, nghe sư phụ nói xong liền gật đầu, nói:
– Sư phụ, đệ tử hiểu rồi, phải thử ngay thôi.
Rồi chậm rãi tiến tới trước mặt Doãn Khắc Tây.
Dương Quá thấy cậu ta hai lần lao vội tới, lần này được Giác Viễn chỉ dẫn vài câu, lập tức cước bộ trầm ổn, thì nghĩ: “Sư đồ cậu ta tu tập Cửu Dương chân kinh đã lâu, nhờ vậy nội công thâm hậu. Song hai người hoàn toàn không ngờ bộ kinh thư ấy không chỉ dạy cách cường thân kiện thể, mà còn dạy cách khắc địch chế thắng, hộ pháp phục ma, cho nên quyết khiếu đánh địch khi lâm trận họ lại chẳng biết chút gì”.
Trương Quân Bảo đến cách Doãn Khắc Tây chừng bốn thước, giơ hai tay nắm cánh tay đối phương. Doãn Khắc Tây cười hô hô, tay trái vỗ “bộp” một cái vào ngực Trương Quân Bảo. Đại địch đứng đầy xung quanh, Doãn Khắc Tây e ngại không dám đả thương Trương Quân Bảo, cái vỗ vừa rồi chỉ sử có một thành kình lực hi vọng làm cho đối phương cảm thấy đau, không dám gây sự với hắn nữa.
Trương Quân Bảo hoàn toàn không biết cách né tránh, vừa thấy bàn tay đối phương vụt qua trước mắt, ngực đã trúng một chưởng, bèn kêu lên:
– Sư phụ, đệ tử bị đánh.
Doãn Khắc Tây đánh một chưởng vào ngực Trương Quân Bảo, cảm thấy từ ngực đối phương có một luồng lực đàn hồi, đem chưởng lực trả lại, may mà hắn chỉ sử có một thành kình lực nếu không có khi đã nguy hại. Hắn huơ huơ tay trái, nắm lấy vai Trương Quân Bảo định nhấc bổng lên mà ném đi, song không nhấc lên nổi.
Doãn Khắc Tây ngượng ngùng bối rối, ngay mấy chiêu cầm nã thủ pháp của hắn cũng chỉ làm cho Trương Quân Bảo chao đảo chứ không ngã, bất đắc dĩ phải đánh mấy chưởng, cười nói:
– Tiểu sư phụ, ta không đánh nhau với ngươi đâu. Quân tử động khẩu không động thủ, ngươi hãy lui về đi, chúng ta nói lý lẽ thì hơn.
Mỗi chưởng của hắn đều đánh vào người Trương Quân Bảo, chưởng lực mạnh dần, nhưng cơ thể Trương Quân Bảo mỗi lần đều sinh ra phản lực, lực gia tăng thì lực đề kháng của đối phương cũng gia tăng tương ứng
Trương Quân Bảo kêu to:
– Ối, ối, sư phụ, y đánh đệ tử đau quá, sư phụ mau đến giúp đệ tử.
Doãn Khắc Tây nói:
– Ta bất đắc dĩ phải làm thế, là ngươi tới đánh ta, chứ không phải ta tới đánh ngươi. Lão sư phụ, sư phụ muốn đánh tại hạ, thì cứ việc đánh, sư phụ có ơn cứu mạng đối với tại hạ, tại hạ nhất quyết không dám đánh lại đâu.
Giác Viễn đắc ý, nói:
– Đúng, Doãn cư sĩ nói có lý… ừm, Quân Bảo, giúp thì ta không đến giúp, nhưng ngươi phải nhớ lời nói trong chân kinh, cần phân định hư thực cho rõ ràng, mỗi chỗ đều có hư thực, mọi chỗ đều có hư thực. Ngươi nhớ lời ta dặn, khí phải căng lên, thần cần thu vào, không có chỗ nào khuyết hãm, không có chỗ nào lồi lõm, không có chỗ nào gãy nối.
Trương Quân Bảo từ sáu, bảy tuổi làm công việc phục dịch trong Tàng kinh các, từ đấy Giác Viễn đem căn cơ công phu ghi trong “Cửu Dương chân kinh” truyền thụ cho cậu ta, có điều cả hai thầy trò đều không biết đó là tu vi nội công tinh thâm nhất trong võ học. Tăng chúng Thiếu Lâm đa phần tinh thông quyền nghệ, nhưng Giác Viễn cho rằng quả đấm không phù hợp với bản chỉ Phật gia, cũng không phải là hành động bậc quân tử nên làm, cho nên mỗi khi thấy người ta luyện võ, Giác Viễn đều tránh xa. Mãi đến lúc này, khi Trương Quân Bảo động thủ với Doãn Khắc Tây, Giác Viễn mới dạy cho đệ tử cách chống đỡ nhưng cũng chỉ để phòng thân, chứ hoàn toàn không có ý công kích kẻ địch. Trương Quân Bảo nghe sư phụ chỉ dạy, liền vận khí toàn thân, tuy không được như Giác Viễn nói “toàn thân không có chỗ nào khuyết hãm, không có chỗ nào lồi lõm, không có chỗ nào gãy nối”, song bất kể Doãn Khắc Tây ra đòn gì, cậu ta cũng chỉ cảm thấy hơi đau chứ không sao cả.
Nhưng không thể qua đó đem so sánh công lực của Doãn, Trương hai người với nhau. Doãn Khắc Tây nếu thực sự hạ sát thủ, dĩ nhiên có thể dễ dàng giết chết Trương Quân Bảo; nhưng hắn thấy Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh… đứng đầy bên cạnh, làm sao hắn dám hạ độc thủ? Hai người quấn lấy nhau hồi lâu, Trương Quân Bảo cố nhiên không thể lục soát người đối phương, mà Doãn Khắc Tây cũng không đánh ngã được Trương Quân Bảo.
Mấy người trong nhóm Dương Quá thấy tức cười, còn Tiêu Tương Tử thì không ngớt cau mày.
Quách Tương gọi:
– Tiểu huynh đệ, hãy xuất thủ đánh hắn đi chứ, sao huynh đệ chỉ chịu đòn mà không đánh trả?
Giác Viễn vội nói:
– Không được, chớ giận chớ buồn, chớ đánh chớ chửi!
Quách Tương nói:
– Huynh đệ cứ thỏa sức đánh hắn đi, đánh không lại thì ta sẽ tới giúp huynh đệ.
Trương Quân Bảo nói:
– Đa tạ cô nương!
Rồi vung quyền đánh vào ngực Doãn Khắc Tây.
Giác Viên lắc đầu, thở dài, nói:
– Nghiệt chướng, nghiệt chướng, giận dữ nổi lên, linh đài sẽ không thể như gương trong nước lặng.
Trương Quân Bảo đấm một quả vào ngực Doãn Khắc Tây, cậu ta chưa từng luyện quyền thuật, quả đấm này chỉ như người thường đấm đá, làm sao đả thương nổi đối phương? Doãn Khắc Tây ngoài miệng cười hô hố, nhưng trong lòng cảm thấy chật vật, hắn thành danh mấy chục năm nay, bất luận bằng hữu hay địch nhân đều không dám coi thường hắn, ai ngờ hôm nay trước mắt mọi người hắn lại không thể hạ gục một gã hài đồng, không dám giết đã đành, ngay cả quẳng nó ra xa cũng không thể, bảo sao không xấu hổ, chỉ có thể đánh không nhẹ không nặng, để cho nó thấy đau mà lui đi thôi.
Giác Viễn nghe Trương Quân Bảo không ngớt kêu đau, thì chỉ lên tiếng xin tha:
– Doãn cư sĩ, xin cư sĩ chớ nặng tay đả thương tính mạng tiểu đồ. Hài tử này rất thông minh, hiền lành, tốt bụng, nó biết tiểu tăng để mất kinh thư tổ truyền, trở về chùa tất bị phương trượng phạt nặng, nên mới bám riết lấy cư sĩ lục soát, xin cư sĩ chớ đánh nó thật…
Cầu xin một hồi rồi, Giác Viễn bất giác lại chỉ điểm cho Trương Quân Bảo:
– Quân Bảo, trong kinh có nói, cần dụng ý, không dụng kình. Theo người mà động, nên co nên duỗi, bị đánh chỗ nào, tâm phải dụng ở chỗ đó…
Trương Quân Bảo đáp:
– Vâng!
Thấy Doãn Khắc Tây quyền chưởng đánh tới đâu, tâm ý bèn đưa tới chỗ đó, quả nhiên dùng tâm sử kình, chỗ bị đánh bớt đau hẳn.
Doãn Khắc Tây nói:
– Cẩn thận này, ta đánh vào đầu ngươi đó!
Trương Quân Bảo giơ cánh tay trước mặt, tinh thần chăm chú, chờ đối phương đánh tới, nào ngờ Doãn Khắc Tây nhứ nhứ quả đấm, chân trái tung đòn, huỵch một cái, đá cho Trương Quân Bảo ngã lộn đi một vòng. Trương Quân Bảo lăn đến bên cạnh Dương Quá mới đứng dậy được.
Giác Viễn kêu lên:
– Doãn cư sĩ, sao cư sĩ lại nói dối lừa người như thế? Cư sĩ bảo nó cẩn thận, sẽ đánh vào đầu, song lại đá nó, cái này không phải là lừa gạt khiến người mắc mưu sao?
Mọi người nghe đều buồn cười, nghĩ bụng trong trò đấu võ, hư thực bất định, ai lại đi trách đối phương nói dối, đánh lừa?
Trương Quân Bảo tuy nhỏ tuổi, tâm ý lại kiên định, cậu xoa xoa chỗ chân bị đá, nói:
– Không lục soát không được!
Cậu ta lại định bước tới. Dương Quá giữ tay cậu ta lại nói:
– Tiểu huynh đệ, hãy khoan!
Trương Quân Bảo bị nắm cánh tay, nửa người lập tức tê dại, không thể cử động, kinh hãi ngoảnh đầu.
Dương Quá nói nhỏ:
– Tiểu huynh đệ chỉ chịu đòn không đánh trả, thì không thể chế ngự được hắn. Ta dạy cho huynh đệ một chiêu mà đánh hắn, hãy nhìn đây!
Đoạn phất ống tay áo rỗng bên phải trước mặt Trương Quân Bảo, tay trái đấm ra cách ngực Trương Quân Bảo nửa thước thì đột nhiên vòng xuống đánh vào mạng mỡ, miệng nói nhỏ:
– Sư phụ của tiểu huynh đệ dạy rằng bị đánh chỗ nào, tâm phải dụng ở chỗ đó. Câu ấy rất quan trọng, khi tiểu huynh đệ đánh người khác ở chỗ nào, tâm cũng phải dụng ở chỗ đó. Đánh người phải chú ý, như sư phụ tiểu huynh đệ vừa dặn, phải tập trung tinh thần, dụng ý chứ không dụng kình.
Trương Quân Bảo cả mừng, ghi nhớ chiêu thức Dương Quá vừa dạy, đến trước mặt Doãn Khắc Tây, hữu thủ thành chưởng, huơ lên trước mặt, tay trái đấm ngang ra, thẳng đến trước ngực Doãn Khắc Tây. Hắn giơ ngang cánh tay che kín, quả đấm của Trương Quân Bảo đột nhiên vòng xuống, hự một cái, đánh trúng mạng mỡ Doãn Khắc Tây.
Doãn Khắc Tây từng chịu qua một quyền của Trương Quân bảo, cảm thấy không thấy đau, không thấy ngứa, nên nhìn thấy Dương Quá truyền thụ chiêu số cho Trương Quân Bảo, hắn coi thường nghĩ rằng hắn có bị Trương Quân Bảo đấm một trăm quyền, hai trăm quyền, thì cũng chẳng sao. Ai ngờ một quyền vào mạng mỡ lại làm cho hắn đau thấu xương, toàn thân run rẩy, đau đến cong gập người lại.
Doãn Khắc Tây không biết Trương Quân Bảo đã luyện công phu cơ bản trong “Cửu Dương chân kinh”, chân lực sung mãn, không chút tầm thường, có điều chưa từng sử dụng, bây giờ được sư phụ và Dương Quá chỉ điểm, hiểu cách dụng ý không dụng kình, giống như bảo kiếm đã rút khỏi bao, uy lực của sự sắc nhọn đã khác hẳn lúc còn ở trong bao.
Doãn Khắc Tây vừa kinh ngạc vừa tức giận, thấy Trương Quân Bảo lại lặp lại chiêu vừa xong, biết đối phương sắp đấm xuống mạng mỡ, bèn chộp lấy cổ tay phải, giáng một chưởng, đẩy Trương Quân Bảo văng ra xa mấy trượng.
Trương Quân Bảo nội lực tuy mạnh, nhưng khi lâm địch chưa biết chút gì về cách chiết giải, làm sao địch nổi Doãn Khắc Tây? Cú văng vừa rồi, trán cậu ta bị chạm vào đá, máu chảy ròng ròng. Cậu ta không ngán, đưa tay áo lau máu, đến bên cạnh Dương Quá, quì xuống khấu đầu, nói:
– Dương cư sĩ, xin dạy thêm cho tiểu đệ một chiêu.
Dương Quá nghĩ thầm: “Nếu mình để cho Doãn Khắc Tây nhìn thấy, hắn sẽ có đề phòng, mất hết uy lực”. Bèn ghé tai Trương Quân Bảo nói nhỏ:
– Lần này ta sẽ dạy cho tiểu huynh đệ ba chiêu liền. Chiêu thứ nhất tả hữu hỗ điều, khi ta dùng tay trái, kỳ thực là phải dùng tay phải, còn khi ta dùng ống tay áo bên phải, thì lúc đánh hắn, tiểu huynh đệ phải dùng tả quyền.
Trương Quân Bảo gật đầu. Dương Quá liền dạy cho cậu ta chiêu “Thôi tâm trí phúc”, Trương Quân Bảo làm theo, xuất quyền đẩy chưởng, ghi nhớ cách tả hữu hỗ điều.
Dương Quá nói:
– Chiêu thứ hai, ta dùng tay trái là dùng tay trái, dùng ống tay áo bên phải là dùng tay phải, gọi là chiêu “Tứ thông bát đạt”, thế quyền đi mở lớn khép rộng, đều đầy uy lực.
Trương Quân Bảo làm thử hai lần thì nhớ.
Dương Quá lại nói nhỏ:
– Chiêu thứ ba “Lộc tử thùy thủ”, là chiêu khó nhất, bộ vị không được nhầm lẫn. Tiểu huynh đệ không biết nhận huyệt cũng không sao, ta sẽ đánh dấu huyệt ấy trên lưng hắn, tiểu huynh đệ cứ việc dùng ngón tay ấn mạnh chỗ đó là chế ngự được hắn.
Rồi chàng xoay người, xoay phải vặn trái, đột nhiên tay trái biến thành hình hổ trảo, ngón tay giữa đặt trên ngực Trương Quân Bảo, nói nhỏ:
– Chiêu này toàn dựa vào bộ pháp thủ thắng, tiểu huynh đệ nhớ chưa?
Trương Quân Bảo gật đầu, nói:
– Nhớ rồi!
Cậu ta nhẩm lại trong óc một lần, rồi bước tới trước mặt Doãn Khắc Tây.
Lúc Dương Quá dạy chiêu số, Doãn Khắc Tây nhìn rõ rành rành, nghĩ bụng: “Ba chiêu này quả thật tinh diệu, nếu là Dương Quá nhà ngươi đột nhiên thi triển đánh ta, thì ta cũng khó chống đỡ, nhưng nhà ngươi đã diễn trước mặt ta, lại để cho thằng nhãi con không biết võ công kia thi triển, nếu ta không đối phó nổi, chẳng hóa ra Doãn Khắc Tây này ngu xuẩn quá sao. Dương Quá ơi là Dương Quá, nhà ngươi coi thường người khác quá đấy”. Hắn bực tức nên cũng không cần nghĩ sâu, thấy Trương Quân Bảo đến gần, không đợi cậu ta xuất chiêu, liền giáng một quyền vào vai cậu ta. Trương Quân Bảo sợ lẫn lộn chiêu số Dương Quá vừa dạy, thấy đối phương đấm tới đành nghiến răng chịu đau không tránh. Doãn Khắc Tây một quyền này cốt trước tiên đánh gục uy thế, nên sử dụng năm thành kình lực, khiến xương vai Trương Quân Bảo kêu lách cách. Trương Quân Bảo vừa kêu đau, hữu chưởng tả quyền tung ra, thi triển chiêu thứ nhất “Thôi tâm trí phúc”.
Lúc Dương Quá truyền thụ quyền pháp cho Trương Quân Bảo, Doãn Khắc Tây đã nhìn rất rõ, nên đã có cách ứng phó, quyết làm cho Trương Quân Bảo sứt đầu chảy máu, không còn khả năng thi triển chiêu thứ hai, thứ ba nữa. Ai ngờ chiêu “Thôi tâm trí phúc” này Trương Quân Bảo lúc thi triển phương vị lại tả hữu hỗ điều, ngược hẳn với Dương Quá. Doãn Khắc Tây gạt ngang cùi chỏ bên trái, tưởng có thể gạt hữu chưởng của Trương Quân Bảo, không ngờ chỉ gạt vào khoảng không, hự một tiếng, bị trúng luôn một quyền, tay phải lại chộp vào khoảng không, bụng dưới lại trúng một chưởng, chỉ cảm thấy nội tạng đảo lộn, toàn thân vã mồ hôi lạnh, hai đòn quả không nhẹ chút nào. Nếu hắn không tự cho mình giỏi, cứ chờ Trương Quân Bảo xuất chiêu rồi hãy chiết giải, thì quyền pháp sở học của Trương Quân Bảo dẫu có tinh diệu, cậu ta cũng chưa thể xuất chiêu nhanh như chớp, Doãn Khắc Tây hoàn toàn có thể thong dong hóa giải; giả dụ có bị trúng một quyền, thì cũng tránh được đòn thứ hai.
Trương Quân Bảo một chiêu đắc thủ, phấn chấn hẳn lên, tiến lên một bước, thi triển chiêu thứ hai “Tứ thông bát đạt”. Chiêu này tuy chỉ là một chiêu quyền pháp, nhưng hàm chứa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, tám cửa Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Tử, Cảnh, Kinh, Khai. Doãn Khắc Tây bụng đau chưa đỡ, thấy cậu bé lại sấn tới tấn công, vừa rồi hắn bị trúng đòn, đã ngộ ra rằng quyền pháp Dương Quá truyền thụ là theo kiểu tả hữu hỗ điều, cứ tưởng chiêu này cũng hoán đổi phương vị, thấy cậu bé xuất thủ cực nhanh, bèn bước sang trái phóng quyền đánh trước. Hắn đâu ngờ chiêu này phương vị không hề tả hữu hỗ điều. Hắn liệu địch đã sai, khi xuất chiêu lại toàn đánh vào khoảng không, còn chính hắn thì lại bị trúng chưởng liên tiếp ở vai trái, đùi phải, trước ngực, sau lưng. May mà Trương Quân Bảo đánh nhanh quá không dễ vận nội lực, nên Doãn Khắc Tây bị trúng bốn chưởng không đau mấy, chỉ luống cuống chân tay mà thôi.
Giác Viễn bỗng gọi:
– Doãn cư sĩ, vừa rồi cư sĩ nhầm lẫn. Nên biết trước sau phải trái hoàn toàn không định hướng, hậu phát chế nhân, tiên phát chế vu nhân. (Ra tay sau chế ngự người, ra tay trước bị người chế ngự)
Dương Quá nghĩ: “Vị hòa thượng này dẫn lời từ chân kinh, thật không phải tầm thường mấy, câu vừa nói giúp mình không ít. Hậu phát chế nhân, tiên phá chế vu nhân, cái lý này trước đây mình chỉ lờ mờ ngộ ra, chưa từng nghĩ đến rõ ràng như vậy. Khi đệ tử của hòa thượng giao đấu với kẻ khác, hòa thượng lại đi chỉ điểm cho đối phương, kể cũng lạ thật”. Nhưng chàng lại nghĩ: “Với thiên tư của Doãn Khắc Tây thì có ngẫm nghĩ dăm ba năm, cũng chưa hiểu ra đạo lý ấy đâu”.
Doãn Khắc Tây nghe Giác Viễn, đâu nghĩ rằng Giác Viễn vừa vô tình thổ lộ quyết khiếu võ học thượng thừa, chỉ cho rằng Giác Viễn cố ý nói nhăng nói cuội để làm rối trí hắn, bèn quát:
– Lão giặc trọc, nói thối lắm. Ái da…
Tiếng “Ái da” là do hắn bị trúng một cước của Trương Quân Bảo vào chân trái. Hắn cuồng nộ, giơ cao song chưởng, liều mạng chịu thêm một quyền của Trương Quân Bảo, vận mười thành kình lực mà giáng xuống.
Trương Quân Bảo chưa kịp sử chiêu thứ ba, dưới ánh trăng chỉ thấy râu tóc đối phương dựng nguợc, một luồng chưởng lực nặng như núi đè xuống đỉnh đầu, vội kêu:
-Thôi chết!
Định nhảy lùi lại thì toàn thân đã bị chưởng lực bao trùm.
Giác Viễn nói:
– Quân Bảo, lực của ta tiếp lực của người, trong cong cầu thẳng, mượn lực đánh người phải dùng phép tứ lạng bạt thiên cân.
Mấy câu nhắc của Giác Viễn đúng là tinh nghĩa của quyền học trong “Cửu Dương chân kinh”, tiếc rằng nói ra quá muộn, rơi vào tình thế này, Trương Quân Bảo dù có thông minh tuyệt đỉnh cũng không thể nào hiểu ngay để dùng nó hoá giải chưởng lực của kẻ địch. Lúc này cậu ta bị chưởng lực của Doãn Khắc Tây đè cho ngộp thở, đầu óc trống rỗng, toàn thân lạnh toát như rơi vào hố băng.
Doãn Khắc Tây bị trúng đòn liên tiếp, nên dốc toàn lực vào chưởng này, quyết hạ gục gã thiếu niên cứ bám lấy hắn không buông, dù đám người kia có tha cho hắn hay không cũng thây kệ, gì thì cũng phải rửa cái nhục với gã thiếu niên vô danh tiểu tốt này. Sắp đắc thắng, hắn bỗng nghe “chíu”, một viên sỏi bay ngang tới má trái của hắn, viên sỏi tuy nhỏ, song kình lực lớn mạnh khác thường. Doãn Khắc Tây không làm gì được, đành lùi lại tránh né.
Viên sỏi chính là được Dương Quá dùng công phu “Đạn chỉ thần thông” bắn tới, trước khi bắn viên sỏi, chàng đã ngắt mấy đóa hoa tươi, vo thành viên tròn, lúc viên sỏi bay đi, chàng cũng búng luôn mấy viên tròn đó. Viên sỏi bay ngang tới má trái của Doãn Khắc Tây, còn mấy viên tròn đó thì bay sượt qua sau lưng hắn. Doãn Khắc Tây bị viên sỏi buộc phải lùi lại một bước, tự mang huyệt Đại Chùy ở sau lưng hắn chạm vào “viên hoa” kia.
Nếu Dương Quá búng mấy “viên hoa” trúng vào huyệt đạo, mấy “viên hoa” ấy tuy nhỏ, cũng tất có kình phong, Doãn Khắc Tây sẽ đỡ hoặc tránh được. Nhưng lúc này hắn tự mang huyệt đạo của mình đâm vào viên hoa, nên không phát giác ra, áo của hắn có đánh dấu vị trí huyệt đạo bằng nước hoa màu hồng.
Doãn Khắc Tây lùi lại, sức ép chưởng lực đè xuống thân thể Trương Quân Bảo lập tức mất đi, cậu ta liền bước sang mé tây một bước, thi triển chiêu thứ ba “Lộc tử thùy thử” mà Dương Quá đã dạy.
Doãn Khắc Tây ngẩn người, nghĩ: “Chiêu thứ nhất nó hoán đổi phương vị phải trái, chiêu thứ hai bỗng nhiên không hoán đổi, còn chiêu này ta không thể lỗ mãng, phải nhìn rõ thế quyền đánh tới đâu mà đối phó”. Hắn nghĩ thế không sai, chỉ tiếc là sớm đã nằm trong dự liệu của Dương Quá. Khi truyền thụ chiêu này, Dương Quá đã đoán rằng nhất định hắn sẽ chậm lại, nhưng thời cơ chỉ trong giây lát, chiêu “Lộc tử thùy thử (Hươu chết sẽ vào tay ai?) này phải thần tốc, cổ nhân có câu “Hươu đã trúng tên, thiên hạ cùng đuổi theo”, há có thể do dự chậm trễ?
Trương Quân Bảo nhào bên trái ngoặt sang phải, đã vòng ra sau lưng Doãn Khắc Tây; lúc này ánh trăng chiếu vào lưng hắn, thấy rõ trên cổ áo có vết màu hồng to bằng đốt ngón tay. Trương Quân Bảo nghĩ: “Dương cư sĩ thần thông quảng đại, không thấy cư sĩ bước tới đây làm sao có thể đánh dấu sau lưng hắn?” Bèn không kịp suy nghĩ, dùng ngón tay trái gập thành hình hổ trảo, muốn truyền chân khí, ấn mạnh xuống chỗ đánh dấu. Huyệt Đại Chùy này rất hệ trọng, là nơi giao hội của Thủ, Túc Tam Dương Đốc mạch, ở đốt sống lưng thứ nhất, bên dưới ba đốt cổ gáy. Thân người có hai mươi bốn đốt sống lưng, Y kinh thời cổ nói là ứng với hai mươi bốn tiết khí, huyệt Đại Chùy là tiết khí thứ nhất. Huyệt Đại Chùy của Doãn Khắc Tây bị ấn mạnh, chân tay hắn tê dại, hai gối mềm nhũn, tức thời khuỵu xuống.
Mọi người đứng xem đều hoan hô, trừ một mình Tiêu Tương Tử.
Trương Quân Bảo thấy kẻ địch đã không thể chống cự, bèn nói:
– Đắc tội!
Rồi đưa tay lục soát khắp người Doãn Khắc Tây một hồi, nhưng không thấy kinh “Lăng Già” đâu cả.
Trương Quân Bảo ngẩng lên nhìn Tiêu Tương Tử. Tiêu Tương Tử đã hiểu ý cậu bé, nghĩ bụng võ công hắn tương đương Doãn Khắc Tây, Doãn Khắc Tây đã bị gã thiếu niên này hạ nhục, thì hắn biết đối phó cách gì hay hơn?
Bèn vỗ vỗ áo mấy cái, nói:
– Trên người ta cũng không có kinh thư, hẹn ngày sau gặp lại.
Rồi hắn lao vút đi về mạn tây nam.
Giác Viễn phẩy tay áo một cái, đã chắn trước mặt hắn. Tiêu Tương Tử nảy sinh ác niệm, hắn hít một hơi, vận toàn bộ nội kình mà hắn khổ luyện được trong thâm sơn vào song chưởng, một luồng âm phong ngần ngật ập tới ngực Giác Viễn.
Dương Quá, Chu Bá Thông, Nhất Đăng, Quách Tĩnh bốn người cùng kêu lên:
– Coi chừng kìa!
Chỉ nghe “bình” một tiếng, ngực Giác Viễn đã trúng chưởng, ai nấy thầm thốt lên: “Nguy rồi!” Song chỉ thấy Tiêu Tương Tử bay văng đi mấy trượng như một cái diều đứt dây, rồi rơi xuống đất, nằm co quắp ngất lịm. Thì ra Giác Viễn không biết võ công, song chưởng của Tiêu Tương Tử giáng vào người Giác Viễn, Giác Viễn đã không thể chống đỡ, cũng không biết tránh né, chỉ đứng chịu trận, nhưng Giác Viễn tu tập “Cửu Dương chân kinh” đã tới mức đại thành, chân khí trong người lưu chuyển, địch yếu mình yếu, địch mạnh thì mình mạnh. Chưởng lực đánh vào người Giác Viễn bật ngược cả lại, thành thử Tiêu Tương Tử coi như dùng công lực cả đời mà đánh chính mình, làm sao không bị trọng thương?
Mọi người vừa kinh ngạc vừa vui mừng, cùng tấm tắc khen Giác Viễn nội lực mạnh mẽ. Nhưng Giác Viễn không hiểu, chỉ nói:
– A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Trương Quân Bảo cúi xuống lục soát khắp người Tiêu Tương Tử, cũng không thấy kinh thư.
Dương Quá trong lòng bội phục, tiến lên cung kính hành lễ, nói :
-Thần công của đại sư tu vi đến thế, thế gian hiếm gặp, vãn bối bội phục.
Giác Viễn nói :
-Cư sử vừa mới chỉ điểm cho tiểu đồ, chế phục ác nhân, tiểu tăng đa tạ.
Dương Quá nói :
-Không dám.
Rồi lui trở lại bên cạnh Tiểu Long Nữ.
Hoàng Dung nói :
-Đại sư, tiểu nữ có một chuyện không rõ, muốn thỉnh đại sư chỉ điểm :
-Giác Viễn nói :
-Không dám. Nữ thí chủ có gì thắc mắc, tiểu tăng nếu biết thì tự nhiên sẽ phụng cáo.
Hoàng Dung nói :
-Đại sư vừa mới nói lúc nãy, ở các chỗ trống
trong bốn quyển kinh Lăng Già, có một bộ kỳ thư võ học gọi là Cửu dương chân kinh. Tiểu nữ nghĩ Đạt Ma tổ sư là người Thiên Trúc, thì sẽ viết bằng chữ Phạn Thiên Trúc. Tiểu đệ Trương Quân Bảo được đại sư chỉ điểm, mới có thể đọc và hiểu được. Còn hai gã ác nhân cướp kinh thư kia không biết tiếng Phạn, há không phải phí công sao?
Giác Viễn hơi mỉm cười, nói :
-Bộ Cửu duông chân kinh này lại được viết bằng chữ Hán.
Hoàng Dung nói :
-Nghe bảo Đạt Ma tổ sư tuy có thể nói chuyện với người Hán ta bằng tiếng Hán, nhưng lại không biết viết chữ Hán, chẳng lẽ vị tổ sư Bồ Tát này Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại, muốn viết là viết được chăng?
Quách Tương liếc mắt, thấy vết thương trên đầu của Trương Quân Bảo vẫn còn rỉ máu, vì thế lấy khăn tay băng bó cho y, nghĩ đến Dương Quá liền sẽ cùng Tiểu Long Nữ rời đi, từ nay về sau không biết có còn gặp lại hay không, trong lòng đau xót, nước mắt lưng tròng. Trương Quân Bảo thấy mọi người đều thần sắc ôn hòa, chỉ có vị tỷ tỷ xinh đẹp thân thiện này lại buồn bã rơi nước mắt, không rõ nguyên do, cũng không dám hỏi, vốn dĩ muốn cảm tạ mà lại không nói nên lời.
Chỉ nghe Giác Viễn nói :
-Đạt Ma Tổ Sư ban đầu đến Trung Hoa, là thời Lương triều Lương Võ Đế, lúc đó ở nước ta sớm có giấy viết, mà bên Thiên Trúc lại không có giấy, muốn có được kinh văn thì toàn phải lấy kim thích lên vỏ sò bằng chữ Phạn. Đạt Ma tổ sư mang theo kinh Lăng Già, chính là viết bằng Phạn văn trên vỏ sò. Vỏ sò dễ vỡ, không dễ để đọc hay tụng niệm, tổ sư sau khi độ giang tới Thiểu Lâm, thì các tăng lữ tiền bối liền sao chép lại nguyên bản kinh văn chữ Phạn lên giấy. Đính các trang lại với nhau tạo thành bốn bản kinh Lăng già bằng chữ Phạn. Bốn quyển kinh Lăng Già này có chỗ trống rất lớn giữa các hàng chữ, không biết từ lúc nào, có một vị cao tăng tiền bối đã viết vào các chỗ trống đó bốn quyền Cửu dương chân kinh, chính là công pháp tu tập nội công, cường thân kiện thể, rất là cao thâm bí ảo. Tiểu tăng phụng mệnh trông giữ dọn dẹp Tàng Kinh Các, phàm các kinh trong đó, tiểu trăng đều phải đọc, Phật Tổ cùng với các lời thánh huấn kim ngôn và lịch đại các vị cao tăng, đều được tiểu tăng nhớ kỹ trong lòng, tự thể nghiệm không hề vi phạm. Theo lời nói trong Cửu duơng chân kinh, đều không phải chân lý giúp thoát khổ, đạt Niết Bàn, cũng không phải nói đến con đường đạt đến sự trống không, càng không tỏ rõ về lý duyên khởi hay chư pháp thực tướng, tiểu tăng không có người chỉ điểm, cũng không dám đi nhờ các vị phương trượng hay các cao tăng trong chùa chỉ bảo, đành phải tự đọc rồi nhớ trong lòng, theo đó tu tập, lúc rảnh cũng truyền một ít cho tiểu đồ Quân Bảo. Nếu như tiểu đồ dùng nó để tranh đấu tàn nhẫn, đánh nhau với người, thì không hợp với đường lối đại từ đại bi của nhà Phật ta.
Bọn Hoàng Dung, Dương Quá nghe xong, không khỏi cứng họng, nghĩ thầm :
-Vị hòa thượng này cực kỳ cổ hủ, nói chuyện với ông ta cũng không tới đâu.
Dương Quá nói:
– Lúc nãy tại hạ nghe hai tên gian tặc này nói chuyện với nhau, bộ kinh thư chúng đã lấy trộm được rồi, chỉ không biết chúng giấu ở chỗ nào mà thôi.
Võ Tu Văn nói:
– Chúng ta hãy tra khảo chúng một phen, xem chúng có chịu khai ra hay không.
Giác Viễn nói:
– Tội quá tội quá, nhất định không nên làm như vậy.
Lúc ấy bỗng nghe ở dốc núi mé tây có tiếng chân vượn rầm rập. Mọi người ngoảnh nhìn, thấy Thần điêu của Dương Quá đang vẫy cánh xua đuổi một con vượn. Con vượn này to lớn lạ lùng, nhưng nó sợ Thần điêu hung dữ, không dám đánh nhau, cứ chạy qua chạy lại, kêu lên kinh hãi.
Doãn Khắc Tây đứng dậy, dìu Tiêu Tương Tử, vẫy vẫy con vượn. Con vượn chạy tới bên hắn, tựa hồ nó được Doãn Khắc Tây thuần dưỡng. Hai người một vượn thong thả khập khiễng đi xuống núi. Mọi người thấy Trương Quân bảo lục soát chúng, trên người không thấy bản sao kinh thư, cho rằng có gặng hỏi thêm cũng không có kết quả, lại thấy tình cảnh của chúng, cảm thấy thương hại, cũng không gây khó dễ với hai tên kia nữa.
Giác Viễn cùng Trương Quân Bảo không truy được kinh thư, liền hướng bọn Nhất Đăng, Dương Quá nói lời cảm tạ, rồi cao biệt mà xuống núi.
Dương Quá cao giọng nói:
– Cuộc gặp gỡ hôm nay thật là hào hứng. Sau này giang hồ tương hội, sẽ lại uống rượu chuyện trò. Chúng ta từ biệt ở đây.
Nói rồi chàng hướng về các vị tiền bối Nhất Đăng, Chu Bá Thông, Anh Cô, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Điểm Thương Ngư Ẩn, Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu để hành lễ bái biệt, rồi cáo biệt với tỷ muội Trình Anh, Lục Vô Song, quay đầu sang Quách Tương nói :
-Tiểu muội tử, muội hãy bảo trọng, có việc gì khó xử, tuy không có kim châm, nhưng huynh vẫn sẽ vì muội mà làm.
Trước kia chàng tặng nàng ba cái kim châm, đồng ý làm cho Quách Tương ba việc lớn, lúc này không tặng kim châm, đồng nghĩa với việc có ít hay nhiều việc khó, đều cũng sẽ thực hiện, không hề từ chối.
Quách Tương nghẹn ngào, nói :
-Đa tạ đại ca ca. Đa tạ Dương đại tẩu.
Dương Quá lại cùng Gia Luật Tề, Quách Phù, vợ chồng huynh đệ họ Võ bắt tay, rồi phất tay áo, nắm tay Tiểu Long Nữ, cùng Thần điêu sánh vai nhau đi xuống núi.
Lúc này trăng sáng, gió nhẹ rì rào, những con quạ đậu trên cây kêu lên quang quác. Quách Tương không nhịn được nữa, lệ ứa ra thành hai hàng trên má.
Chính là:
Mùa thu con gió trong veo
Mùa thu trăng sáng dõi theo bóng nàng
Lá bay kìa hợp rồi tan
Lạnh lùng quạ khóc mênh mang đêm trường
Bao giờ gặp lại người thương
Đêm nay tình ấy tỏ tường cùng ai
[Bộ tiểu thuyết này đến đây là hết. Các nhân vật Quách Tương, Trương Quân Bảo, Giác Viễn, sự tích “Cửu Dương chân kinh” sẽ được kể tiếp trong bộ tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long ký ]